Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.57 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ THANH LÊ

c¸c điều kiện nuôi con nuôi
theo luật nuôi con nuôi năm 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ THANH LÊ

c¸c điều kiện nuôi con nuôi
theo luật nuôi con nuôi năm 2010

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Thị Thanh Lê


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ
ĐIỀU KIỆN NI CON NI ........................................................ 6
1.1.

Khái niệm ni con ni và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi .......... 6


1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi ...................................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi ............................................................ 9
1.2.

Khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi ............................................ 11

1.3.

Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc quy định điều kiện nuôi con nuôi ... 12

1.4.

Sự cần thiết quy định điều kiện nuôi con nuôi .............................. 15

Chƣơng 2: CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ VIỆC NI CON NI CĨ GIÁ
TRỊ PHÁP LÝ THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010 ..... 19
2.1.

Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi ......................... 19

2.2.

Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con ni .................................. 24

2.3.

Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể ........................................... 37

2.3.1. Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi ................................ 37
2.3.2. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người

được cho làm con nuôi ....................................................................... 38
2.3.3. Sự thể hiện ý chí của người được nhận làm con ni ........................ 42
2.3.4. Sự thể hiện ý chí của Nhà nước ......................................................... 42


2.4.

Đăng ký việc nuôi con nuôi .............................................................. 43

2.4.1. Đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước ............................................. 44
2.4.2. Đăng ký việc ni con ni có yếu tố nước ngồi ............................. 49
2.4.3. Vấn đề nuôi con nuôi thực tế và đăng ký nuôi con nuôi thực tế........ 59
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU KIỆN NUÔI
CON NUÔI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY .................................................... 64
3.1.

Thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi ........ 64

3.2.

Thực tiễn thực hiện vấn đề đăng ký nuôi con nuôi thực tế .......... 71

3.3.

Một số vấn đề còn tồn tại trong việc áp dụng điều kiện ni
con ni ............................................................................................. 76

3.3.1. Những khó khăn, vướng mắc ............................................................. 76
3.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên .................................... 82

3.4.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện ni
con ni ............................................................................................. 83

3.4.1.

Kiến nghị hồn thiện thể chế pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi ......... 83

3.4.2. Giải pháp về tổ chức, thực hiện.......................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Công ước LaHay 1993:

Công ước LaHay về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực ni con ni quốc tế

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
dục trẻ em:

năm 2004

Luật HN&GĐ năm 2000:

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Luật Ni con ni:


Luật Ni con nuôi năm 2010

Nghị định 158/2005/NĐ-CP:

Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và
quản lý hộ tịch

Nghị định 19/2011/NĐ-CP:

Nghị

định

số

19/2011/NĐ-CP

ngày

21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi
Nghị định 68/2002/NĐ-CP:

Nghị

định

số


68/2002/NĐ-CP

ngày

10/7/2002 của Chính phủ về việc quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Hơn
nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngồi
Nghị định 69/2006/NĐ-CP:

Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006
của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Hôn nhân và gia đình về quan hệ hơn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngồi

Sở LĐTBXH:

Sở Lao động thương binh xã hội

UBND:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 3.1: So sánh số lượng trẻ em được cho làm con nuôi
trong nước và số lượng trẻ em được cho làm con
ni ở nước ngồi
Biểu đồ 3.2: Thể hiện kết quả đăng ký nuôi con nuôi thực tế

64
72


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là một nhóm xã hội non nớt, dễ bị tổn thương nhất, được toàn
thể cộng đồng quốc tế quan tâm và bảo vệ. Một trong những quyền cơ bản
của trẻ em được pháp luật quy định, bảo vệ là quyền được sống, được chăm
sóc, ni dưỡng trong mơi trường gia đình. Tuy nhiên không phải tất cả trẻ
em sinh ra đều có cha mẹ và đều may mắn được sống trong mơi trường gia
đình. Trong xã hội cịn nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật, sống trong
các gia đình nghèo khơng có điều kiện ni dưỡng, cần một mái ấm gia đình
thay thế. Một trong những biện pháp bảo đảm cho trẻ em một gia đình thay
thế là cho trẻ làm con nuôi. Cho trẻ em làm con nuôi được xem là một giải
pháp bảo vệ trẻ em, không để trẻ em phải sống lang thang, thiếu điều kiện
phát triển. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện nay
cả nước có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hồn cảnh đặc biệt cần được chăm sóc,
giúp đỡ bằng nhiều biện pháp khác nhau trong đó có việc tìm gia đình thay

thế cho trẻ em ở trong nước và ở nước ngoài. Sự ra đời của Luật Ni con
ni năm 2010 nói chung và việc quy định các điều kiện ni con ni nói
riêng đã tạo điều kiện cho các cá nhân, gia đình có nhu cầu muốn nhận ni
con ni, đồng thời cũng tạo cho các em có hồn cảnh đặc biệt được sống
trong gia đình giống như mơi trường gia đình gốc của mình. Việc quy định
các điều kiện ni con ni là cần thiết để đảm bảo cho trẻ em được nhận
ni được sống trong mơi trường gia đình an tồn, lành mạnh, được u
thương chăm sóc. Đây cũng chính là một biện pháp nhằm ngăn ngừa các hành
vi lợi dụng việc cho – nhận con ni vào mục đích khác như: hành vi trục lợi
từ việc nuôi con nuôi, buôn bán trẻ em…
Tuy nhiên, việc hiểu và áp dụng các điều kiện nuôi con nuôi vào thực tế

1


còn gặp những vướng mắc, bất cập như: việc xác nhận các điều kiện nuôi con
nuôi, lập hồ sơ đăng ký ni con ni, khó khăn trong việc theo dõi và quản
lý báo cáo tình hình phát triển của con nuôi, vướng mắc phát sinh trong việc
đăng ký nuôi con ni hay giải quyết tình trạng ni con ni thực tế... Vì
vậy, để đảm bảo được mục đích và ý nghĩa của việc ni con ni thì các điều
kiện của người nhận nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi cần được quy
định chặt chẽ, được nghiên cứu và hồn thiện để giải quyết những khó khăn,
vướng mắc phát sinh khi áp dụng các quy định này vào thực tế. Đây là lý do
tôi chọn đề tài: “Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm
2010” là đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích làm rõ những vấn đề lý luận
về điều kiện nuôi con nuôi, các điều kiện của việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi
con nuôi năm 2010, thực tiễn áp dụng các điều kiện nuôi con ni trong giải

quyết việc cho nhận con ni, qua đó đánh giá mặt tích cực và hạn chế của các
quy định về điệu kiện nuôi con nuôi, đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy
định pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về nuôi con nuôi và các điều kiện
của việc nuôi con nuôi, sự cần thiết phải quy định điều kiện nuôi con nuôi.
- Phân tích các điều kiện ni con ni theo Luật ni con ni năm
2010, có sự so sánh với các quy định của pháp luật trước đây, đồng thời đánh
giá mặt tích cực và hạn chế của các quy định này.
- Tìm hiểu một số nét về thực trạng áp dụng các điều kiện nuôi con
nuôi tại Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó phát hiện những vướng mắc bất cập
và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
2


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận về nuôi con
nuôi và điều kiện nuôi con theo Luật nuôi con nuôi năm 2010, thực trạng áp
dụng điều kiện nuôi con nuôi trong thực tế.
Luận văn tập trung phân tích các điều kiện ni con nuôi theo quy định
trong Luật nuôi con nuôi năm 2010, bao gồm các điều kiện đối với các chủ
thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi (điều kiện nội dung) và thủ tục,
trình tự, thẩm quyền đăng ký việc ni con ni (điều kiện hình thức) để đảm
bảo cho việc ni con ni có giá trị pháp lý làm phát sinh quan hệ cha mẹ và
con giữa hai bên. Khi phân tích, có sự so sánh với Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000 quy định về vấn đề này.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ni con nuôi đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của rất
nhiều nhà nghiên cứu luật học. Có rất nhiều những bài viết về vấn đề nuôi con

nuôi và bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi như: bài viết "Về
chế định nuôi con nuôi trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000" của Ngơ
Thị Hường, Tạp chí Luật học số 3 năm 2001; bài viết "Tăng cường bảo đảm
quyền trẻ em được sống trong gia đình", của Hà Đình Bốn, Dân chủ và pháp
luật 2009 (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi); “Một số vấn đề về điều
kiện nuôi con nuôi” của TS. Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học số tháng
3 năm 2009... Đây là những bài viết nói lên sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ
em, quyền được sống trong mơi trường gia đình. Theo đó, việc hồn thiện các
điều kiện nuôi con nuôi trong việc cho – nhận con nuôi là một yêu cầu cần
thiết để đảm bảo mục đích này.
Mặt khác cịn có các cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực nuôi
con nuôi như: Luận án tiến sĩ về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định
pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam” của Nguyễn Phương Lan năm 2007 –

3


Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Nuôi con nuôi theo pháp luật
Việt Nam”, của Bùi Thị Hương năm 2011 – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà
Nội... Những luận văn, luận án trên đã tiếp tục nêu lên tầm quan trọng của
việc nghiên cứu và hồn thiện các quy định về pháp luật ni con nuôi và các
điều kiện nuôi con nuôi đảm bảo cho trẻ em được ni dưỡng, chăm sóc trong
mơi trường gia đình.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu hồn thiện pháp luật ni con ni nói
chung và các điều kiện ni con ni nói riêng vẫn thực sự cần thiết. Việc
nghiên cứu sẽ chỉ ra những mặt tích cực, mặt hạn chế khi áp dụng điều kiện
nuôi con nuôi vào thực tế, vừa đề ra được những giải pháp hoàn thiện pháp
luật về các điều kiện ni con ni góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi trẻ em
được nhận làm con ni, cũng như mục đích, ý nghĩa của việc ni con ni.
5. Tính mới và những đóng góp của luận văn

- Luận văn là cơng trình nghiên cứu có tính chất chun sâu và tồn
diện về điều kiện ni con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
- Trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện nuôi con nuôi, luận văn đã có sự
đánh giá, phân tích một số nét về thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện
nuôi con nuôi từ sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực cho đến nay, chỉ ra
những mặt tích cực và hạn chế của các quy định này, đồng thời đóng góp
những kiến nghị hồn thiện pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền trẻ em và bảo vệ
trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Về phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp như
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, so
sánh; phương pháp tổng hợp, điều tra xã hội học.
4


7. Kết cấu cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi và điều kiện nuôi
con nuôi.
Chương 2: Các điều kiện để việc nuôi con ni có giá trị pháp lý theo
Luật ni con nuôi năm 2010.
Chương 3: Thực trạng thực hiện điều kiện ni con ni và một số
kiến nghị hồn thiện pháp luật về vấn đề này.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI
VÀ ĐIỀU KIỆN NI CON NI
1.1. Khái niệm ni con ni và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội và xuất
hiện từ rất lâu trong lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người,
thể hiện mối quan hệ gắn bó của con người với nhau.
Khái niệm ni con ni có thể được xem xét dưới hai góc độ: góc độ
xã hội và góc độ pháp lý.
* Dưới góc độ xã hội
Trong cuộc sống xã hội có rất nhiều trường hợp cá nhân hoặc gia đình
nhận một đứa trẻ làm con ni. Việc nhận con ni có thể xuất phát từ nhiều
lý do như: người nhận ni khơng có con; từ tình u thương với những đứa
trẻ mồ cơi, khơng nơi nương tựa; từ phong tục tập quán của địa phương hoặc
để tích đức về sau cho con cái… Việc hình thành quan hệ cha mẹ con trong
trường hợp này một mặt đáp ứng nhu cầu về tình cảm giữa người nhận nuôi
và người được nhận nuôi, thể hiện sự yêu thương, muốn giúp đỡ cưu mang trẻ
em mồ côi, trẻ em bất hạnh; mặt khác nó cịn thể hiện lịng nhân ái, sự hướng
thiện của con người với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Mặc dù đã hình thành
quan hệ cha mẹ và con trên thực tế, các bên đều thực hiện đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ cha mẹ và con đối với nhau nhưng do các bên khơng đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên quan hệ ni con ni khơng được cơng
nhận có giá trị pháp lý.
Việc hình thành những quan hệ như trên đã tạo ra các hình thức ni
con ni như: nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi lập tự,

6



nuôi con nuôi trên danh nghĩa, nuôi con nuôi lấy phúc… Trên thực tế, quan
hệ nuôi con nuôi này mặc dù khơng có sự cơng nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng vẫn tồn tại mối quan hệ cha mẹ con giữa người nhận nuôi
và người được nhận ni.
Như vậy, dưới góc độ xã hội thì ni con nuôi là việc xác lập quan hệ
cha mẹ và con trên thực tế giữa người nhận nuôi và người được nhận ni
nhằm đáp ứng những nhu cầu về tình cảm và lợi ích giữa người nhận ni và
người được nhận ni mà khơng có sự cơng nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
* Dưới góc độ pháp lý
Dưới góc độ pháp lý, ni con ni có thể được hiểu: là sự kiện pháp
lý hoặc là quan hệ pháp luật. Trong phạm vi luận văn này, nuôi con nuôi
được hiểu dưới góc độ là sự kiện pháp lý. Việc ni con nuôi bao gồm tập
hợp các sự kiện pháp lý. Chỉ khi nào hội tụ đủ các sự kiện này quan hệ nuôi
con nuôi mới phát sinh hiệu lực pháp lý. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các bên đương sự thể hiện rõ
ràng ý chí của mình đồng thời đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết của
việc ni con ni. Nói cách khác, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có
thể cơng nhận việc ni con nuôi khi các sự kiện cấu thành đã hội tụ đầy đủ
và được liên kết lại với nhau tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật về
nuôi con nuôi. Vì vậy có thể nói dưới góc độ pháp lý nuôi con nuôi là sự
kiện pháp lý, là một cấu thành sự kiện.
Về lý luận, sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế được
pháp luật quy định rõ các quyền và nghĩa vụ. Có nghĩa là những hồn cảnh,
tình huống điều kiện của đời sống thực tế được pháp luật ghi nhận trong các
quy phạm pháp luật gắn liền với việc làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể khi chúng xảy ra.

7



Với tư cách là một sự kiện pháp lý, điều kiện nuôi con nuôi bao gồm
các điều kiện về nội dung và điều kiện về hình thức. Hai điều kiện này có mối
quan hệ với nhau và tạo ra hiệu lực pháp lý của quan hệ ni con ni. Vì
vậy, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật ni con ni khi nó đáp
ứng được các yếu tố sau: các điều kiện về chủ thể của việc ni con ni; sự
thể hiện ý chí của người nhận ni con ni, ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người
giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi, ý chí của bản thân người con ni
(điều kiện nội dung) và ý chí của nhà nước cơng nhận việc xác lập quan hệ
ni con ni (điều kiện hình thức).
- Về chủ thể: người nhận nuôi, người được nhận nuôi, cha mẹ đẻ phải
đáp ứng được các điều kiện của việc nuôi con nuôi. Các điều kiện này được
pháp luật quy định và bắt buộc các chủ thể phải đáp ứng khi mong muốn xác
lập quan hệ nuôi con nuôi. Việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện nuôi con ni
do pháp luật quy định chính là một điều kiện để các bên tham gia vào sự kiện
pháp lý phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.
- Về sự thể hiện ý chí của các bên liên quan: các chủ thể ngồi việc đáp
ứng được các điều kiện của việc ni con ni thì cần phải thể hiện ý chí của
mình trong việc cho – nhận con nuôi.
+ Sự thể hiện ý chí của người nhận ni con ni. Người nhận ni con
ni phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và
thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó.
+ Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được
cho làm con nuôi. Ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con
ni phải tự nguyện, khơng có bất cứ sự tác động, dụ dỗ, ép buộc nào.
+ Sự thể hiện ý chí của bản thân người được nhận làm con nuôi. Pháp
luật quy định khi trẻ em đạt đến một độ tuổi nhất định (từ 9 tuổi trở lên), trẻ
em có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan đến cuộc


8


sống của mình. Sự đồng ý làm con ni của trẻ trong trường hợp này là điều
kiện bắt buộc để việc ni con ni có giá trị pháp lý. Quy định này thể hiện
quyền cơ bản của trẻ em trong việc bày tỏ ý kiến của mình.
- Ý chí của nhà nước được thể hiện qua việc công nhận hay không
công nhận việc nuôi con nuôi thông qua thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi
hay từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi được công nhận
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc
nuôi con nuôi.
Như vậy, dưới góc độ là một sự kiện pháp lý, ni con nuôi được
hiểu là việc một người hoặc hai người là vợ chồng nhận nuôi một người
khác không do họ sinh ra, nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người
nhận nuôi và người được nhận nuôi trên cơ sở phù hợp với các quy định
của pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
Việc ban hành Luật Ni con ni cũng như quy định mục đích của
việc nuôi con nuôi đã thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tình yêu
thương, tinh thần trách nhiệm, mối quan hệ tương thân tương ái giúp đỡ lẫn
nhau giữa con người với con người. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước còn
chịu những di chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội cịn
khó khăn, mức thu nhập của người dân còn thấp, nhiều trẻ em có hồn cảnh
đặc biệt cần có mái ấm gia đình, thì vấn đề ni con ni càng trở lên cấp
thiết trong đời sống xã hội, đảm bảo cho trẻ em được lớn lên trong mơi
trường gia đình, trong bầu khơng khí hạnh phúc để trở thành người có ích
cho xã hội. Trong thời gian qua, có rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi khi vừa mới
sinh ra, rất nhiều trẻ em bị dị tật bẩm sinh hoặc bị di chứng do ảnh hưởng
của chiến tranh để lại, trẻ em là con của các gia đình nghèo mà cha mẹ để
khơng có đủ điều kiện để chăm sóc con cái. Các em phải sớm lăn lộn với


9


đời, tự bươn chải làm đủ các nghề để kiếm sống như bán vé số, đánh giầy,
ăn xin... Với môi trường đó các em dễ bị các phần tử xấu dụ dỗ, khơng ít
những đứa trẻ đã kiếm sống bằng nghề móc túi, cướp giật, trộm cắp... và các
em sẽ trở thành gánh nặng của xã hội. Vì vậy, việc các em được nhận làm
con ni có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ riêng với cuộc đời của các em
mà cịn có ý nghĩa đối với tồn xã hội. Việc nuôi con nuôi không chỉ là biện
pháp tốt nhất, phù hợp và có lợi nhất đối với trẻ em mà còn là cách thực hiện
hợp pháp quyền làm cha mẹ của cá nhân.
Việc nhận ni con ni góp phần làm giảm gánh nặng của nhà nước
trước tình trạng trẻ em lang thang, không nơi nương tựa, không nguồn nuôi
dưỡng, hạn chế trẻ em có thể có hành vi vi phạm pháp luật hay mắc các tệ nạn
xã hội do thiếu sự quan tâm, giáo dục… Đây là cơ sở để đảm bảo sự ổn định,
phát triển của đất nước đồng thời cũng giảm đi gánh nặng đối với ngân sách
nhà nước vì khơng phải đưa các em vào cơ sở bảo trợ xã hội mà vẫn đảm bảo
được lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Mặt khác, việc nhận nuôi con ni đem lại cho đứa trẻ một gia đình, ở
đó đứa trẻ được hưởng sự yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng như những đứa
trẻ khác. Chúng sẽ không bị mặc cảm về hồn cảnh của mình, có điều kiện tốt
nhất để phát triển nhân cách, trí tuệ của bản thân. Đây cũng là một biện pháp
đảm bảo quyền cơ bản của trẻ em – quyền được sống trong môi trường gia
đình. Cịn đối với người nhận ni, việc ni con nuôi đem lại cho họ một
đứa con phù hợp với nguyện vọng của họ. Đặc biệt đối với những cặp vợ
chồng vô sinh, việc nhận con nuôi giúp họ thực hiện quyền làm cha mẹ của
mình, họ được chăm lo, được thể hiện tình cảm của của những người làm cha
mẹ với đứa con.
Việc nuôi con nuôi sẽ đáp ứng một cách hài hịa lợi ích của cả hai bên

người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Người nhận nuôi thỏa mãn được

10


nhu cầu tình cảm, tinh thần một cách đầy đủ, trọn vẹn của một người làm cha,
làm mẹ. Đối với trẻ em được nhận làm con nuôi là việc được chăm sóc, được
ni dưỡng được sống trong tình u thương trong một gia đình, nơi có vai
trị quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người.
Nếu nhân cách của con người bao gồm hai mặt đức và tài, thì gia đình là nơi
ni dưỡng đạo đức và gieo mầm tài năng. Vì vậy việc nuôi con nuôi sẽ tạo
cho trẻ em được sống dưới mái ấm gia đình, góp phần vào việc xây dựng và
ươm mầm tài năng cho đất nước.
1.2. Khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi
Pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhà nước nhằm điều chỉnh những nhu
cầu của cá nhân phát sinh từ đời sống thực tế. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau sự điều chỉnh quan hệ ni con ni khác nhau. Khi chưa có nhà nước
và pháp luật thì việc ni con ni diễn ra tự nhiên, dựa vào nhu cầu tình cảm
của cá nhân mà không bị chi phối bởi các điều kiện ni con ni. Khi xã hội
hình thành giai cấp, xuất hiện nhà nước và pháp luật, lúc này việc nuôi con
ni được gắn với lợi ích của trẻ em, của gia đình và lợi ích của giai cấp
thống trị. Vì vậy, pháp luật sẽ quan tâm điều chỉnh bằng việc quy định các
điều kiện nuôi con nuôi để đảm bảo lợi ích của các bên liên quan và duy trì
trật tự công cộng của xã hội.
Mặt khác, việc nuôi con ni được xác lập trên cơ sở ý chí, tình cảm
của các bên mà không gắn với quan hệ tự nhiên thuần túy về mặt sinh học
huyết thống nên việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi phải gắn liền với các
điều kiện cụ thể để tạo môi trường sống lành mạnh, an toàn cho trẻ. Các
điều kiện này được quy định bởi các quy phạm pháp luật mà người nhận
nuôi con nuôi và con nuôi phải đáp ứng. Các điều kiện này gắn với nhân

thân, hoàn cảnh...của các chủ thể để đảm bảo quan hệ nuôi con nuôi xác lập
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của các bên. Nếu chủ thể của quan hệ nuôi

11


con ni khơng đáp ứng được các điều kiện đó thì quan hệ ni con ni
khơng có giá trị pháp lý.
Dưới góc độ pháp lý, điều kiện ni con ni là sự thể hiện ý chí của
nhà nước thơng qua các quy phạm pháp luật quy định các điều kiện cần có
đối với các chủ thể có liên quan trong việc cho - nhận con ni phù hợp với
mục đích của việc ni con ni và trên cơ sở đó việc nuôi con nuôi được
công nhận là hợp pháp.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc quy định điều kiện nuôi con nuôi
- Điều kiện kinh tế, xã hội trong một giai đoạn nhất định ảnh hưởng
trực tiếp đến việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi. Tuy nuôi con ni là
một chế định có lịch sử lâu đời, nhưng bản chất của việc ni con ni đã có
những thay đổi lớn qua từng thời kì. Thời kỳ đầu, nuôi con nuôi chủ yếu là
biện pháp đảm bảo cho các cặp vợ chồng hiếm muộn khơng có con có người
nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên. Việc nuôi con ni lúc đó vì lợi ích của
gia đình người nhận ni mà chưa xuất phát từ lợi ích của trẻ em được nhận
nuôi. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của trẻ em năm 1989 ra đời đã
đánh dấu cuộc cách mạng tư tưởng về quyền trẻ em. Công ước khẳng định trẻ
em phải được coi là trung tâm bảo vệ đã góp phần làm thay đổi mục đích của
việc ni con ni từ chỗ “đem lại cho gia đình một trẻ em” đã chuyển thành
“đem lại cho trẻ em một gia đình”. Vì vậy, khung pháp luật về nuôi con nuôi
cũng như quy định về các điều kiện ni con ni được xây dựng và có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ em.
- Quy định điều kiện nuôi con nuôi xuất phát từ ý chí của Nhà nước
trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình nói chung và quan hệ ni con ni

nói riêng. Việc ni con ni có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với các bên
chủ thể mà cịn làm hình thành một gia đình mới – một cấu trúc cơ bản của xã
hội, nên nó ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển của một đất nước. Đặt ra

12


các điều kiện đối với các bên chủ thể trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi
nhằm định hướng, tạo ra khung pháp lý cơ bản cho việc nuôi con nuôi, để
việc nuôi con nuôi được thực hiện với mục đích nhân đạo, bảo vệ các quyền
cơ bản của con người đặc biệt là của trẻ em, phù hợp với các chuẩn mực đạo
đức của xã hội và lợi ích chung của đất nước.
Mặt khác, đường lối chủ trương của Nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc tới
mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có việc ni con nuôi, là cơ sở để quy
định các điều kiện ni con ni. Chính sách xã hội có thể tác động theo hai
hướng: thúc đẩy, khuyến khích việc nhận ni con ni hoặc hạn chế, kìm
hãm việc nhận ni con ni. Các biện pháp, chính sách có ảnh hưởng trực
tiếp tới việc nuôi con nuôi như: biện pháp hỗ trợ kinh tế, phúc lợi xã hội cho
người nhận con nuôi, kế hoạch dân số và kế hoạch hóa gia đình, khuyến khích
nhận các trẻ em mồ cơi, khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo làm con nuôi...Do
vậy, tùy theo đường lối chủ trương của nhà nước trong từng thời kỳ có tác
động tới việc nuôi con nuôi cũng như quy định các điều kiện nuôi con nuôi
đối với các chủ thể tham gia vào quan hệ này.
- Việc quy định điều kiện nuôi con nuôi bị chi phối bởi các nguyên tắc
điều chỉnh pháp luật đối với việc nuôi con nuôi, trong đó nguyên tắc đảm bảo
cho trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc là một ngun tắc cơ bản
chi phối việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi. Bởi nuôi con nuôi chỉ
thực sự cần thiết và vì lợi ích của trẻ được cho làm con ni khi trẻ em đó
khơng thể được ni dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt của mình vì
những lý do nhất định. Chỉ khi đó việc cho – nhận trẻ em làm con nuôi mới

phù hợp với quyền của trẻ em được sống trong gia đình, phù hợp với nguyên
tắc: “Trẻ em không bị buộc cách ly khỏi cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ,
trừ trường hợp một sự cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ
em” [24, Điều 9]. Ngay cả trong trường hợp phải cách ly khỏi cha mẹ thì ý

13


muốn của trẻ em cũng phải được quan tâm trước tiên khi trẻ em có khả năng
thể hiện ý chí của mình. Vì vậy, việc đưa trẻ em ra khỏi gia đình ruột thịt của
mình để làm con ni người khác chỉ có thể xuất phát từ lợi ích của chính trẻ
em, khơng phải mọi trẻ em đều được cho làm con nuôi người khác. Trẻ em
chỉ được cho làm con ni khi khơng có sự chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục
của gia đình do bố mẹ đã chết, bị mất tích, khơng xác định được hoặc đều bị
mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy cịn sống nhưng
khơng thể có điều kiện chăm sóc, ni dưỡng trẻ. Lúc này cho trẻ em làm con
ni là giải pháp tốt nhất cho lợi ích của trẻ. Do đó, quy định về các điều kiện
của việc cho – nhận con nuôi phải xuất phát từ nguyên tắc cơ bản này.
- Phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống cũng ảnh
hưởng đến việc quy định các điều kiện của việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con
nuôi chịu ảnh hưởng sâu đậm của những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
như tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, cưu mang, đùm bọc những trẻ
em lang thang, cơ nhỡ, không nơi nương tựa. Tuy nhiên, với ảnh hưởng tiêu
cực của cơ chế thị trường, những nét truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang bị
đe dọa nghiêm trọng. Những giá trị nhân văn và giá trị tinh thần có phần bị
xem nhẹ và coi thường, dẫn đến sự thay đổi trong hành vi xử sự của con
người theo xu hướng thực dụng, vụ lợi. Việc giữ gìn được những truyền thống
văn hóa có giá trị tốt đẹp của dân tộc như tính cộng đồng, lịng nhân ái...có
ảnh hưởng tích cực đến việc nuôi con nuôi.
Đạo đức, lối sống cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình trạng ni con

ni. Trong xã hội phong kiến, quan niệm về chuẩn mực đạo đức rất khắt khe.
Ngày nay sự hiểu biết của con người ngày càng mở rộng, chất lượng cuộc
sống được cải thiện và nâng cao, quan niệm sống, cách sống của con người có
nhiều thay đổi, trở lên phóng khống, tự do, cởi mở hơn đặc biệt là giới trẻ.
Sự trưởng thành về tình dục của nam nữ thanh niên sớm hơn, nhưng lại không

14


được giáo dục để có sự hiểu biết cần thiết về an tồn tình dục cũng như các
biện pháp phịng tránh thai và sức khỏe sinh sản. Do đó tình trạng trẻ em gái
chưa thành niên mang thai là một hiện tượng tương đối phổ biến và đáng lo
ngại. Những đứa trẻ được sinh ra bởi cha mẹ khơng có quan hệ hơn nhân,
khơng có điều kiện kinh tế, người mẹ khơng có hiểu biết và khả năng cần thiết
tối thiểu để nuôi dưỡng trẻ sơ sinh, hơn nữa người mẹ trẻ bị áp lực bởi những
định kiến xã hội nên dẫn đến việc người mẹ trẻ bỏ rơi con ngay sau khi sinh
tại cơ sở y tế, trên đường phố hoặc các trung tâm nuôi dưỡng trẻ... Những trẻ
em này là đối tượng có thể được cho làm con nuôi. Việc cho trẻ em làm con
nuôi trong những trường hợp này thường xảy ra do sự bồng bột thiếu suy
nghĩ, chín chắn. Do đó, việc quy định các điều kiện về sự thể hiện ý chí của
cha mẹ đẻ trong việc cho con đi làm con nuôi là cần thiết.
- Dựa trên các văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em, quy định các
điều kiện nuôi con nuôi cho phù hợp với pháp luật quốc tế về nuôi con nuôi
như: Công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
nuôi con nuôi quốc tế… Những văn bản này được coi là cơ sở pháp lý quan
trọng để quy định các điều kiện nuôi con nuôi theo hướng tiệm cận với pháp
luật nuôi con nuôi quốc tế.
1.4. Sự cần thiết quy định điều kiện nuôi con nuôi
Một trong những quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật bảo vệ là
quyền được sống, được chăm sóc, ni dưỡng trong mơi trường gia đình – nơi

có vai trị quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con
người. Nhưng khơng phải tất cả trẻ em sinh ra đều có cha mẹ và đều có may
mắn được sống trong mơi trường gia đình. Vì vậy, việc tìm một gia đình thay
thế cho trẻ thiếu may mắn được xem là biện pháp đảm bảo tốt nhất cho trẻ.
Nó vừa thể hiện sự tôn trọng những quyền cơ bản của trẻ, vừa đảm bảo cho
trẻ được u thương, chăm sóc, ni dưỡng trong mơi trường gia đình. Tuy

15


nhiên, mối quan hệ gia đình trong quan hệ ni con ni xác lập xuất phát từ
ý chí chủ quan của con người, không dựa trên quan hệ huyết thống tự nhiên
nên lợi ích của trẻ em được cho làm con ni có thể khơng được đảm bảo
hoặc việc ni con ni được xác nhằm những mục đích vụ lợi khác, làm biến
đổi bản chất, mục đích tốt đẹp của việc nuôi con nuôi. Để bảo vệ tốt các
quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em được nhận làm con ni cần có các
quy định pháp luật điều chỉnh, trong đó việc quy định các điều kiện của việc
ni con nuôi là cần thiết bởi những lý do sau:
- Việc cho – nhận con nuôi là một quan hệ ý chí, xuất phát từ ý chí, tình
cảm của các bên chủ thể mà không phải là một quan hệ tự nhiên thuần túy về
mặt sinh học. Mục đích của việc ni con ni là bảo đảm quyền, lợi ích của
người con nuôi và người nhận nuôi, nhưng trên hết là lợi ích của trẻ em được
cho làm con ni. Về mặt xã hội, việc cho - nhận con nuôi có thể xuất phát từ
nhiều lý do khác nhau, bị chi phối bởi quan điểm của mỗi cá nhân về lợi ích,
đạo đức, niềm tin, giá trị xã hội cùng với tình cảm, hồn cảnh cụ thể của họ.
Song về mặt pháp lý, việc cho – nhận con nuôi được xem xét trên cơ sở lợi
ích tốt nhất của con ni chưa thành niên. Vì vậy, việc quy định các điều kiện
của việc nuôi con nuôi là một yêu cầu khách quan và cần thiết để bảo vệ lợi
ích của người được nhận nuôi. Các điều kiện đối với các bên chủ thể càng
chặt chẽ, càng đảm bảo trẻ em được chăm sóc, ni dưỡng trong điều kiện tốt

nhất để mục đích ni con ni đạt được.
- Quy định các điều kiện nuôi con nuôi đặc biệt là quy định các điều
kiện của người nhận nuôi sẽ tạo ra một mơi trường gia đình an tồn, lành
mạnh trong việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ. Việc đáp ứng đầy đủ các
điều kiện nuôi con nuôi của người nhận nuôi đảm bảo người nhận ni có đủ
tư cách đạo đức, hiểu biết, kinh tế và thật sự mong muốn được u thương,
chăm sóc trẻ. Người nhận ni sẽ ý thức được việc sẽ nhận nuôi một đứa trẻ

16


phù hợp với nguyện vọng của mình để có trách nhiệm trong việc giáo dục trẻ
và xây dựng tình cảm gắn bó chặt chẽ với trẻ trong quan hệ cha mẹ và con.
- Việc quy định các điều kiện đối với trẻ em được nhận làm con nuôi về
độ tuổi, hồn cảnh gia đình...mới được cho làm con ni sẽ đảm bảo quyền
trẻ em được sống trong gia đình gốc ruột thịt của mình. Về nguyên tắc, trẻ em
phải được ưu tiên sống trong gia đình gốc ruột thịt của mình, khơng phải mọi
trẻ em đều được cho làm con nuôi. Trẻ em chỉ được cho làm con nuôi khi
không có sự chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục của gia đình do bố mẹ đã chết, bị
mất tích, khơng xác định được hoặc đều bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc
khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy còn sống nhưng khơng thể có điều kiện chăm sóc,
ni dưỡng trẻ. Trường hợp trẻ em đang được sống trong gia đình với bố mẹ
đẻ của mình, nhận được đầy đủ sự yêu thương, chăm sóc về vật chất lẫn tinh
thần thì vấn đề cho trẻ em đó làm con ni không cần đặt ra. Việc cho con
làm con nuôi, dù phù hợp với nguyện vọng của cha mẹ đẻ, vẫn phải xuất phát
từ lợi ích của con, chứ khơng phải lợi ích của cha mẹ đẻ. Quy định điều kiện
đối với trẻ được nhận làm con ni cịn nhằm đảm bảo việc giữ gìn gốc gác
dân tộc, văn hóa, ngơn ngữ của trẻ. Bởi vì việc cho trẻ làm con ni ở nước
ngồi chỉ được coi là giải pháp cuối cùng khi khơng thể tìm một gia đình
thích hợp cho trẻ tại nước gốc.

- Quy định điều kiện nuôi con nuôi sẽ tạo ra khung pháp lý, một hành
lang pháp lý để bảo vệ đứa trẻ được cho làm con nuôi. Bởi trẻ em là người
chưa trưởng thành đầy đủ về thể chất và tinh thần nên cần được chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục để có thể phát triển bình thường. Nếu việc xác lập quan
hệ nuôi con nuôi diễn ra một cách tự do, các bên không đáp ứng các điều kiện
nhất định thì việc cho nhận con ni rất dễ bị biến dạng, bị lợi dụng để thực
hiện những hành vi bắt cóc, chiếm đoạt, mua bán trẻ em hoặc nhằm những
mục đích trục lợi khác, khơng phù hợp với mục đích của việc ni con. Ví dụ:

17


cho con làm con nuôi để được xuất cảnh đi nước ngồi, cho làm con ni của
thương binh, người có công với cách mạng để được hưởng chế độ ưu tiên, đãi
ngộ của nhà nước đối với những người này... Thực chất đây là những hành vi
lợi dụng sơ hở của pháp luật để trục lợi mà không nhằm mục đích xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên. Vì vậy, pháp luật cần quy định những
điều kiện cần thiết của người được nhận làm con nuôi để bảo vệ quyền, lợi ích
của trẻ, đồng thời ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, lợi dụng việc cho –
nhận con ni nhằm những mục đích vụ lợi khác.
- Do quan hệ nuôi con nuôi bị chi phối trước hết bởi ý chí, tình cảm của
các bên chủ thể nên sự điều chỉnh của pháp luật có ý nghĩa quan trọng. Các
điều kiện nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cơng nhận một quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp, vừa là cơ sở để giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi. Nếu các bên chủ thể vi
phạm một trong các điều kiện nuôi con nuôi thì việc ni con ni khơng
được cơng nhận, khơng có giá trị pháp lý và không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ trong quan hệ cha mẹ - con. Vì thế các bên có liên quan phải ý thức
hành vi của mình và xác định được những xử sự cần thiết đúng pháp luật khi
muốn xác lập quan hệ nuôi con nuôi. Mặt khác, các điều kiện nuôi con nuôi là

cơ sở pháp lý để xác định quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp hay không
không hợp pháp. Trên cơ sở đó giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc
ni con ni. Ví dụ: tranh chấp về nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; tranh
chấp về thừa kế tài sản.

18


×