VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TƠ HẰNG NI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
CHO ĐỒNG BÀO CHĂM VÀ KHMER TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TƠ HẰNG NI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GNBV
CHO ĐỒNG BÀO CHĂM VÀ KHMER TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG
Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN MINH
HÀ NỘI, 2021
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận trong phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), đặc biệt là cơng cuộc xóa đói giảm
nghèo và nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Với mục tiêu phát
triển bình đẳng, đồng đều ở tất cả các vùng, miền, các cộng đồng xã hội, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều nỗ lực xây dựng các chính sách nhằm tăng cơ hội cho các hộ
nghèo, vùng đặc biệt khó khăn (ĐBKK), nhất là là các đối tượng nghèo ở vùng
DTTS gặp nhiều hạn chế trong tiếp cận các nguồn lực xã hội, đảm bảo tính cơng
bằng và tồn diện hơn.
Chăm lo, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người nghèo nói chung và
đồng bào DTTS nói riêng là một trong những chủ trương xuyên suốt của Đảng và
Nhà nước ta, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu
thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc.
Trước yêu cầu của quá trình hội nhập tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế trong
nước, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội, làm cho sự phân hóa giàu nghèo
giữa các vùng, miền giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng, rõ nét nhất là các
vùng đồng bào DTTS. Việc giảm nghèo cho đồng bào các DTTS nếu được thực
hiện tốt là một trong những yếu tố cơ bản để thực hiện chính sách đại đồn kết tồn
dân tộc ở nước ta cùng tiến lên đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thời gian qua, Nhà nước đã xem Chương trình giảm nghèo cho đồng bào
DTTS là một trong những chương trình mục tiêu quốc gia, là nội dung được đề cập
nhiều trong các Văn kiện Đại hội của Đảng các khóa. Đảng ta đã có những ưu tiên
đặc biệt, xây dựng nhiều chính sách giảm nghèo đa dạng, tác động đến mọi mặt đời
sống của đồng bào các DTTS. Hệ thống chính sách, pháp luật về DTTS, khơng
ngừng được hồn thiện, ưu tiên bố trí, huy động nguồn lực để thực hiện và đã đạt
được những kết quả quan trọng, không chỉ hỗ trợ trực tiếp về đời sống cho đồng bào
DTTS nói chung mà còn mở ra cho họ nhiều cơ hội về sinh kế, tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ xã hội, công nghệ thông tin…
An Giang là một tỉnh biên giới thuộc vùng đồng bằng sơng Cửu Long
(ĐBSCL), có 4 dân tộc chủ yếu là: Kinh, Hoa, Chăm và Khmer, trong đó hai DTTS
có tỷ lệ nghèo cao nhất là đồng bào dân tộc Chăm và dân tộc Khmer. Trong những
năm qua, Đảng bộ và chính quyền các cấp của tỉnh An Giang luôn nhận thức rõ ý
1
nghĩa, tầm quan trọng của công tác giảm nghèo, đặc biệt là giảm nghèo trong đồng
bào DTTS, nên đã có nhiều chủ trương, chính sách giúp người dân từng bước giảm
nghèo bền vững (GNBV). Bên cạnh đó, các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn
tỉnh An Giang đã thực hiện các chính sách hỗ trợ cho đồng bào DTTS. Nhiều giải
pháp đã được triển khai trên địa bàn có người DTTS và mang lại nhiều kết quả khả
quan, đời sống của các hộ nghèo người DTTS từng bước được nâng lên, góp phần
cùng chung tay kiến thiết quê hương ngày càng phát triển.
Tuy nhiên còn nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau làm ảnh
hưởng đến chất lượng và tốc độ giảm nghèo nhanh, bền vững của người DTTS trên
địa bàn tỉnh. Một số chỉ tiêu giảm nghèo cịn mang tính đại trà chưa phù hợp với
phong tục, lối sống của người dân địa phương; công tác giảm nghèo chưa đi vào
chiều sâu, chưa đạt được mục tiêu của tỉnh đã đề ra.
Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giảm
nghèo, GNBV cho đồng bào DTTS tỉnh An Giang trong thời gian tới là vấn đề cấp
thiết, vì vậy tơi chọn đề tài Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cho đồng
bào Chăm và Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang làm luận văn thạc sĩ với mục đích
góp phần làm rõ hơn thực trạng nghèo và thực hiện chính sách GNBV đối với các
DTTS nói chung và dân tộc Chăm, Khmer nói riêng trong thời gian qua. Trên cơ sở
đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
GNBV cho đồng bào DTTS của tỉnh trong giai đoạn tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xóa đói giảm nghèo là một chương trình lớn và có tính nhân văn sâu sắc của
Đảng và nhà nước ta, nhằm thực hiện an sinh và đảm bảo công bằng xã hội. Chính
vì vậy có nhiều nhà quản lý quan tâm, đặc biệt là việc xây dựng chính sách nhằm
đạt mục đích GNBV. Thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo được cơng bố, đăng tải kết quả dưới
dạng đề các tài khoa học, bài báo, sách chuyên khảo, luận án, luận văn. Trong đó,
đáng chú ý là một số cơng trình sau:
Cuốn sách của Hà Quế Lâm 2002 về “Xóa đói giảm nghèo ở vùng DTTS”, đã
trình bày thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, đặc biệt là đối với vùng đồng bào DTTS
cịn nhiều khó khăn về các điều kiện và phương tiện sản xuất dẫn đến nghèo và
chiến lược để nâng cao hiệu quả xóa đói GNBV đối với vùng đồng bào DTTS nước
ta.
2
Bài viết của GS.TS Đặng Nguyên Anh ngày 13/11/2015 về “Nghèo đa chiều ở
Việt Nam: Một số vấn đề chính sách và thực tiễn” đã nói lên thực trạng đói nghèo là
một trong những rào cản lớn làm giảm khả năng phát triển con người, cộng đồng
cũng như mỗi quốc gia. Người nghèo thường khơng có điều kiện tiếp cận các dịch
vụ xã hội như việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thơng tin, và điều đó khiến
cho họ ít có cơ hội thốt nghèo.
Bài viết của Hồng Tân trên trang : ngày 31/10/2018
về “Để GNBV cho đồng bào DTTS cần tích hợp các chính sách” đã đề xuất Chính
phủ tập trung triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm. Đó là, tiếp tục
quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng ở vùng đồng bào DTTS trước hết là giao thông,
thông tin liên lạc để kết nối vùng DTTS với vùng phát triển nhằm thu hút đầu tư,
kết nối tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục giải quyết cơ bản vấn đề đất ở, đất sản xuất, nước
sinh hoạt, dạy nghề, tạo sinh kế cho đồng bào có thu nhập ổn định, đảm bảo đời
sống một cách bền vững.
Bài viết của Nguyễn Tuân trên ngày 07/11/2017
về “Giải pháp cho đồng bào Khmer ở ĐBSCL thoát nghèo bền vững” đã nêu các
nguyên nhân dẫn đến nghèo của đồng bào Khmer ở ĐBSCL ngoài các yếu tố tác
động từ thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... cịn do những vấn đề như thiếu vốn
sản xuất, sử dụng đồng vốn chưa hiệu quả, thiếu đất sản xuất, thiếu tay nghề, hồn
cảnh gia đình neo đơn, một số phong tục tập quán còn lạc hậu, cách thức quản lý và
tổ chức cuộc sống của một bộ phận người dân chưa chặt chẽ. Đồng thời đề nghị
Chính phủ cần quan tâm, hỗ trợ các địa phương có đơng người Khmer phát triển nét
đặc trưng về văn hóa độc đáo của đồng bào (sân khâu dù kê, dì kê, hình thái hát
múa sinh hoạt dân gian, phát triển dàn nhạc ngũ âm…) để phát triển du lịch. Đối với
đồng bào dân tộc Khmer, việc quan tâm nâng cao đời sống vật chất phải đi liền với
đời sống tinh thần. Đây là vấn đề then chốt trong các giải pháp giảm nghèo nhằm
đạt được mục tiêu GNBV trong đồng bào dân tộc Khmer vùng ĐBSCL.
Bài viết của Lê Thiện Minh và Nguyễn Văn Cọp trên Tạp chí khoa học
Trường Đại học An Giang, số 04/2018 về “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu
quả chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang” đã chỉ
ra những hạn chế trong giảm nghèo do có q nhiều chính sách về giảm nghèo nên
gây ra lúng túng trong triển khai; nhiều chính sách giảm nghèo chưa nhằm vào nâng
cao năng lực tự thốt nghèo, cịn mang tính bao cấp, hỗ trợ trực tiếp nên hình thành
3
tâm lý ỷ lại, thụ động của đồng bào Khmer; chính sách ban hành căn cứ trên hiện
trạng, nhu cầu nhưng lại chưa cân đối được nguồn lực để thực hiện; phân bổ chưa
tương xứng giữa đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và hỗ trợ sản xuất kinh doanh
tạo thu nhập cho đồng bào dân tộc, vì người nghèo ít có cơ hội hưởng lợi do cơng
trình hạ tầng mang lại, do họ ít có điều kiện để đa dạng hóa sinh kế; chính sách
giảm nghèo hiện tại chủ yếu tập trung vào tăng thu nhập cho người nghèo, chưa chú
trọng đúng mức việc tăng phúc lợi cho người nghèo;… Ngoài việc nêu ra hạn chế
về các chính sách giảm nghèo, tác giả đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp
giảm nghèo cho đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh, gồm: các chính sách có cùng nội
dung cần được tích hợp, lồng ghép lại và do một cơ quan chủ trì thực hiện; giảm
mạnh những hỗ trợ trực tiếp và chuyển dần sang hỗ trợ có điều kiện, hỗ trợ có thu
hồi để nâng cao ý thức của người dân tộc; phân loại những hộ nghèo theo ngun
nhân nghèo để có chính sách phù hợp với từng đối tượng; mở rộng chính sách hỗ
trợ sinh kế đối với những hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo.
Bài viết của tác giả Hữu Huynh https:// baoangiang.com.vn, ngày 05/08/2020
về “An Giang nâng cao đời sống đồng bào DTTS Chăm” đã cho thấy, cùng với thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đối với đồng bào DTTS,
những năm qua nhờ thực hiện công khai các chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ
vùng đồng bào DTTS về giáo dục, y tế, an sinh xã hội, đào tạo nghề, giải quyết việc
làm, đảm bảo an sinh xã hội,… Phát huy vai trị người có uy tín trong đồng bào
DTTS Chăm, đổi mới công tác dân vận theo phương châm “trọng dân, gần dân,
hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, đời sống KT - XH ở các xóm Chăm ở
từng bước khởi sắc. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển sản xuất và dân sinh
được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua từng năm, đời sống vật chất và tinh thần
được nâng lên đáng kể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng nghèo và việc thực hiện
chính sách giảm nghèo thực hiện tại địa phương; đánh giá những kết quả đạt được
và các hạn chế, bất cập cần khắc phục; từ đó luận văn đề xuất một số giải pháp và
kiến nghị nhằm góp phần thực hiện thành cơng hơn chính sách GNBV phù hợp với
đặc điểm, phong tục, tập quán của người Chăm và Khmer để từng bước hoàn thành
4
mục tiêu GNBV cho đồng bào DTTS Chăm và Khmer ở An Giang trong điều kiện
mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ trọng tâm cần thực
hiện là:
Thứ nhất, giới thiệu khái quát về cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính
sách giảm nghèo cho người Chăm và Khmer ở tỉnh An Giang theo chuẩn nghèo đa
chiều hiện nay.
Thứ hai, phân tích về thực trạng nghèo và thực hiện chính sách giảm nghèo
của địa phương
Thứ ba, đánh giá những kết quả đạt được và các hạn chế, bất cập cần khắc
phục; phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo, nhất
là về phong tục, tập quán của hai tộc người nghiên cứu đến công tác GNBV tại địa
phương.
Thứ tư, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần thực hiện thành
cơng chính sách giảm nghèo phù hợp với đặc điểm, phong tục, tập quán của người
Chăm và Khmer để từng bước hoàn thành mục tiêu GNBV cho đồng bào DTTS ở
An Giang trong điều kiện mới của đất nước và quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của Luận văn là thực hiện chính sách giảm nghèo
cho đồng bào Chăm và Khmer ở tỉnh An Giang.
4.2. Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn xác định phạm vi khơng gian nghiên cứu là
một số địa phương có đông đồng bào Chăm và Khmer sinh sống trên địa bàn tỉnh
An Giang, cụ thể là: đời sống của hộ nghèo một số mơ hình giảm nghèo của đồng
bào Khmer đang áp dụng tại xã Ơ Lâm huyện Tri Tơn và của đồng bào Chăm tại xã
Đa Phước, huyện An Phú.
Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện các chính
sách giảm nghèo cho đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh An Giang nói chung, trong
đó trọng tâm là đánh giá việc thực hiện các chính sách giảm nghèo đang được vận
dụng cho đồng bào dân tộc Chăm, Khmer trong giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh An
Giang.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Ngay từ khi được thành lập, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện nhất quán và
xuyên suốt nguyên tắc: các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp
đỡ nhau cùng phát triển. Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên hỗ trợ phát
triển các DTTS và địa bàn khó khăn, nhất là các dân tộc có dân số ít và vùng
ĐBKK. Nghiêm cấm các hành vi kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Nguyên tắc này được thể
hiện rõ qua hệ thống chính sách dân tộc và Hiến pháp, pháp luật của nước ta, trong
đó có chính sách giảm nghèo.
Có thể thấy, giảm nghèo là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước, là một trong những mục tiêu hàng đầu trong quá trình chỉ đạo, điều hành phát
triển KT - XH của đất nước. Thời gian qua Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm,
chăm lo cuộc sống đồng bào DTTS và miền núi (DTTS&MN), vùng ĐBKK, thực
hiện tốt ngun tắc bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển giữa
54 dân tộc anh em; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc ngày
càng được nâng lên; khẳng định các dân tộc anh em ở nước ta sinh sống chan hòa,
thân ái cùng nhau phát triển. Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp, sống ở các vùng
nơng thơn, hạ tầng cịn thiếu thốn, nên điều kiện sống của đồng bào dân tộc cịn khó
khăn. Với u cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, quyết tâm thực hiện thắng
lợi Nghị quyết của Đảng là cần tập trung cao việc đầu tư phát triển vùng
DTTS&MN, vùng ĐBKK, phát huy tiềm năng, lợi thế vùng này, chăm lo tốt hơn
nữa đời sống đồng bào các DTTS; thực hiện Hiến pháp năm 2013, việc Chính phủ
trình Quốc hội quyết định chính sách dân tộc càng có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu
sắc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành Luận văn, học viên đã lựa chọn sử dụng các phương pháp cơ
bản như sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập thông tin từ nhiều nguồn tài liệu
thứ cấp như các văn bản quy phạm pháp luật, sách, báo, nghiên cứu báo cáo giảm
nghèo của đồng bào dân tộc tại địa phương có các nội dung liên quan đến đề tài.
Phương pháp khảo sát thực địa: Trực tiếp thu thập thông tin tại các địa
phương có người Chăm, Khmer sinh sống; kết hợp với q trình cơng tác thực tế
(Tham gia đồn giám sát, việc thực hiện chính sách pháp luật về thực hiện chương
6
trình mục tiêu quốc gia GNBV trên địa bàn vùng DTTS, miền núi của Hội đồng
Dân tộc của Quốc hội năm 2019 tại tỉnh An Giang).
Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh: Dựa trên các số liệu, dữ liệu thu
thập được trong các báo cáo của các cơ quan (Cục thống kê, Ban Dân tộc, Sở Lao
động Thương bình và Xã hội, Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang…)
có liên quan đến việc thực hiện giảm nghèo để tổng hợp, so sánh, đưa ra những
đánh giá cụ thể tình hình thực hiện chính sách giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020
của đồng bào Chăm và Khmer.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Từ nhận thức sâu sắc về những thách thức trong công tác GNBV đối với đồng
bào DTTS ở An Giang. Luận văn nghiên cứu và hệ thống hóa những vấn đề mang
tính lý luận về sự cần thiết và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến q trình thực
hiện chính sách GNBV cho đồng bào DTTS. Qua đó tổng hợp về mặt lý luận, xây
dựng, đề xuất cơ chế huy động các nguồn lực, đồng hành cùng đồng bào dân tộc
Chăm, Khmer để triển khai thực hiện các chương trình, dự án, phù hợp cho việc
thực hiện GNBV.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu thực tiễn, luận văn nêu ra được những mặt tích cực, hạn chế,
nguyên nhân chủ quan, khách quan trong thực hiện chính sách giảm nghèo cho
đồng bào DTTS; đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia về GNBV trên địa bàn vùng DTTS của tỉnh,
thực hiện an sinh xã hội cho những năm tiếp theo. Cụ thể Luận văn định hướng việc
xây dựng, thực thi chính sách phù hợp với DTTS theo từng vùng, từng lĩnh vực, góp
phần giảm nghèo về thực chất, hạn chế tái nghèo, đáp ứng được yêu cầu phát triển
đất nước về trước mắt lẫn lâu dài theo mục tiêu đã đề ra. Đồng thời có định hướng
phát huy mặt tốt đẹp về phong tục tập quán vào các hoạt động kinh tế để tạo thành
thế mạnh riêng của đồng bào dân tộc.
Trên cơ sở đó kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần phục vụ cho
cơng tác DTTS ở địa phương. Những nhận định và giải pháp mà đề tài hướng đến
sẽ góp phần định hướng hợp lý trong việc đề xuất, hoạch định chính sách cho đồng
bào DTTS ở An Giang nói riêng và khu vực ĐBSCL nói chung. Đặc biệt là GNBV
trong đồng bào Chăm và Khmer, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển văn hóa, nâng cao
7
dân trí và đẩy mạnh mọi mặt an sinh xã hội. Đó là cơ sở cho việc xây dựng một nền
tảng chính trị vững vàng, đem lại nền kinh tế đất nước vững mạnh, dân giàu. Đồng
thời có thể xem đây là tiền đề để tỉnh An Giang cùng với cả nước tiến lên hội nhập
và phát triển, khẳng định vai trò của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo đối với đồng
bào DTTS ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo trong đồng bào dân
tộc Chăm và Khmer của tỉnh An Giang giai đoạn 2016 - 2020.
Chương 3: Mục tiêu, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách GNBV cho đồng bào Chăm, Khmer ở tỉnh An Giang.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Nghèo: Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt
động xã hội. Nghèo có nghĩa là khơng có đủ ăn, đủ mặc, khơng được đi học, khơng
được khám chữa bệnh, khơng có đất để sản xuất hoặc khơng có nghề nghiệp để ni
sống bản thân, khơng được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là khơng an
tồn, khơng có quyền và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện
rủi ro, khơng tiếp cận được nước sạch và cơng trình vệ sinh (theo tổ chức Liên hiệp
quốc). Đây là một khái niệm cơ bản nhất về nghèo có tính chất hướng dẫn về
phương pháp đánh giá phổ biến về nghèo. Sự khác biệt, chênh lệch giữa điều kiện
tự nhiên, điều kiện xã hội, trình độ phát triển của các vùng miền. Vấn đề quan trọng
mà khái niệm này đưa ra đó chính là nhu cầu cơ bản của con người trong xã hội,
nếu khơng được thỏa mãn thì họ là người nghèo.
Dân tơc thiểu số: Là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên
phạm vi, lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vùng dân tộc thiểu số: Là địa bàn có đơng các DTTS sinh sống ổn định thành
cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Giảm nghèo bền vững: Là cụm từ được sử dụng khá phổ biến nhưng đến nay
GNBV chưa có khái niệm cụ thể, tuy nhiên căn cứ vào một số Văn bản của Nhà nước
ban hành có liên quan đến lĩnh vực giảm nghèo (Nghị quyết số 30a/NQ-CP ngày
27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với 61 huyện nghèo; Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2010 của Chính phủ
về Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số
1489/QĐ-TTg ngày 8/10/2012 của TTCP phê duyệt chương trình giảm nghèo bền
vững giai đoạn 2012 - 2015…) thì GNBV được hiểu là giảm nghèo và phát triển
bền vững, điều đó có nghĩa là tạo cơ hội cho người nghèo thoát nghèo ổn định và
không ngừng tăng thu nhập để không bị tái nghèo khi có các tác động bất lợi của
các yếu tố tự nhiên, xã hội. Việc giảm nghèo phải đảm bảo được sự phát triển bền
vững trên tất cả các lĩnh vực KT, XH, môi trường, thỏa mãn các dịch vụ xã hội,
9
mức thu nhập cao hơn mức nghèo và khơng có nguy cơ tái nghèo trong thời gian
dài.
GNBV phản ánh thông qua các tiêu chí:
Thỏa mãn các nhu cầu cơ bản
Giảm nghèo
bền vững
Thu nhâp ̣ tăng và duy trì ở mức cao
Thốt nghèo và khơng tái nghèo
Chính sách giảm nghèo: Là tất cả các giải pháp, chính sách của Nhà nước và xã
hội hay của chính đối tượng thuộc diện nghèo , nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch mức sống giữa nông
thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững: Là tồn bộ q trình chuyển
hóa ý chí của Nhà nước về chính sách giảm nghèo bền vững thành hiện thực đến
với các đối tượng quản lý là các hộ nghèo nhằm đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng
cách, chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân
tộc và các nhóm dân cư.
Để chính sách thật sự mang lại hiệu quả thì khâu tổ chức thực hiện chính sách
phải cơ bản đảm bảo đúng quy trình và tuần tự gồm các bước:
Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách: Đây là công đoạn đầu tiên
trong việc tổ chức thực hiện chính sách và ở bước này cần phải xác định cụ thể nội
dung, nhiệm vụ trong tổ chức điều hành, nguồn lực, vật lực cho việc thực hiện chính
sách, kế hoạch kiểm tra đôn đốc, thời gian thực thi chính sách.
Phổ biến tuyên truyền chính sách: Trên cơ sở nắm vững nội dung, mục tiêu,
nhiệm vụ, yêu cầu của chính sách người làm chính sách sẽ tổ chức tuyên truyền đến
người dân, người thụ hưởng chính sách bằng nhiều hình thức khác nhau. Đây là
hoạt động quan trọng, có vai trò gắn kết cơ quan nhà nước và các đối tượng thực
hiện chính sách.
10
Phân cơng phối hợp thực hiện chính sách: Ở bước này cần xác định được
năng lực chuyên môn cụ thể của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp
thực hiện chính sách, việc phân cơng phối hợp phải được thực hiện một cách khoa
học, hợp lý phát huy được các thế mạnh, tính tích cực, trách nhiệm của các cơ quan
phối hợp, hạn chế trùng lắp trong thực hiện nhiệm vụ.
Duy trì, điều chỉnh, theo dõi kiểm tra đơn đốc việc thực hiện chính sách: Duy
trì thực hiện chinh sách là hoạt động nhằm đảm bảo cho chính sách được thực hiện
và phát huy được tác dụng trong mơi trường thực tế. Trong q trình thực hiện
chính sách cịn tùy thuộc vào thực tiễn, đơi khi chính sách cịn những bất cập chưa
phù hợp sẽ có những điều chỉnh nhất định, nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý
và phù hợp với tình hình thực tế đang đặt ra để chính sách được tiếp tục tồn tại và
phát huy tác dụng. Việc theo dõi kiểm tra, đơn đốc giúp phịng ngừa, phát hiện các
vấn đề liên quan đến công tác quản lý, tổ chức thực hiện, các vi phạm nếu có, để đề
xuất các giải pháp chấn chỉnh phù hợp, góp phần hồn thiện chính sách và nâng cao
hiệu quả thực hiện chính sách.
Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm: Đây là khâu được thực hiện trong từng
giai đoạn thực hiện chính sách, hoặc cả một q trình tổ chức thực hiện chính sách
của chủ thể thực hiện chính sách; đồng thời đánh giá việc chấp hành, thực hiện của
các đối tượng thụ hưởng (đôi tượng thụ hưởng trực tiếp và đối tượng gián tiếp)
chính sách để từ đó rút kinh nghiệm, làm rõ các ưu điểm, nhược điểm trong tổ chức,
phối hợp thực hiện chính sách.
1.2. Các tiêu chí đo lường chuẩn nghèo đa chiều đang áp dụng
Quan điểm mới tiếp cận về giảm nghèo ở nước ta xuất hiện khi bối cảnh kinh
tế vĩ mơ bắt đầu có những diễn biến bất thường vào cuối năm 2007, lạm phát tăng
cao, khủng hoảng kinh tế kéo dài từ năm 2009. Trong khi đó những tác động, cảnh
báo từ biến đổi khí hậu, rủi ro từ thiên nhiên, cũng ngày càng được đánh giá đúng
với khả năng ảnh hưởng tới người nghèo và các mục tiêu giảm nghèo, bên cạnh đó
cịn diễn biến phức tạp của thiên tai, dịch bệnh…, dù muốn hay không đây cũng là
những nhân tố mà chính sách giảm nghèo đang và sẽ phải tính đến nếu muốn đạt
được kết quả GNBV. Chuẩn nghèo giai đoạn hiện nay đang áp dụng theo hướng kết
11
hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản:
Về thu nhập: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 900.000
đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
Về mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản gồm: Y tế, giáo dục,
nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ
số: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình
trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người;
nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài
sản phục vụ tiếp cận thông tin.
1.3. Một số quan điểm của Đảng, Nhà nước về thực hiện chính sách giảm
nghèo ở vùng DTTS hiện nay
Cùng với các nỗ lực thực hiện các mục tiêu giảm nghèo, trong những năm qua
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách giảm nghèo nói chung và các chính
sách giảm nghèo hướng đến đồng bào DTTS nói riêng, nhằm phát huy nội lực trong
cộng đồng người DTTS và tăng hiệu quả hỗ trợ từ bên ngồi, góp phần cải thiện đời
sống của các hộ nghèo người DTTS trong phạm vi cả nước.
1.3.1. Quan điểm trong Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
Nhìn lại chặng đường 30 năm đổi mới, Việt Nam với những quyết tâm cao, sự
chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đưa nước ta là một trong những
nước nghèo nhất thế giới, trở thành nước có thu nhập trung bình vào năm 2009; đây
là bước đánh dấu kết quả giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế đáng kể, hoàn thành
hầu hết các mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ, trong đó có mục tiêu về GNBV.
Về thực hiện các mục tiêu giảm nghèo, Đảng và Nhà nước ta ln nhất qn
về chính sách GNBV đi đơi với khuyến khích làm giàu chính đáng và tự lực vươn
lên. Đã đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, trong đó chú trọng chính sách giảm
nghèo đa chiều và khắc phục nguy cơ tái nghèo, nhất là đối với các hộ nghèo, ưu
tiên người nghèo là đồng bào DTTS thuộc huyện nghèo; thu hẹp chênh lệch về mức
12
sống và an sinh xã hội so với bình quân chung cả nước. Đã tiến hành điều chỉnh
chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phù hợp với điều kiện KT - XH của đất nước. Tỷ lệ
hộ nghèo cả nước giảm bình qn 1,5-2% /năm; các hun, xã đặc biệt khó khăn có
tỷ lệ hộ nghèo giảm 4%/năm theo tiêu chuẩn nghèo từng giai đoạn. Năm 1993 tỷ lệ
hộ nghèo cả nước còn 58,1%, đến năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%, năm
2013 còn 7,8%, năm 2014 còn 5,8-6%, phấn đấu đến năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo trong
cả nước còn dưới 5%, trong vùng ĐBKK còn dưới 30%. Thành tựu về giảm nghèo
của nước ta đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao.
Dù đã đạt được những thành tựu đáng kể về cơng tác giảm nghèo nhưng vẫn
cịn những tồn tại, thách thức về nhiều mặt: giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng
nghèo vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nơng thơn và DTTS. Chưa hình thành cơ chế
đồng bộ về giảm nghèo đa chiều, đa mục tiêu. Nhiều chính sách an sinh xã hội và
giảm nghèo chồng chéo nhau, chậm đổi mới, chưa sát thực tiễn, thiếu cơ sở khoa
học; cịn thiếu những chính sách đặc thù; thiếu cơ chế, chính sách điều tiết hợp lý,
kết cấu hạ tầng xã hội ở nhiều địa phương, khu vực, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
DTTS còn hạn chế, một bộ phận người nghèo, người DTTS chưa được hưởng thụ
một cách công bằng các thành quả của công cuộc đổi mới; phân hóa giàu nghèo có
xu hướng gia tăng, kết quả giảm nghèo ở nước ta còn mong manh, một bộ phận
người dân trong đó có người DTTS có khả năng tái nghèo cao. Qua tổng kết thực
tiễn 30 năm đổi mới của đất nước giúp chúng ta đánh giá những mặt làm được,
những mặt cịn hạn chế từ đó đặt ra mục tiêu và phương hướng cho giai đoạn phát
triển tiếp theo và cũng là tiền đề để Nhà nước tiếp tục xây dựng, hồn thiện chính sách,
pháp luật về GNBV và có những động thái thiết thực tăng cường đầu tư kinh phí cho
vùng DTTS nhằm tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS. Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức, tinh thần đoàn kết tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Quan điểm trong Nghị quyết Đại hội Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII
Theo báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH 5 năm
2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT - XH 5 năm giai đoạn 2016
13
- 2020 đã nêu: Trước những diễn biến phức tạp của của thế giới, Đảng đã kịp thời
điều chỉnh nhiệm vụ giải pháp phát triển KT - XH qua đó lạm phát được kiểm soát,
tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, an sinh xã hội được đảm bảo, đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tuy trong bối cảnh kinh tế cịn nhiều khó
khăn nhưng trong q trình quản lý điều hành Chính phủ đã tăng thêm ngân sách và
huy động các nguồn lực để thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội, ưu tiên vùng sâu
vùng xa, vùng thiên tai, vùng đồng bào DTTS. Mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng
mức hỗ trợ và thực hiện đồng bộ nhiều chính sách đối với hộ nghèo, trợ giúp xã hội,
hỗ trợ nhà ở, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học
sinh, sinh viên nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, từ 14,2%
cuối năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015.
Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng, vấn đề giảm nghèo được đưa vào là một trong các chỉ tiêu quan trọng của
Đại hội, cụ thể là tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 -1,5%/năm. Theo đó
Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng GNBV thời
kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008
của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày
02/9/2016 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016 - 2020 với mục tiêu tổng quát là thực hiện giảm nghèo bền vững, hạn chế
tái nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội,
cải thiện đời sống, tăng thu nhập của người dân, đặc biệt là ở các địa bàn nghèo, tạo
điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản (y
tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thơng tin); góp phần thực
hiện giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2016 - 2020 theo Nghị quyết Quốc hội đề ra.
Để triển khai thực hiện các nghị quyết, Chính phủ, các thành viên Chính Phủ
đã dành nhiều thời gian để thảo luận, xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn tổ chức thực hiện trong lĩnh vực GNBV, gồm các Nghị định,
Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng, Thông tư, Hướng dẫn nhằm
thực hiện kịp thời, đồng bộ các Chương trình mục tiêu quốc gia GNBV để các chính
sách giảm nghèo thật sự phù hợp nhu cầu cuộc sống của người nghèo, người DTTS;
14
để các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, tạo được sự
tin cậy tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trải qua quá trình tiếp thu hoàn thiện đến nay, hệ thống khung pháp lý và các
văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình GNBV đã ban hành khá đồng bộ, tương
đối kịp thời, tạo được sự thống nhất trong tổ chức thực hiện từ trung ương đến địa
phương. Trước đây các chương trình chưa được đồng bộ, đến nay đã mang tính bao
quát cao, có trọng tâm, trọng điểm, khoa học và ngày càng thích ứng hơn. Giai đoạn
2012 - 2015 có 16 Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có Chương trình Mục
tiêu quốc gia GNBV do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định, thì giai đoạn
sau 2016 - 2020 chỉ cịn 02 Chương trình Mục tiêu quốc gia do Quốc hội quyết
định, gồm: Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng Nơng thơn mới và Chương
trình Mục tiêu quốc gia GNBV (trong đó có chương trình 30a và chương trình 135
hỗ trợ đầu tư cho các huyện nghèo, xã, thơn, bản đặc biệt khó khăn, vùng DTTS,
miền núi). Qua đó có thể khẳng định giai đoạn này cơng tác xây dựng, ban hành
chính sách giảm nghèo đã có sự chuyển biến rõ nét về chất lượng, giảm dần các
chính sách nhỏ lẻ không thiết thực. Đã xây dựng các chính sách lớn mang tính tập
trung, tích hợp, giảm dần hình thức cấp phát trực tiếp. Chuyển từ tiêu chí nghèo đơn
chiều sang tiêu chí nghèo đa chiều, tiệm cận chuẩn nghèo quốc tế. Đây là các cơ sở
lý luận, pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn quan trọng để tổ chức, điều hành, vận
dụng sáng tạo các chương trình GNBV nói chung và GNBV ở vùng DTTS nói riêng
trong giai đoạn tiếp theo.
1.3.3. Quan điểm trong Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020
Tuy trong giai đoạn trước chưa có Chương trình mục tiêu quốc gia riêng cho
đồng bào DTTS nhưng trong các chính sách giảm nghèo đều có quan tâm lồng ghép
nhiều chương trình giảm nghèo cho đồng bào DTTS. Trong năm 2020 với những
nhận định sâu sắc hơn về tầm quan trọng, sự cần thiết phải ưu tiên nguồn lực, đầu tư
phát triển KT - XH, giảm nghèo, nhất là ở vùng DTTS, địa bàn ĐBKK nên lần đầu
tiên qua 75 năm hoạt động, Quốc hội đã có nhiều cuộc giám sát xem xét một cách
tổng thể về tiếp tục đổi mới cơng tác dân tộc, thực hiện tồn diện chính sách GNBV
cho đồng bào DTTS nhằm thúc đẩy phát triển KT - XH trong các vùng, cộng đồng
DTTS, khơng để ai bị bỏ lại phía sau. Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV Quốc
15
hội đã thông qua Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 phê duyệt chủ
trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT - XH vùng đồng bào
DTTS&MN giai đoạn 2021 - 2030. Mục tiêu chính của Chương trình là “thu hẹp
dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của vùng đồng bào DTTS và miền núi so
với bình quân chung của cả nước; đến năm 2025 giảm 50% số xã, thơn, bản đặc biệt
khó khăn; đến năm 2030 cơ bản khơng cịn xã, thơn, bản đặc biệt khó khăn”. Thời
gian thực hiện Chương trình là 10 năm, chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025, tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn
2021 - 2025 tối thiểu là 137.664 tỷ đồng. Nguồn vốn của Chương trình được bố trí
trong kế hoạch đầu tư cơng trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, trong đó: Ngân sách
trung ương: 104.954 tỷ đồng; Ngân sách địa phương: 10.016 tỷ đồng; Vốn tín dụng
chính sách: 19.727 tỷ đồng; Vốn huy động hợp pháp khác: 2.967 tỷ đồng.
Giai đoạn II: Từ năm 2026 đến năm 2030 căn cứ kết quả thực hiện của
Chương trình giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ trình Quốc hội quyết định nguồn
lực thực hiện Chương trình giai đoạn 2026 - 2030.
Đây có thể được xem là một bước tiến mới trong tiến trình xây dựng và hồn
thiện các chính sách đặc thù riêng cho đồng bào DTTS, thể hiện rõ sự quan tâm đặc
biệt của Nhà nước đối với DTTS và miền núi.
1.4. Sự cần thiết thực hiện chính sách GNBV cho vùng đồng bào DTTS ở
nước ta
1.4.1. Vai trị của các chính sách GNBV
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hóa
giàu nghèo diễn ra nhanh, nếu khơng tích cực trong cơng tác giảm nghèo và giải
quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một
cuộc sống ấm no, đầy đủ về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời
đại. Ngồi ra cịn có thể nói rằng khơng giải quyết thành cơng các nhiệm vụ và u
cầu về giảm nghèo thì sẽ khơng chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân
hóa giàu nghèo, do vậy sẽ ảnh hưởng đến tình hình ổn định chính trị và xã hội làm
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển KT - XH đất nước. Khơng thực hiện
thành cơng các chương trình GNBV sẽ khơng thể thực hiện được công bằng xã hội
16
và tạo sự lành mạnh tồn xã hội nói chung. Và mục tiêu phát triển bền vững sẽ
không thể thực hiện được.
Hiện nay, những khu vực được đánh giá là nghèo nhất ở nước ta (có 90%
người nghèo) tập trung vào tại các vùng đồng bào DTTS, khu vực nông thơn và khu
vực miền núi. Trong đó tình trạng nghèo ở các cộng đồng DTTS chiếm 60%.
Vùng đồng bào DTTS ở nước ta đa phần được xem là vùng trũng nhất về KT XH của đất nước, tình trạng nghèo kéo dài trong nhiều năm, chậm được khắc phục;
KT - XH phát triển chậm chất lượng cuộc sống của người DTTS ở mức thấp, ít có
cơ hội tiếp cận các dịch vụ cơ bản xã hội, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai,
dịch bệnh, khoảng cách giữa vùng DTTS với các vùng khác trong cả nước còn khá
lớn.
Đồng bào DTTS sinh sống chủ yếu tập trung nhiều ở các vùng giáp biên giới,
sống theo cộng đồng tại các thôn, bản, phum, sóc; đây là vùng có vị trí chiến lược
quan trọng về KT - XH, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; là vùng có địa hình chia cắt
phức tạp, thời tiết khắc nghiệt giao thơng đi lại khó khăn, dân cư phân tán, chịu tác
động nhiều bởi quá trình biến đổi khí hậu gây ra các hiện tượng thiên tai, hạn hán,
lũ lụt, sạt lở đất…
Đời sống của đồng bào DTTS cịn chịu thiệt thịi bởi sự bất bình đẳng về giới,
phân biệt đối xử, bạo lực gia đình, đa phần phụ nữ DTTS phải gánh trên mình rất
nhiều cơng việc, từ lao động sản xuất đến chăm sóc gia đình; họ sống theo lối chấp
nhận, cam chịu; đặc biệt là trẻ em gái, phụ nữ người dân tộc, mù chữ chiếm tỷ lệ rất
cao, thành tích học tập của học sinh nghèo DTTS thuộc nhóm thấp nhất, tỷ lệ bỏ
học thuộc nhóm cao nhất so với mặt bằng chung cả nước; phần lớn họ chưa được
trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về tiếp cận và chia sẻ thơng tin ngồi xã hội.
Người DTTS đa phần làm những công việc phổ thông, đơn giản; chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực nông nghiệp với đất đai kém màu mỡ, vùng đồi núi, kỹ thuật sản
xuất lạc hậu, năng suất và sản lượng thấp, mất mùa, dịch bệnh; việc làm mang tính
thời vụ khơng ổn định, chưa tham gia nhiều vào những cơng việc mang tính chun
mơn kỹ thuật cao, kỹ năng vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất chưa nhiều.
17
Mặt khác, đây còn là địa bàn các thế lực thù địch, phản động thường xuyên lợi
dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo, đời sống KT - XH khó khăn, sự thiếu hiểu biết về
pháp luật của đồng bào DTTS để đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hịa bình”, tổ
chức gây rối và “bạo loạn lật đổ” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Do vậy đầu tư cho vùng DTTS là việc làm cần thiết, thường xuyên, lâu dài để
từng bước tạo sự thay đổi cơ bản về đời sống KT - XH cho các hộ nghèo; việc đầu
tư phát triển vùng đồng bào DTTS cần phải hài hịa, phát triển phải đi đơi với việc
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, mất bản sắc văn hóa là đồng nghĩa mất dân tộc; Do
vậy, chương trình mục tiêu quốc gia cần được nghiên cứu kỹ, thấu đáo giữa phát
triển gắn với gìn giữ bản sắc văn hóa các dân tộc; cần trợ giúp các vùng DTTS tiếp
cận các dịch vụ ở mức trung bình của cả nước; cần thực hiện phổ cập giáo dục phổ
thông; về y tế cần hướng tới mục tiêu cung cấp dịch vụ ở mức chi phí vừa phải, tăng
cường trang bị hệ thống y tế cơ sở, phải tính đến nhu cầu cơ bản của người DTTS trong
việc sử dụng các dịch vụ y tế từ thực tiễn đặt ra.
Từ những nhận định, đánh giá trên cho thấy, chính sách giảm nghèo có vai trị
rất quan trọng trong việc định hướng, đề ra mục tiêu chính sách để phát triển KT XH, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hộ nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng, giúp hộ nghèo tự đứng trên đơi
chân của mình bằng những nổ lực của bản thân, kết hợp với việc vận dụng linh hoạt
các chính sách giảm nghèo của Nhà nước. Bên cạnh đó cơng tác tuyên truyền, phổ
biến chính sách giảm nghèo là yếu tố tác động để người nghèo, hộ nghèo vùng
DTTS, có nhận thức đúng, đầy đủ, góp phần triển khai có hiệu quả mục tiêu KT XH gắn với giảm nghèo, giúp người nghèo hiểu được các chế độ, chính sách, nâng cao
nhận thức và chủ động cải thiện cuộc sống của chính mình với sự hỗ trợ của chính
quyền cơ sở, các tổ chức và cộng đồng dân cư.
Chính sách giảm nghèo góp phần tạo điều kiện, trao cơ hội cần thiết cho người
nghèo DTTS từng bước nâng cao điều kiện sống, góp phần ổn định đất nước trên
nhiều mặt, hạn chế những tiêu cực nảy sinh do tình trạng nghèo gây ra, góp phần
thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư; tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản cho đối tượng nghèo, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
18
Thực hiện tồn diện chính sách giảm nghèo sẽ tăng khả năng tiếp cận các
nguồn lực phát triển đối với người nghèo, trong thực tế thì người nghèo là những
người luôn bị thua thiệt trong cạnh tranh về sản xuất, kinh doanh, do cơ sở hạ tầng
yếu kém, thiếu vốn, xa trung tâm kinh tế, thiếu kinh nghiệm làm ăn, ít hiểu biết, tay
nghề thấp, giá thành sản phẩm không cao, khó cạnh tranh trên thị trường,… Do vậy,
nguy cơ tụt hậu của họ so với xã hội càng trầm trọng hơn. Để khắc phục được tình
trạng trên cần áp dụng chính sách cho hộ nghèo về hỗ trợ cơ sở vật chất, hạ tầng cho
vùng nghèo để phát triển kinh tế thị trường tạo cơ hội cho các vùng và cá nhân có
điều kiện phát triển mà cịn có ý nghĩa đặc biệt đối với vùng nghèo và hộ nghèo
vươn lên. Đó là khi thị trường phát triển cá nhân, hộ gia đình, vùng tiếp cận đầy đủ
hơn đến các nguồn lực phát triển trong xã hội.
1.4.2. Sự cần thiết phải thực hiện chính sách GNBV
Thực hiện chính sách giảm nghèo và GNBV là một trọng tâm của Chiến lược
phát triển KT - XH giai đoạn 2011 - 2020, nhằm cải thiện và từng bước nâng cao
điều kiện sống của người dân, mà trước hết là người nghèo ở khu vực miền núi,
vùng đồng bào DTTS; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo;
tạo điều kiện cho hộ nghèo vươn lên bằng các chính sách của Nhà nước, để họ có
cuộc sống ổn định. Để đảm bảo được tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo địi hỏi
Nhà nước phải có sự can thiệp để tạo được sự đồng bộ, có tính đồng thuận để vừa
tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện được giảm nghèo. Như vậy, tăng trưởng kinh tế
là nhân tố quan trọng nhằm thực hiện giảm nghèo. Ngược lại giảm nghèo lại là nhân
tố đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Do đó, giảm nghèo là một yêu cầu cần
thiết khách quan hiện nay, đồng thời là trách nhiệm mà Nhà nước phải thực hiện
xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo điều hành đất nước.
Giảm nghèo còn là yêu cầu cần thiết để ổn định chính trị, xã hội, vì trong
những năm gần đây một số vấn đề về chính trị, xã hội ở một số vùng DTTS, vùng
miền núi, vùng biên giới khó khăn có nhiều diễn biến phức tạp. Tình trạng một số tổ
chức phản động khôi phục, chống phá, truyền đạo bất hợp pháp và nạn “mê tín” gia
tăng, nếu gắn với tình trạng nghèo kéo dài sẽ có nguy cơ tạo nên sự mất ổn định
chính trị. Điều đó có nghĩa là giảm nghèo ở nước ta khơng đơn thuần là một chính
sách tăng trưởng kinh tế mà cịn mang ý nghĩa ổn định chính trị - xã hội, củng cố
19
niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta cũng như vào chế độ xã hội chủ
nghĩa. Xét trên khía cạnh khác, nghèo về tài chính sẽ ảnh hưởng đến nhiều mặt
trong đời sống xã hội và chính trị: các tệ nạn xã hội sẽ gia tăng (trộm cắp, cướp giật,
ma túy, mại dâm...); đạo đức xã hội xuống cấp, an ninh xã hội không được đảm bảo,
có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Nếu tình trạng nghèo không được chú ý giải quyết, tỷ
lệ và cấp độ của nghèo vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả là khủng
hoảng chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bị chia rẽ, đặc biệt là nguy cơ diễn
biến hịa bình và sự chống phá của các thế lực thù địch. Nếu giải quyết không thành
công vấn đề giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được mục tiêu công bằng xã hội và
phát triển KT - XH bền vững mà Việt Nam đang phấn đấu.
1.5. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo trong đồng bào DTTS
ở nước ta
1.5.1. Rào cản từ phong tục, tập quán truyền thống trong đời sống
Trình độ phát triển KT - XH không đều nhau giữa các dân tộc hiện nay, là một
tồn tại lớn đang đặt ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân
do một số phong tục, tập quán lâu đời được truyền qua nhiều thế hệ chậm được
khắc phục như: thói quen sản xuất tự cung tự cấp, chưa mở rộng thị trường giao
thương với bên ngoài hầu như gắn chặt với đời sống của người DTTS; tập quán kết
hôn sớm còn khá phổ biến trong cộng đồng người dân tộc, với tập quán này làm suy
giảm nhiều về thể chất, sức khỏe, trí tuệ, tâm sinh lý của trẻ chưa thành niên và nhất
là trẻ em gái; một số tín ngưỡng vào thế giới tâm linh, sùng bái tự nhiên (trời, đất,
thần, thánh...) tại vùng cư trú do người dân chưa có nhận thức đầy đủ về các quy
luật tự nhiên, chưa có các biện pháp để phịng ngừa rủi ro khi thiên tai xảy ra. Hiện
nay có nhiều DTTS đã nhận thức được và loại bỏ dần các phong tục “lạc hậu”
khơng cịn phù hợp để vươn lên phát triển, nhưng vẫn còn một bộ phận chưa nhận
thức rõ được những phong tục “lạc hậu lỗi thời”.
Những lý do đó đã góp phần làm cho từng vùng, từng dân tộc có những đặc
thù riêng và nhiệm vụ khắc phục sự phát triển không đồng đều về phát triển KT XH giữa các dân tộc là một nội dung quan trọng trong thực hiện chính GNBV cho
người DTTS. Cần có cách thức vận động, tuyên truyền phù hợp, để đồng bào các
dân tộc thay đổi một số thói quen, phong tục tập qn khơng cịn phù hợp, phát huy
20
các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực của phong tục tập quán
các DTTS đến việc thực hiện chính sách GNBV.
1.5.2. Sự phân hóa về địa giới, hạn chế về nguồn lực, hạn chế trình độ nhận
thức
Đối với đồng bào các DTTS sống chủ yếu vùng đồi núi chịu sự phân chia về
địa hình và sự cách biệt về xã hội. Điều quan trọng là do cư trú ở những vùng sinh
thái thiếu ổn định, vẫn còn một số địa bàn cư trú của DTTS chưa có đường ơ tơ mà
chủ yếu là đường nhỏ dân sinh; với tập tục sống theo đất canh tác nên địa bàn cư trú
của các hộ DTTS theo các triền núi. Sự phân cách về mặt địa lý đã làm cho việc đi
lại trở nên khó khăn, cách trở làm cho họ thiếu rất nhiều thông tin, kiến thức về kinh
tế thị trường, mặt khác những khó khăn mang tính đặc thù về địa bàn cư trú có ảnh
hưởng rất lớn, tác động trực tiếp tới quá trình triển khai, tổ chức thực hiện chương
trình GNBV cho đồng bào DTTS.
Nguồn lực phục vụ cho công tác GNBV trong vùng dân tộc hiện nay là: đất
đai, lao động, vốn, kỹ năng sản xuất. Trong các nguồn lực thì đất đai là yếu tố quan
trọng nhất. Ở nước ta chất lượng lao động ở các DTTS còn thấp do hạn chế trong
tiếp cận với các kỹ năng sản xuất mới, tổ chức sản xuất theo thói quen, ngành nghề
chưa phong phú, chưa có điều kiện tiếp xúc với thị trường; sản xuất mang nặng tính
tự cung tự cấp, chưa tạo được sản phẩm hàng hóa đa dạng. Bên cạnh đó nguồn vốn
phục vụ cho sản xuất rất eo hẹp, họ chỉ quen làm nông theo mùa vụ, chăn nuôi nhỏ
nên ngồi làm những cơng việc trên họ chưa có phương sách gì khác tạo việc làm
để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Việc thu hút đầu tư ngồi ngân sách phục vụ
phát triển bền vững cho vùng DTTS hiện nay cũng là một vấn đề nan giải, vì đây là
những vùng đầu tư mang lợi nhuận không cao (dân trí thấp, hạ tầng giao thơng
khơng đảm bảo) việc phát triển vùng DTTS đa phần nguồn lực đầu tư từ ngân sách
nhà nước là chủ đạo hoặc từ nguồn viện trợ trong đó nguồn lực nhà nước là quan
trọng và có ý nghĩa quyết định.
Hầu hết quan điểm sống của đại bộ phận dân cư người dân tộc là chỉ chăm lo
để đủ có cái ăn, cái mặc cho cuộc sống hàng ngày, vì vậy có được sự an tồn về
lương thực là vấn đề ưu tiên trước nhất, ít quan tâm đến vấn đề giáo dục nên làm
cho trình độ dân trí của một số DTTS có sự cách biệt đáng kể so với một số dân tộc
21
khác. Số người được học để có trình độ cao là rất ít, làm cho họ hạn chế về khả
năng tham gia vào các hoạt động của xã hội. Bên cạnh đó tập tục tảo hơn trong
DTTS đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng phát triển nòi giống, tham gia học tập,
rèn luyện, vui chơi giải trí của nhiều trẻ em trong độ tuổi đến trường, tình trạng bỏ
học, không được đi học của trẻ em DTTS chiếm tỷ lệ khá cao, làm ảnh hưởng đến
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về GNBV. Các chương trình
xóa mù chữ được tiến hành rộng rãi nhưng tình trạng tái mù chữ chưa được khắc
phục trong cộng đồng người DTTS. Mặc khác một phần do người nghèo thường,
mặc cảm về vị trí trong xã hội, phạm vi giao tiếp hẹp, ít mở rộng giao lưu, trao đổi
giữa các dân tộc từ đó họ ít có điều kiện để tìm hiểu thêm, KT - XH giữa các vùng
miền để tìm sự giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư.
1.5.3. Mức độ thiếu hụt, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản vùng DTTS còn rất
lớn
Mức độ tiếp cận dịch vụ y tế đạt chất lượng chưa cao; chất lượng nhà ở cịn
tạm bợ, diện tích nhà ở khơng đủ chuẩn, nhiều thế hệ sinh sống cùng nhau; tình
trạng ô nhiễm môi trường sống do thiên tai, lũ lụt đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước
trong sinh hoạt dẫn đến dịch bệnh phát sinh; ít có cơ hội tiếp cận thông tin cơ bản;
an ninh trật tự không được đảm bảo,… Đây cũng là những nguyên nhân làm cho
tình trạng nghèo trong cộng đồng DTTS chậm được khắc phục.
22
Tiểu kết Chương
Chương 1 của Luận văn đã điểm lại việc thực hiện công tác giảm nghèo của
nước ta và việc những cam kết của Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu thiên
niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Đảng, Nhà nước xem công tác giảm nghèo bền vững là
nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, cấp bách để hướng tới thực hiện mục tiêu chung là
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công, bằng văn minh”. Thực hiện giảm nghèo bền
vững phải gắn với phát triển KT - XH bền vững, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc, giữ vững chính trị và an ninh quốc phòng. Các hạn
chế, bất cập trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cũng được đặt ra để
tiếp tục nghiên cứu hồn thiện chính sách giảm nghèo bền vững ở nước ta hiện nay
và cho những năm tiếp theo.
Về nội dung cụ thể, trong Chương 1 đã nêu một số khái niệm, khái quát về
một số nhận định, đánh giá 30 năm đổi mới và qua các kỳ đại hội Đảng tồn quốc
về cơng tác lãnh đạo điều hành đất nước đã đạt các mục tiêu đã đề ra trong đó có kết
quả giảm nghèo ở Việt Nam về cơ bản là đạt được nhiều thành tựu nổi bật và được
các nước trong khu vực đánh giá cao.
Ở chương này cũng làm rõ trong nhiều năm qua hầu hết các chính sách giảm
nghèo cho đồng bào DTTS được lồng ghép, vào các mục tiều chung về phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng an ninh…, thì đến nay tại kỳ họp thứ 9 khóa
XIV của Quốc hội đã thơng qua một Chương trình mục tiêu quốc gia dành riêng cho
vùng đồng bào DTTS và miền núi. Với tổng kinh phí dự kiến cho giai đoạn I (2021
- 2025) được Quốc hội phê duyệt ở mức tối thiểu là hơn 137 nghìn tỷ đồng, có thể
nói là lớn nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực công tác dân tộc. Đây được xem là
bước tiến mới, giải pháp mới và sáng tạo trong thực hiện chính sách giảm nghèo, vì
lợi ích của người nghèo bao gồm cả phụ nữ và nam giới thuộc các nhóm DTTS, góp
phần nâng cao mặt bằng dân trí và mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần của đồng bào
DTTS. Trong đó có nhiều chương trình được lồng ghép và có khả năng nhân rộng,
quan tâm tích hợp đồng bộ các chính sách có liên quan đến vùng đồng bào DTTS,
thu gọn đầu mối quản lý, phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong tổ chức,
phối hợp thực hiện.
23