Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.03 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ NHƯ THỦY

CHUYỂN GIAO HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CHUYỂN GIAO HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số chuyên ngành: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
Học viên: Trần Thị Như Thủy
Lớp: Cao học Luật, Khóa 1 – Khánh Hịa


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017





 

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do bản thân tơi thực hiện. Tồn bộ nội
dung trình bày là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa từng được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Tơi chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan
này.
TÁC GIẢ

TRẦN THỊ NHƯ THỦY



 

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN GIAO HỢP ĐỒNG ..............................13

1.1. Khái niệm hợp đồng và các quan hệ phát sinh từ hợp đồng ..................... 13
1.1.1. Khái niệm hợp đồng.................................................................................. 13
1.1.2. Các quan hệ phát sinh từ hợp đồng .......................................................... 15
1.2. Chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ, thực hiện công việc
thông qua người thứ ba........................................................................................ 17
1.2.1. Chuyển giao quyền yêu cầu ...................................................................... 18
1.2.2. Chuyển giao nghĩa vụ ............................................................................... 22

1.2.3. Thực hiện công việc thông qua người thứ ba ........................................... 24
1.3. Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật chuyên ngành Việt Nam .............. 26
CHƯƠNG 2. CHUYỂN GIAO HỢP ĐỒNG THEO QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT CÁC
NƯỚC VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ...............................................................35

2.1. Khái niệm chuyển giao hợp đồng................................................................. 35
2.2. Bản chất pháp lý của chuyển giao hợp đồng .............................................. 39
2.3. Đối tượng của chuyển giao hợp đồng .......................................................... 41
2.4.1. Chuyển giao hợp đồng theo quy định pháp luật ....................................... 48
2.4.2. Chuyển giao hợp đồng theo thỏa thuận .................................................... 48
2.5. Hình thức chuyển giao hợp đồng ................................................................. 51
2.6. Điều kiện có hiệu lực của chuyển giao hợp đồng ........................................ 53
2.7. Những trường hợp không được chuyển giao hợp đồng ............................. 58
2.8. Thời điểm phát sinh hiệu lực của chuyển giao hợp đồng .......................... 59
2.9. Hệ quả pháp lý của chuyển giao hợp đồng ................................................. 63
2.10. Phác thảo các điều luật quy định chuyển giao hợp đồng trong BLDS
2015 ........................................................................................................................ 68
Kết luận chương 2................................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN...........................................................................................................................69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



 

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hợp đồng đóng vai trị đặc biệt trong đời sống xã hội. Vì giao dịch dân sự
diễn ra hàng ngày, phục vụ nhu cầu của các chủ thể tham gia, nên việc nhìn nhận,

xây dựng pháp luật cho hợp đồng bao giờ cũng được đặc biệt quan tâm. Bộ luật dân
sự (gọi tắt là BLDS) Việt Nam năm 2015 đã có chế định hợp đồng, quy định những
nguyên tắc chung, những vấn đề liên quan đến hợp đồng nhằm điều chỉnh mối quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng. Những quy định này, nhìn chung đã dự
liệu bao quát một cách khá đầy đủ, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội về hợp đồng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì sự giao
lưu dân sự cũng phát triển ở tầng suất cao hơn, sâu rộng hơn và kéo theo sự xuất hiện
những giao dịch dân sự mà pháp luật chưa dự liệu, điều chỉnh kịp thời hoặc đã dự
liệu, điều chỉnh một cách rời rạc, độc lập trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Thực tiễn này khiến cho việc áp dụng pháp luật lúng túng, chưa đáp ứng được nhu
cầu thực tế của xã hội. Chuyển giao hợp đồng là một trong những vấn đề ấy.
Vì là một quan hệ, một nhu cầu của xã hội, nên dẫu cho pháp luật chưa điều
chỉnh thì chúng vẫn tồn tại và ngày càng phát triển. Thế nên, để mối quan hệ này
vận hành, phát triển một cách có trật tự, theo đúng định hướng của Nhà nước thì
pháp luật cần có sự nhìn nhận tương xứng, dự liệu một cách bao quát và điều chỉnh
theo guồng phát triển chung của giao lưu dân sự. Tất cả nhằm tạo điều kiện cho giao
dịch dân sự được lưu thơng một cách tốt nhất.
Ngồi việc pháp luật chưa dự liệu, chưa quy định thỏa đáng thì vấn đề
chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự cũng chưa được tìm hiểu, đánh giá một
cách sâu rộng dưới góc độ nghiên cứu. Dẫn đến mối quan hệ này vẫn là một vấn đề
mà giới nghiên cứu cịn bỏ ngỏ.
Từ quan điểm cho rằng cần có sự đánh giá, nhìn nhận, quy định về chuyển
giao hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài
“Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ
Luật học.



 


2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Như đã nêu trên, BLDS Việt Nam (năm 1995, 2005, 2015) chưa có quy định
về chuyển giao hợp đồng, nên hiện nay, mảng nghiên cứu luật pháp chưa có cơng
trình bình luận khoa học về vấn đề này.
Các bài viết khoa học về chuyển giao hợp đồng chủ yếu là những bài viết về
sự cần thiết phải luật hóa vấn đề này trong BLDS. Tuy nhiên, việc xác định bản chất
pháp lý của chuyển giao hợp đồng không thể tách rời các nghiên cứu có tính chất
nền tảng về hợp đồng. Nên theo quan điểm của tác giả, tình hình nghiên cứu của
luận văn có thể khái quát như sau:
Trước hết , tác giả đề cập đến sách chuyên khảo:
- Đỗ Văn Đại (2017),
  Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án, tập II, Nxb. Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam. Mặc dù nội dung cơng trình này
chủ yếu đề cập đến hợp đồng nhưng từ trang 915 đến trang 941 đã đề cập đến
chuyển giao hợp đồng.
-Đỗ Văn Đại (2014), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án,
tập II, Nxb. Chính trị quốc gia. Cơng trình này cũng chủ yếu bàn về hợp đồng và từ
trang 811 đến trang 843 đã đề cập đến chuyển giao hợp đồng.
Theo đó, tác giả Đỗ Văn Đại đã giới thiệu về pháp luật các nước trên thế giới
về chuyển giao hợp đồng. Đối với quan hệ chuyển giao hợp đồng ở Việt Nam, tác
giả Đỗ Văn Đại cũng đánh giá là các cơng trình nghiên cứu về chủ đề này chưa
nhiều nhưng thực tế chuyển giao hợp đồng đã xảy ra thường xuyên và đã có tranh
chấp.
Bằng cách bình luận các bản án liên quan chuyển giao hợp đồng, tác giả Đỗ
Văn Đại đã phân tích, đánh giá các yếu tố pháp lý liên quan đến chuyển giao hợp
đồng như: Khái niệm chuyển giao hợp đồng, đối tượng của chuyển giao hợp đồng,
phân biệt khái niệm chuyển giao hợp đồng với khái niệm khác, các phương thức
chuyển giao hợp đồng (theo pháp luật, theo thỏa thuận), sự đồng ý của bên kia hợp
đồng hình thức của thỏa thuận chuyển giao, điều kiện về nội dung của thỏa thuận
chuyển giao, thực hiện chuyển giao hợp đồng; thời điểm chuyển giao hợp đồng có

hiệu lực.



 

Có thể nói, tác giả Đỗ Văn Đại đã phác thảo những đường nét cơ bản nhất về
chuyển giao hợp đồng, những vấn đề cần làm rõ, cần quy định khi ghi nhận quan hệ
này vào BLDS.
Đây là công trình nghiên cứu rõ nét nhất, chi tiết nhất về chuyển giao hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, cơng trình chỉ mới đưa ra khung phác
thảo về chuyển giao hợp đồng, các yếu tố cơ bản nhất của quan hệ pháp luật này,
nhằm gợi mở và định hướng cho người đọc hình dung và nhìn nhận vấn đề khi tiếp
cận, nghiên cứu; mà chưa đi sâu phân tích chi tiết về các yếu tố đã đưa ra này.
Bên cạnh sách chuyên khảo trực tiếp liên quan đến chuyển giao hợp đồng
của tác giả Đỗ Văn Đại, còn một số sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu, tuy
khơng trực tiếp bàn về chuyển giao hợp đồng nhưng chúng phân tích các vấn đề liên
quan đến vấn đề này, cũng là nguồn tài liệu tham khảo khi nghiên cứu đề tài chuyển
giao hợp đồng, như:
- Đỗ Văn Đại (2013), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án, tập I, Nxb.Chính trị quốc gia – sự thật. Trong cơng trình này, tác giả Đỗ Văn
Đại phân tích và bình luận các quy định của BLDS 2005 về hợp đồng, trên cơ sở
các bản án mà Tòa án đã phát hành.
- Đỗ Văn Đại (2014), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án, tập II, Nxb.Chính trị quốc gia – sự thật.
- Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự, Bản án và bình luận bản án, tập I, Nxb. Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam.
Trong cơng trình này, từ trang 575 đến 672, tác giả Đỗ Văn Đại phân tích quy định
pháp luật của BLDS 2015 về chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ, kết
hợp đối chiếu quy định của những vấn đề này trong BLDS 2005, 1995 để thấy tổng

quan vấn đề theo thời gian.
- Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự, Bản án và bình luận bản án, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật. Trong cơng
trình này, từ trang 408 đến 470, tác giả Đỗ Văn Đại đề cập đến chuyển giao nghĩa vụ,
điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý, điều kiện có hiệu lực của chuyển
giao nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến chuyển giao nghĩa vụ,
đối với biện pháp bảo đảm liên quan, căn cứ để xác định chuyển giao nghĩa vụ, phân
biệt chuyển giao nghĩa vụ với thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba. Phần nội
dung này tác giả đã phân tích sâu về chuyển giao nghĩa vụ như vừa nêu trên.



 

- Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự, Bản án và bình luận bản án, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật.
- Đỗ Văn Đại (2017), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân
sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.
- Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng, Nxb. Hồng Đức.
- Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm
2005, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật. Trong phần ba - Nghĩa vụ dân sự và
hợp đồng dân sự, tác giả Hồng Thế Liên phân tích quy định của Điều 496 – khoản
4 của BLDS 2005, về việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ giữa bên thuê nhà ở và
chủ mới sở hữu nhà trong trường hợp nhà đang thuê có thay đổi về chủ sở hữu. Đây
là điều luật quy định về việc chuyển giao hợp đồng trong trường hợp cụ thể, là hợp
đồng thuê nhà ở.
- Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Tư pháp. Trong cơng trình này, tác giả Nguyễn Ngọc Khánh viết về khái
niệm, chức năng, vị trí của hợp đồng; ý chí và tự do ý chí trong hợp đồng; các
khiếm khuyết của sự thống nhất ý chí; hình thức của sự thể hiện ý chí trong hợp

đồng; giao kết, thực hiện và sửa đổi, hủy bỏ hợp đồng; trách nhiệm hợp đồng; các
hợp đồng dân sự thông dụng.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia. Trong phần III, trang 275 đến 467, do tác giả Lê
Nết biên soạn, phân tích khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng, giao kết hợp
đồng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và hậu quả pháp lý
của hợp đồng vơ hiệu, giải thích hợp đồng, bên thứ ba và hợp đồng, thực hiện, sửa
đổi, chấm dứt hợp đồng, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng, các hợp đồng dân sự thơng dụng.
Các giáo trình viết về hợp đồng:
- Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2014), Pháp luật về hợp đồng và bồi
thường thiệt hại về hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Từ trang
122 đến 274, phần này do tác giả Lê Minh Hùng biên soạn, về khái luận về hợp
đồng dân sự, như: Khái niệm, bản chất, đặc điểm của hợp đồng; các điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng; hợp đồng vơ hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu;
giao kết hợp đồng; thực hiện, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.



 

- Đại Học Luật Hà Nội (2008), Luật Dân sự Việt Nam, tập II, Nxb. Công an
nhân dân. Trang 90 đến 234, phần nội dung này do tác giả Phạm Văn Tuyết biên
soạn, về khái niệm hợp đồng dân sự - khái niệm, hình thức và thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng dân sự, nội dung của hợp đồng dân sự, phân loại hợp đồng dân sự,
giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng dân sự, các hợp
đồng dân sự thông dụng.
Các sách, giáo trình nêu trên phân tích chi tiết, sâu sắc những vấn đề cơ bản và
liên quan đến hợp đồng. Tuy khơng trực tiếp nói về chuyển giao hợp đồng, nhưng
những nội dung này là nền tảng về hợp đồng, là những cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học

về hợp đồng, để từ đó tác giả tham khảo, nhìn nhận, phân tích, xây dựng các quan
điểm, ý kiến về chuyển giao hợp đồng trong luận văn của mình; dựa trên những vấn
đề cơ bản cốt lõi của hợp đồng, vì chuyển giao hợp đồng là một mảng của hợp đồng.
Ngồi ra, có những bài viết của các tác giả, nghiên cứu trực tiếp về chuyển
giao hợp đồng, gồm có:
- Ngơ Quốc Chiến (2013), “Bộ luật dân sự cần bổ sung quy định về chuyển
giao hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phịng Quốc hội, Số 2-3 (234235), tr.69-77. Trong bài viết này, tác giả Ngô Quốc Chiến giới thiệu về quy định
của các nước, các hệ thống pháp luật trên thế giới đã nhìn nhận, đánh giá, quy định
về chuyển giao hợp đồng. Ngoài ra, bài viết cịn nêu bản chất, lợi ích của chuyển
giao hợp đồng; so sánh pháp luật của các nước về chuyển giao hợp đồng; ý kiến đề
xuất pháp luật quy định về chuyển giao hợp đồng.
Đối với chuyển giao hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, tác giả Ngô Quốc
Chiến nêu thực tiễn cần phải quy định vấn đề này trong BLDS. Tuy nhiên, tác giả
cũng chưa đề cập đến yếu tố cần giải quyết, làm rõ khi quy định vấn đề này.
Và quan điểm của tác giả Ngô Quốc Chiến là, chỉ nên quy định việc chuyển
giao đối với loại hợp đồng song vụ mà thời gian thực hiện kéo dài, bởi lẽ đối tượng
chính của chuyển giao hợp đồng là sự dịch chuyển quyền và nghĩa vụ của một bên
trong hợp đồng sang cho một người mà trước đó là bên thứ ba. Hợp đồng song vụ
có thể được chuyển giao nếu sự chuyển giao này không làm thay đổi quyền và
nghĩa vụ của các bên. Các bên chỉ cần thông báo cho nhau về việc chuyển giao mà
khơng cần giải thích gì thêm. Tuy nhiên, đối với các hợp đồng mà việc thực hiện
gắn liền với phẩm chất, năng lực của các bên giao kết, thì sự đồng ý của bên còn lại
trong hợp đồng là điều kiện tiên quyết cho sự chuyển giao. Bên còn lại có thể từ



 

chối sự chuyển giao, nhưng phải chứng minh rằng việc thay đổi đối tác sẽ gây bất
lợi đến việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Các bên có thể thể hiện ý chí của mình về

việc chuyển giao hay không chuyển giao hợp đồng vào thời điểm giao kết hợp đồng
thông qua điều khoản quy định rõ các khả năng này, hoặc vào thời điểm thực hiện
việc chuyển giao hợp đồng.
- Trần Thị Hương (2013), “Chuyển giao hợp đồng”, Hội thảo quốc tế sửa đổi
Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 và kinh nghiệm nước ngoài, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh. Tác giả Trần Thị Hương đề cập đến bản chất pháp lý, điều kiện
của việc chuyển giao hợp đồng và phạm vi quyền và nghĩa vụ chuyển giao.
Về bản chất pháp lý của chuyển giao hợp đồng, tác giả Trần Thị Hương nêu
“xét dưới góc độ chi tiết thì việc chuyển giao hợp đồng đồng nghĩa với việc chuyển
giao một tập hợp các quyền và nghĩa vụ của một bên chủ thể trong quan hệ hợp
đồng sang cho người thứ ba. Đây là sự thay đổi chủ thể dưới dạng tổng hợp bao
gồm cả việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ. Như vậy, chuyển
giao hợp đồng thực chất là sự tổng hợp của việc chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ. Các qui định của chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ được áp dụng khi thực hiện việc chuyển giao hợp đồng”1. Cịn xét dưới
góc độ tổng thể, tác giả cũng nêu quan điểm của Ngô Quốc Chiến cho rằng “hợp
đồng không chỉ đơn thuần là tập hợp các quyền và nghĩa vụ mà còn là mối quan hệ
giữa hai bên giao kết và đi liền với nó là phẩm chất cá nhân cần thiết cho việc thực
hiện hợp đồng và các quyền phản kháng đơn phương”2.
Đồng thời, “chuyển giao hợp đồng là sự thay đổi chủ thể của quan hệ nghĩa
vụ. Giao dịch của chuyển giao hợp đồng được thực hiện trên cơ sở của sự chuyển
tiếp các quyền và nghĩa vụ được xác lập theo hợp đồng từ chủ thể của hợp đồng
sang cho người khác. Chính sự chuyển tiếp này cấu thành nên bản chất của chuyển
giao hợp đồng. Sự chuyển tiếp này dẫn đến hệ quả là có sự thay đổi về chủ thể trong
quan hệ nghĩa vụ là cơ sở của hợp đồng. Việc thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa
vụ không làm thay đổi bản chất của quan hệ pháp luật nghĩa vụ giữa các bên của


 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
1


Trần Thị Hương (2013), chuyển giao hợp đồng, Hội thảo quốc tể sửa đổi Bộ luật dân sự Việt Nam năm
2005 và kinh nghiệm nước ngoài, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 266-273.
2
Ngơ Quốc Chiến (2013), “Bộ luật dân sự cần bổ sung qui định về chuyển giao hợp đồng”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, Văn phịng Quốc hội, số 2-3(234-235), tr.69-77.



 

hợp đồng. Bởi vậy, đối tượng của thỏa thuận về chuyển giao hợp đồng là quyền và
nghĩa vụ cụ thể hình thành từ quan hệ nghĩa vụ”.3
Về điều kiện của chuyển giao hợp đồng, tác giả Trần Thị Hương cho rằng
việc chuyển giao hợp đồng được cơng nhận có giá trị pháp lý khi việc chuyển giao
đáp ứng các điều kiện: Hợp đồng chuyển giao là hợp đồng có hiệu lực, việc chuyển
giao được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp
luật, các bên tham gia việc chuyển giao hợp đồng phải đáp ứng được các quy định
của pháp luật về tư cách chủ thể, ý chí tự nguyện…
Về phạm vi quyền và nghĩa vụ chuyển giao, tác giả Trần Thị Hương cho rằng
BLDS cần có những quy định rõ ràng và cụ thể đối với vấn đề này. Khởi nguồn từ
nguyên tắc tự do ý chí, tự do thỏa thuận trong quan hệ hợp đồng thì việc chuyển giao
hợp đồng hồn tồn có thể được chuyển giao tồn bộ các quyền và nghĩa vụ từ chủ
thể quan hệ hợp đồng sang cho người thứ ba. Tuy nhiên, BLDS cần quy định là việc
chuyển giao không chỉ được thực hiện với chỉ các quyền yêu cầu chính, các nghĩa vụ
chính mà cả các quyền lợi phụ thuộc hoặc có liên quan đến yêu cầu chính, các nghĩa
vụ phát sinh từ nghĩa vụ chính. Ngồi ra, tác giả Trần Thị Hương cho rằng, bên cạnh
việc chuyển giao toàn bộ các quyền và nghĩa vụ, thì BLDS cần quy định việc chuyển
giao chỉ một phần quyền hoặc nghĩa vụ của chủ thể sang cho người khác. Việc
chuyển giao một phần quyền và nghĩa vụ có thể được thực hiện nhưng với điều kiện
là quan hệ nghĩa vụ có thể phân chia và việc chuyển giao một phần quyền và nghĩa vụ

này không được làm tổn hại đến quyền và lợi ích của bên có nghĩa vụ.
Bên cạnh đó, tác giả Trần Thị Hương còn nêu thêm, khi bổ sung các quy
định về chuyển giao hợp đồng, BLDS cần điều chỉnh quan hệ giữa bên chuyển giao
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng với bên nhận chuyển giao các quyền và nghĩa vụ
này. BLDS cần xác định thời điểm thực hiện chuyển giao hợp đồng, và xác định
trách nhiệm cho các hành vi vi phạm của bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao
(đặc biệt là trách nhiệm của bên chuyển giao khi họ thực hiện việc chuyển giao toàn
bộ quyền và nghĩa vụ của một hợp đồng, đồng thời liên tiếp cho nhiều người khác
nhau). Ngoài ra pháp luật dân sự phải xem xét trật tự thực hiện các quyền và nghĩa
vụ cụ thể của các bên. Việc thiếu vắng những quy định này trong chế định chuyển
giao hợp đồng làm cho mối liên hệ pháp lý giữa các bên chuyển và nhận quyền và
nghĩa vụ trong hợp đồng trở thành lỏng lẻo, không chặt chẽ.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

3

Trần Thị Hương (2013), tldd (1).



 

Những nghiên cứu của các tác giả nói trên, trực tiếp đối với vấn đề chuyển
giao hợp đồng. Trong bối cảnh mảng nghiên cứu pháp luật chưa có cơng trình nào
nghiên cứu sâu rộng về chuyển giao hợp đồng, thì đây là những tài liệu hết sức quý
giá cho người viết, giúp tác giả nắm được tình hình pháp luật các nước trên thế giới
quy định, nhìn nhận, đánh giá về chuyển giao hợp đồng như thế nào, về các thuyết,
quan điểm của các nhà nghiên cứu về chuyển giao hợp đồng, về nền tảng, cơ sở lý
luận để quy định. Những thông tin này đặc biệt quan trọng, vì bao giờ cũng vậy, khi
nghiên cứu, xây dựng pháp luật, đều cần những thông tin liên quan trên thế giới.

Nhất là đối với vấn đề chuyển giao hợp đồng, quá mới mẻ với pháp luật của Việt
Nam thì những thông tin này càng quý giá hơn.
Bên cạnh giới thiệu pháp luật các nước về chuyển giao hợp đồng, những bài
viết, sách chuyên khảo này đã giới thiệu, cũng như gợi mở nghiên cứu những vấn
đề cơ bản của chuyển giao hợp đồng như: Khái niệm; bản chất pháp lý; điều kiện;
thời điểm có hiệu lực; hệ quả pháp lý của chuyển giao hợp đồng; về giải phóng
nghĩa vụ của bên chuyển giao hợp đồng.
Cũng như những sách chuyên khảo nêu trên, các bài viết này giúp cho tác giả
có cái nhìn sơ khảo, khái quát về chuyển giao hợp đồng. Tuy nhiên, những bài viết,
cơng trình nói trên chỉ mới đề cập một cách khái quát nhất về chuyển giao hợp đồng
theo pháp luật thế giới và Việt Nam, mà chưa đi sâu phân tích nhiều khía cạnh của
vấn đề, khiến người đọc chỉ mới hình dung được vấn đề một cách cơ bản nhất,
những đường nét phác thảo sơ lược nhất chứ chưa có cái nhìn chi tiết, cặn kẽ về
chuyển giao hợp đồng.
Ngồi ra, có những bài viết có nội dung liên quan đến chuyển giao hợp đồng:
- Đỗ Văn Đại (2014), “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật dân sự”,
Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 3 (số Tết), trang 40 - 41, 62.
- Đỗ Văn Đại (2008), “Chuyển giao nghĩa vụ trong pháp luật thực định Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 01 (237), trang 21 đến 25.
- Phan Hải Hồ (2007), “Về chế định chuyển giao quyền yêu cầu qua thực
tiễn một số vụ án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 2 (179), trang 53 - 55.
- Nguyễn Thị Thủy (2008), “Chuyển giao quyền yêu cầu bồi hoàn trong bảo
hiểm tài sản”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, số 5 (208),
trang - 20, 41.



 

- Đỗ Thành Công (2011), “Thực tiễn xét xử về thực hiện nghĩa vụ trả tiền

trong hợp đồng chuyển giao bất động sản”, Tạp chí Tồ án nhân dân tối cao, số 22,
trang 17 - 19, 33.
Trong đề tài của mình, ngồi việc đề cập thêm những vấn đề mà các tác giả
nêu trên đã trình bày, tác giả luận văn sẽ đề cập những vấn đề mà các tác giả này
chưa đề cập đến, hoặc đề cập nhưng chưa chi tiết. Những nội dung đó gồm:
- Đề cập các nội dung của BLDS 2015, liên quan đến chuyển giao hợp đồng.
- Hệ thống các điều luật riêng lẻ trong các văn bản pháp luật quy định về
chuyển giao hợp đồng, để cho thấy tổng thể về quy định chuyển giao hợp đồng
trong pháp luật Việt Nam.
- Nêu cơ sở pháp lý, cơ sở khoa khọc, cũng như sự phù hợp, cần thiết, lợi ích
của việc quy định chuyển giao hợp đồng trong BLDS Việt Nam.
- Nêu ý kiến đề xuất hướng quy định đối với chuyển giao hợp đồng trong
BLDS, những nội dung cụ thể cần quy định đối với chuyển giao hợp đồng; phác
thảo các điều luật về chuyển giao hợp đồng.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đưa ra được những quy định về chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015 của
Việt Nam.
Để đạt được mục đích này, luận văn xác định nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, đưa ra được cơ sở lý luận của sự cần thiết luật hóa chuyển giao
hợp đồng trong BLDS 2015 thơng qua việc phân tích các quan hệ phát sinh từ hợp
đồng và chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ. Nhiệm vụ nghiên cứu
này nhằm khẳng định nội dung của hợp đồng không chỉ bao gồm quyền và nghĩa vụ
của các bên, trong khi đó quy định pháp luật hiện hành chỉ dừng lại ở việc chuyển
giao quyền và chuyển giao nghĩa vụ.
Thứ hai, chỉ ra được sự điều chỉnh hiện hành của pháp luật chuyên ngành về
chuyển giao hợp đồng. Nhiệm vụ nghiên cứu này khẳng định sự điều chỉnh đối với
chuyển giao hợp đồng đã tồn tại trong pháp luật chuyên ngành. Và vì thế, với vị trí
của Bộ luật nền tảng, chuyển giao hợp đồng nên được ghi nhận trong BLDS 2015.




 

Thứ ba, tìm hiểu được kinh nghiệm pháp luật một số nước liên quan đến
chuyển giao hợp đồng nhằm xác định nội dung cơ bản cần phải được điều chỉnh
trong trường hợp ghi nhận chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan hệ chuyển giao hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam. Trong đó có quan hệ chuyển giao hợp đồng đã được pháp luật công
nhận trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và các quan hệ chuyển giao hợp
đồng mà pháp luật dân sự Việt Nam chưa quy định.

* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung
chính về chuyển giao hợp đồng, bao gồm các yếu tố chính của chuyển giao hợp đồng.
Bên cạnh đó, những nội dung liên quan cũng được luận văn đề cập đến nhằm làm rõ
nội dung chính, đó là quy định của BLDS 2015 về chuyển giao quyền yêu cầu,
chuyển giao nghĩa vụ, thực hiện công việc thông qua người thứ ba. Vì xét một cách
tổng thể, những quy định về các quan hệ ba bên này không đủ để điều chỉnh chuyển
giao hợp đồng, nên việc quy định chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015 là cần
thiết. Và xét một cách chi tiết, chuyển giao hợp đồng là việc chuyển giao một tập hợp
quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Nên các quy định về chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ sẽ được xem xét, áp dụng cho chuyển giao hợp đồng; để phù
hợp trên lý thuyết chung của những quan hệ dân sự ba bên liên quan mật thiết này.
Mặt khác, chuyển giao hợp đồng cũng là một dạng hợp đồng. Nên những
quy định về hợp đồng là cơ sở để điều chỉnh quan hệ chuyển giao hợp đồng. Lưu ý
rằng, không phải tất cả nội dung của chế định hợp đồng đều phù hợp và sẽ áp dụng
cho quy định về chuyển giao hợp đồng. Vì bản thân chuyển giao hợp đồng là một
quan hệ hợp đồng đặc biệt, nên nội hàm của nó có khác với nội hàm của chế định

hợp đồng. Do vậy, chỉ những nội dung của chế định hợp đồng phù hợp nhất với
quan hệ chuyển giao hợp đồng, mới được áp dụng, kế thừa khi quy định chuyển
giao hợp đồng. Những nội dung của chế định hợp đồng được kế thừa, áp dụng gồm:
Nguyên tắc của giao kết hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng.



 

Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tác giả nghiên cứu pháp luật của Việt
Nam quy định về chuyển giao hợp đồng và các nội dung liên quan đến chuyển giao
hợp đồng. Đồng thời, tác giả nghiên cứu pháp luật của các nước trên thế giới quy
định về chuyển giao hợp đồng để làm cơ sở, kinh nghiệm cho Việt Nam khi ghi
nhận chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015. Bởi lẽ, khoa pháp luật dân sự của
các nước này phát triển. Họ đã điều chỉnh đến quan hệ chuyển giao hợp đồng trong
thực tế. Trước khi đưa ra những quy định này, lẽ dĩ nhiên, các nước đó đã nghiên
cứu kỹ lưỡng, sâu sắc những vấn đề, yếu tố liên quan đến chuyển giao hợp đồng.
Trên cơ sở đó, họ đúc kết, đưa ra những dự liệu phù hợp nhất đối với vấn đề này.
Bao giờ cũng thế, kinh nghiệm của các nước cũng là nguồn, thông tin rất hữu ích để
người nghiên cứu tham khảo khi nghiên cứu vấn đề liên quan. Người viết đối chiếu
với hiện trạng nước mình về vấn đề này so với quy định của các nước, từ đó kế thừa
những quy định này cho pháp luật của Việt Nam. Sao cho những quy định này vừa
phù hợp với quy định pháp luật trong nước, vừa phù hợp với xu hướng của pháp
luật thế giới.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đối với chuyển giao hợp đồng, tác giả tập
trung nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành, từ năm 1994 đến nay. Đối với
vấn đề hợp đồng, tác giả nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định từ năm 1989
đến nay, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực thi hành.
Về thực tiễn: Tác giả phân tích các bản án trong khoảng thời gian gần đây, từ

năm 2008 đến năm 2015, là kết quả giải quyết các tranh chấp liên quan đến chuyển
giao hợp đồng, do Tòa án các cấp trong nước đã xét xử trong thực tế. Thơng qua sự
phân tích này, tác giả nhằm làm sáng tỏ các yếu tố của chuyển giao hợp đồng, cũng
như sự cần thiết phải quy định chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015, và hướng
đến dự liệu một cách trọn vẹn nhất nội hàm của quy định về quan hệ này.
*Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên các phương pháp chính được sử dụng như sau:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích và bình luận; được sử dụng ở chương 1
để làm rõ các vấn đề có liên quan đến chuyển giao hợp đồng.
- Phương pháp so sánh, được sử dụng tại chương 2 để tìm hiểu vấn đề
chuyển giao hợp đồng theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về
chuyển giao hợp đồng. Kết hợp phương pháp bình luận án đối với những bản án
liên quan đến chuyển giao hợp đồng mà Tòa án đã xét xử trong thực tế, tác giả đưa



 

ra quan điểm xây dựng những nội dung của chuyển giao hợp đồng trong BLDS Việt
Nam 2015.
5. Bố cục đề tài
Đề tài có hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chuyển giao hợp đồng.
Chương 2: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật các nước và kinh nghiệm
cho Việt Nam.



 


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN GIAO HỢP ĐỒNG

 

Hiện nay BLDS 2015 chưa có quy định về chuyển giao hợp đồng, nên để
nghiên cứu vấn đề này, tác giả tiếp cận từ cơ sở lý luận các vấn đề liên quan đã
được quy định trong BLDS 2015. Đó là quy định về chuyển giao quyền yêu cầu,
chuyển giao nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba. Trên cơ sở
này, tác giả tập trung phân tích khái niệm hợp đồng; các mối quan hệ phát sinh từ
hợp đồng; quy định pháp luật về việc chuyển giao các quan hệ pháp luật này. Trong
khi đó, hợp đồng khơng chỉ có quyền và nghĩa vụ, mà cịn có yếu tố khác. Nên pháp
luật hiện hành chỉ quy định về việc chuyển giao các mối quan hệ đơn lẻ này là chưa
đầy đủ để điều chỉnh mối quan hệ chuyển giao hợp đồng.
Ngoài ra, tác giả tìm hiểu quy định về chuyển giao hợp đồng theo pháp luật
chuyên ngành Việt Nam, để thấy rằng pháp luật chuyên ngành Việt Nam đã điều
chỉnh quan hệ chuyển giao hợp đồng, .
Thơng qua sự phân tích này, tác giả mong muốn làm rõ BLDS 2015 đã quy
định những yếu tố gần với chuyển giao hợp đồng, nhưng chưa thể bao quát hết quan
hệ chuyển giao hợp đồng. Trong khi đó pháp luật chuyên ngành đã quy định về vấn
đề này. Vậy nên, xét về mặt lý luận, quan hệ chuyển giao hợp đồng cần được quy
định trong Bộ luật nền tảng là BLDS 2015.
1.1. Khái niệm hợp đồng và các quan hệ phát sinh từ hợp đồng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Đối với pháp luật Việt Nam, trải qua quá trình phát triển, khái niệm hợp
đồng mới được hình thành và phát triển. Cho đến năm 1989, khái niệm hợp đồng
dân sự mới được quy định chính thức trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989
(Điều 1) và sau đó là Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 (Điều 1), BLDS 1995
(Điều 394), BLDS 2005 (Điều 388), BLDS 2015 (Điều 385).
BLDS 2005, Điều 388 quy định “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các

bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Và đến nay, BLDS 2015, Điều 385 quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ”.



 

Như vậy, hợp đồng là sự thỏa thuận của ít nhất hai bên tham gia giao kết hợp
đồng. Sự thỏa thuận này phải dựa trên ý chí đích thực, tự nguyện của người tham
gia giao kết. Mục đích của việc giao kết hợp đồng là nhằm xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ.
Theo đó, với tư cách là sự kiện pháp lý, là giao dịch dân sự, hợp đồng bao
hàm hai yếu tố: sự thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý (mục đích xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự). Hợp đồng được thiết lập khi
có sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên, tức là khi có “sự đồng thuận của các ý
định” (consensus ad idem) hay “sự gặp nhau về ý tưởng (meeting of the minds) giữa
các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý. Song sự thỏa thuận giữa các bên khơng
nhằm mục đích tạo lập hệ quả pháp lý- phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự (quan hệ
pháp luật) thì cũng khơng hình thành hợp đồng. Do đó, khơng thể có hợp đồng nếu
khơng có sự thỏa thuận giữa các bên hoặc nếu sự thỏa thuận giữa các bên khơng
nhằm mục đích tạo lập hệ quả pháp lý, tức làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự.
Đây là quan niệm chung của nhiều nước trên thế giới về các dấu hiệu bắt buộc của
hợp đồng, đặc biệt là các nước theo truyền thống Civil Law.
Mặc dù hợp đồng là sự thỏa thuận nhưng hai thuật ngữ “hợp đồng” và “thỏa
thuận” là hai thuật ngữ khơng đồng nhất. Có thể mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận,
sự thỏa thuận không được thừa nhận là hợp đồng mà có thể chỉ mang tính chất bổ
sung, thay đổi, chấm dứt quan hệ hợp đồng ví dụ như thỏa thuận thêm về phụ lục
trong hợp đồng vay tài sản có thế chấp tài sản bảo đảm thì chúng không tạo lập
được quyền, nghĩa vụ dân sự mới4. Bản chất của hợp đồng được hình thành bởi hai

yếu tố pháp lý: Sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên. Vì hợp đồng là
một giao dịch có hai hoặc nhiều bên tham gia dựa trên sự cam kết, thỏa thuận để tạo
lập sự ràng buộc pháp lý với nhau. Khơng có một hợp đồng nào được tạo ra mà
khơng có sự thỏa thuận, sự thỏa thuận là nền tảng cơ bản tạo nên hợp đồng. Xét về
nội dung, sự thỏa thuận phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng để xác định được
bản chất hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Tuy nhiên, thỏa thuận chỉ có thể làm
phát sinh hiệu lực ràng buộc giữa các bên nó phải thỏa mãn các điều kiện về chủ thể
(đủ năng lực hành vi dân sự để giao kết hợp đồng), nội dung và mục đích của hợp
đồng, hình thức hợp đồng.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

4

Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, tr42, 43.



 

Có lẽ vì hướng đến sự đồng nhất trong nhìn nhận về thuật ngữ hợp đồng nên
khái niệm về hợp đồng theo BLDS năm 2015 nói trên đã có thay đổi so với BLDS
năm 2005. Theo đó, thuật ngữ “hợp đồng” được dùng thay cho thuật ngữ “hợp đồng
dân sự”.
Việc bỏ từ “dân sự” “để tránh tư tưởng BLDS chỉ áp dụng cho quan hệ dân
sự thuần túy mà không áp dụng cho các lọai quan hệ hợp đồng khác như quan hệ
hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, lao động. Với hướng bỏ từ “dân sự”, các
quy định về hợp đồng (cũng như quy định khác trong BLDS về hợp đồng) áp dụng
cho tất cả các hợp đồng trong các quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật
tư”5 để khẳng định vai trò của các quy định hợp đồng trong BLDS là quy định

chung về các dạng hợp đồng trong các lĩnh vực khác nhau.
1.1.2. Các quan hệ phát sinh từ hợp đồng
Khái niệm hợp đồng nêu trên, cho thấy những mối quan hệ phát sinh từ hợp
đồng. Vì “định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả các dấu hiệu mang tính bản chất của
hợp đồng và thể hiện rõ vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quan hệ pháp luật”.6 Vậy những quan hệ pháp luật phát sinh, thay đổi,
chấm dứt đó là gì?
“Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết
quả của quá trình thương thảo, thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với nhau…Xét về vị trí, vai trị của hợp đồng,
theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là một căn cứ pháp lý làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật, là phương tiện pháp lý để các bên
tạo lập quan hệ nghĩa vụ”.7
Qua sự phân tích đó, thấy rằng hợp đồng làm phát sinh quan hệ pháp lý, đó
là quan hệ quyền và quan hệ nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ là quan hệ mà các bên
giao kết hợp đồng muốn hướng đến. Các quyền và nghĩa vụ tương ứng theo hợp
đồng giao kết.
“Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là
bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
5

Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, tr.367.
6
Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng, Nxb. Hồng Đức, tr.21.
7
Lê Minh Hùng (2015), tlđd (6).




 

giá, thực hiện công việc hoặc không thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)” (Điều 274 BLDS
năm 2015). Với quy định định nghĩa này, “nghĩa vụ” là gì đã được làm rõ, bằng
chính nội dung của điều luật. Và thế nào là “quyền”? BLDS 2015 không quy định
riêng thế nào là quyền. Nhưng có thể hiểu nghĩa của “quyền” trong chính định
nghĩa của “nghĩa vụ”. Theo đó, quyền là việc một hay nhiều chủ thể được yêu cầu
một hay nhiều chủ thể là bên có nghĩa vụ phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền,
trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc hoặc khơng thực hiện cơng việc
nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác.
Điều 275 BLDS 20158 quy định có nhiều căn cứ phát sinh nghĩa vụ, trong đó
có hợp đồng. Cũng như phần định nghĩa, BLDS 2015 không quy định căn cứ làm
phát sinh quyền. Nhưng có thể hiểu trong hợp đồng, tương ứng với nghĩa vụ của
bên này là quyền của bên kia. Bên có nghĩa vụ bị yêu cầu phải thực hiện nghĩa vụ
của mình, bởi bên có quyền. Nên khi nghĩa vụ phát sinh thì theo đó quyền cũng phát
sinh. Đây là hai quan hệ tương ứng trong hợp đồng.
Như thế, theo khái niệm hợp đồng, thì hợp đồng bao gồm quyền và nghĩa vụ.
Nhưng phân tích mở rộng các yếu tố của hợp đồng, thấy rằng hợp đồng cịn có
những quan hệ khác ngoài quan hệ quyền và nghĩa vụ, mà tác giả Ngô Quốc Chiến
đã đưa ra quan điểm “hợp đồng không chỉ đơn thuần là tập hợp các quyền và nghĩa
vụ mà còn là mối quan hệ giữa hai bên giao kết và đi liền với nó là phẩm chất cá
nhân cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng và các quyền phản kháng đơn phương”9.
Thật vậy, để giao kết hợp đồng, các chủ thể tự do tìm hiểu, lựa chọn đối tác, dựa
trên những điều kiện của đối tác để người này có thể mang lại lợi ích theo hợp đồng
cho họ. Nên khi các bên đồng ý ký hợp đồng với nhau, nghĩa là các bên đã hướng
đến những yếu tố về điều kiện thực hiện hợp đồng của nhau, trước khi hướng đến
quyền, nghĩa sẽ được xác lập theo hợp đồng.
Và khi đã xác lập hợp đồng, các bên sẽ có quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng.

Trong đó có quyền phản kháng đơn phương. Quyền phản kháng đơn phương được
ghi nhận trong BLDS 2015 ở Điều 423 “hủy bỏ hợp đồng”10 và Điều 428 “đơn

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
8

Điều 275 “Căn cứ phát sinh nghĩa vụ: Nghĩa vụ phát sinh từ căn cứ sau đây: Hợp đồng; Hành vi pháp lý
đơn phương; Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền; Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản
khơng có căn cứ pháp luật; Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; Căn cứ khác do pháp luật quy định”.
9
Ngô Quốc Chiến (2013), tlđd (2).
10
Điều 423 “Hủy bỏ hợp đồng
1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây:



 

phương chấm dứt hợp đồng”11. Theo hai điều luật này, một bên của hợp đồng có
quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng trong trường hợp do bên kia có
vi phạm nghiêm trọng trọng nghĩa vụ trong hợp đồng, do theo thỏa thuận hoặc theo
luật quy định. Bên hủy bỏ, đơn phương chấm dứt hợp đồng phải có trách nhiệm
thơng báo đến bên cịn lại trong hợp đồng. Trong trường hợp bên hủy bỏ hay đơn
phương chấm dứt hợp đồng không đúng căn cứ nêu trong điều luật, thì họ phải chịu
trách nhiệm trước bên cịn lại của hợp đồng theo quy định pháp luật, đối với thiệt
hại xảy ra do hợp đồng bị hủy, bị đơn phương chấm dứt.
Như vậy, BLDS 2015 đã dành quyền phản kháng đơn phương cho một bên
của hợp đồng rõ ràng như vậy, nhằm bảo vệ các bên trong hợp đồng, bằng việc trao
quyền chấm dứt hợp đồng, tức thoát khỏi hợp đồng, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp
đồng sẽ gây thiệt hại cho mình.

Qua phân tích trên, thấy rằng hợp đồng không những bao gồm quan hệ
quyền và nghĩa vụ, mà còn những yếu tố khác thuộc về phẩm chất cá nhân của các
chủ thể. Và đặc biệt, còn có quyền phản kháng đơn phương của các bên trong hợp
đồng.
1.2. Chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ, thực hiện công
việc thông qua người thứ ba
Như đã phân tích trên, hợp đồng làm phát sinh quan hệ quyền và nghĩa vụ,
trong đó có quyền phản kháng đơn phương cho các bên tham gia. Đối với quan hệ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
c) Trường hợp khác do luật quy định.
2. Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không
đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
3. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường”.
11
Điều 428 “Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên
kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
2. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp
đồng, nếu khơng thơng báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
3. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được
thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi
thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền u cầu bên kia
thanh tốn phần nghĩa vụ đã thực hiện.
4. Bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.
5. Trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng khơng có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều
này thì bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực
hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan do khơng thực hiện đúng nghĩa

vụ trong hợp đồng”.



 

quyền và nghĩa vụ, BLDS 2015 đã quy định về việc chuyển giao từng quan hệ đơn
lẻ, gồm chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ. Việc chuyển giao này
làm nên quan hệ pháp lý ba bên. Và phân tích các mối quan hệ chuyển giao này, có
thể thấy quy định về cơ chế chuyển giao quyền và nghĩa vụ của BLDS 2015, đã bao
quát được chuyển giao toàn bộ hợp đồng với tập hợp quyền và nghĩa vụ, trong đó
có quyền phản kháng đơn phương hay chưa? Bên cạnh quy định chuyển giao quyền
yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ, BLDS 2015 cịn có quy định về thực hiện công
việc thông qua người thứ ba. Quan hệ này cũng là mối quan hệ pháp lý ba bên, có
những nét tương đồng với chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ,
nhưng các quan hệ này không đồng nhất, và không đồng nhất với quan hệ chuyển
giao hợp đồng. Vậy nên cần làm rõ bản chất pháp lý của các giao dịch này.
1.2.1. Chuyển giao quyền yêu cầu
Điều 365 BLDS năm 201512 không nêu định nghĩa, mà chỉ quy định nội
dung của chuyển giao quyền yêu cầu, theo đó, chuyển giao quyền yêu cầu được
hiểu là việc một bên có quyền chuyển quyền yêu cầu cho người khác dựa trên sự
thỏa thuận giữa người chuyển quyền và người thế quyền. Người được chuyển quyền
yêu cầu (người thế quyền) trở thành người có quyền yêu cầu.
“Trước đây quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự được coi là quan hệ
riêng chỉ giữa bên có quyền yêu cầu và bên có nghĩa vụ cụ thể. Dần dần, do càng
ngày quyền yêu cầu càng trở thành một quyền về tài sản có giá trị, cho nên tính
chuyển giao quyền yêu cầu được pháp luật thừa nhận.”13
Trong chuyển giao quyền yêu cầu có ba chủ thể, gồm bên chuyển giao
quyền, bên thế quyền và bên có nghĩa vụ. Chuyển giao quyền u cầu được thực
hiện khơng cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ dân sự, bởi lẽ việc chuyển quyền


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

12

Điều 365 “Chuyển giao quyền yêu cầu
1. Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền
theo thỏa thuận, trừ trường hợp sau đây:
a) Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín;
b) Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về việc khơng được
chuyển giao quyền u cầu.
2. Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành
bên có quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ.
Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển
giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu
không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao
quyền u cầu phải thanh tốn chi phí này”.
13
Hồng Thế Liên (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr.61.



 

này không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên có nghĩa vụ, “nên các bên trong
thỏa thuận chuyển giao hiển nhiên là người có quyền (ban đầu) và người thế quyền.
Điều đó khơng có nghĩa là trong chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận, người
có nghĩa vụ không thể tham gia vào quan hệ chuyển giao. Trong thực tế, người này
có thể cùng người có quyền và người thứ ba xác lập thỏa thuận chuyển giao quyền
yêu cầu. Nói cách khác, trong thỏa thuận chuyển giao quyền yêu cầu, người có

nghĩa vụ có thể tham gia nhưng nếu họ không tham gia vào xác lập thỏa thuận
chuyển giao thì chuyển giao quyền u cầu vẫn có thể tồn tại hợp pháp”14.
Ngoài chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận được quy định theo BLDS
2015, pháp luật chuyên ngành có quy định về chuyển giao quyền yêu cầu. (Điều 247
Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 200515, Khoản 1, Điều 49 Luật Kinh doanh bảo
hiểm16). Theo những quy định này, có trường hợp chuyển giao quyền yêu cầu khơng
cần có sự đồng ý của các bên liên quan trong quan hệ chuyển giao. Những quy định
này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp bảo hiểm, và đảm bảo
công bằng cho các bên trong mối quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu này. Bởi lẽ, khi
sự kiện bảo hiểm xảy ra, cho dù nguyên nhân do thiên tai hay do lỗi con người, thì
doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trong trường hợp
thiệt hại do con người gây ra, thì người có lỗi gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm
bồi thường đối với thiệt hại này, chứ không thể để doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu.
Doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường thiệt hại trước cho người mua bảo hiểm theo hợp
đồng bảo hiểm đã ký kết với người mua bảo hiểm, và có quyền yêu cầu người có lỗi
gây ra thiệt hại phải bồi thường lại cho mình theo quy định về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, đối với khoản thiệt hại mà mình đã chi trả cho người mua bảo hiểm.
Từ đây phát phát sinh quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu, doanh nghiệp bảo hiểm
đương nhiên trở thành người thế quyền đối với bên có nghĩa vụ là người thứ ba có lỗi


 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
14

Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Bản án và bình luận bản
án, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia-sự thật, tr.376.
15
Điều 247 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 “Khi đã trả tiền cho người được bồi thường bảo hiểm,
người bảo hiểm được quyền truy địi người có lỗi gây ra tổn thất đó(…) trong phạm vi số tiền đã trả. Người
bảo hiểm thực hiện quyền này theo qui định đối với người được bảo hiểm”.
16

Điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm “Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho người
được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm thì người được
bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho
doanh nghiệp bảo hiểm”.


×