Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Quyền sử hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế và một số định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền sử hữu công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.12 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ QUANG HƯNG

Quyền sử hữu công nghiệp trong tư pháp
quốc tế và một số định hướng hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về quyền sử hữu cơng
nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế và
khu vực

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT QUỐC TẾ

HÀ NỘI, 2002


Phần mở đầu
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt nam đã thông qua Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 mà mục tiêu tổng quát là đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới, xây dựng nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công
nghiệp, theo hướng hiện đại, hội nhập thế giới và khu vực. Một trong những mục tiêu
cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam là chủ dộng
hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định “Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết
trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại


Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO . . “ Tồn cầu hố, hợp tác và cạnh tranh là xu thế
khách quan trong thập kỷ này và trong những thập kỷ tới. Trong tiến trình hội nhập
khu vực và quốc tế, hệ thống pháp luật Việt Nam cần phải hồn thiện để khơng chỉ
mang bản sắc Việt Nam mà còn phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo điều
kiện thuận lợi để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế.
Trong khi nhu cầu hội nhập mang tính tất yếu khách quan thì ở một khía cạnh
khác, khi kinh tế tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế toàn cầu thì
bảo hộ SHTT là một yếu tố khơng thể bỏ qua. SHTT đóng một vai trị ngày càng
quan trọng trong hoạt động kinh tế, thương mại cũng như khoa học, công nghệ của
từng quốc gia. Trong hầu hết các Hiệp định thương mại song phương mà một bên ký
kết là một nền kinh tế lớn, cũng như các Hiệp định thương mại đa phương, đều có nội
dung về SHTT. Chế độ bảo hộ SHTT vừa có tác dụng khuyến khích đầu tư cho sáng
tạo, vừa ngăn chặn nguy cơ của tệ nạn cạnh tranh bất hợp pháp. SHTT được coi là cơ
chế không thể thay thế được để thúc đẩy sáng tạo trí tụê.
Hơn thế nữa, Việt Nam đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, hội nhập với khu vực và thế giới nên phải tạo ra một môi trường pháp
lý phù hợp, trong đó một thành phần tất yếu của mơi trường pháp lý đó là pháp luật
về SHTT nói chung và SHCN nói riêng.
Trong những năm qua, để đáp ứng các địi hỏi của q trình hội nhập quốc tế
cũng như nhằm hỗ trợ, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước,
bên cạnh việc tham gia các hoạt động về SHTT trong các Tổ chức khu vực và quốc tế
(như ASEAN, APEC...) thì Việt Nam đã đàm phán và ký kết với nước ngoài các

1


Hiệp định có nội dung liên quan đến SHTT, như là Hiệp định Thương mại Việt Mỹ,
Hiệp định về hợp tác SHTT Việt nam - Thuỵ sỹ, v.v. và đang tiến hành đàm phán để
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, để trở thành thành viên

của WTO, một nhiệm vụ rất quan trọng là Việt Nam phải đáp ứng đầy đủ và hữu hiệu
các yêu cầu quy định trong Hiệp định về các khía cạnh Thương mại liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) thuộc WTO. Nói một cách khác, nếu khơng
chuẩn bị để thi hành một cách đầy đủ Hiệp định TRIPS kể từ thời điểm được kết nạp
(dự kiến khoảng năm 2005 [6]) mà khơng có thời gian chuyển tiếp thì khơng được kết
nạp vào WTO. Hơn thế nữa, ngoài các quy định của TRIPS, Việt Nam cũng cần hoàn
thiện pháp luật về SHCN của Việt nam phù hợp với các Hiệp định, Hiệp ước về
SHTT mà Việt Nam có khả năng sẽ tham gia trong tương lai khơng xa. Vì vậy, việc
xem xét, đánh giá, đối chiếu, so sánh các quy định bảo hộ pháp luật về SHCN của
Việt nam với các quy định của Hiệp định TRIPS cũng như các Hiệp định, Hiệp ước
song phương và đa phương có liên quan đến SHCN mà Việt Nam đã và sẽ tham gia
nhằm tìm ra những quy định cịn thiếu hoặc chưa phù hợp và đề ra kế hoạch khắc
phục là một việc làm rất cần thiết và cấp bách.
Để đóng góp vào q trình hồn thiện pháp luật Việt Nam về quyền SHCN
trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, bản luận văn này với đề tài “Quyền sở
hữu công nghiệp trong Tư pháp quốc tế và một số định hướng hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về quyền sở hữu cơng nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực”
sẽ phần nào giải quyết được các vấn đề:
-

Tạo một hành lang pháp lý thuận lợi thúc đẩy sự phát triển giao lưu kinh tế,
thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế
giới thông qua việc bảo hộ các quyền SHCN;

-

Góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật về SHCN Việt Nam theo một tiêu
chuẩn quốc tế có tính đến những đặc điểm về chính trị, kinh tế và xã hội Việt
Nam;


-

Đáp ứng đầy đủ những yêu cầu khi Việt Nam tham gia các Hiệp định và Hiệp
ước quốc tế song phương và đa phương có liên quan đến bảo hộ SHCN

2.

Tình hình nghiên cứu

Cho đến nay đã có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu, bài viết của các tác
giả trong nước cũng như nước ngoài về vấn đề SHCN của Việt Nam. Thạc sỹ Lê Mai
2


Thanh đã có luận văn cao học “Quyền ưu tiên đối với việc đăng ký quyền sở hữu
công nghiệp tại Việt Nam” - 1999 đề cập chủ yếu đến vấn đề quyền ưu tiên trong việc
đăng ký các đối tượng SHCN tại Việt Nam. Đặc biệt, đã có nhiều hội thảo về vấn đề
SHTT nói chung và SHCN nói riêng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế,
như Hội thảo về Thực thi quyền sở hữu trí tuệ, Bộ KH, CN & MT và Đại sứ quán
Hoa kỳ tại Việt nam tổ chức 10/2000 tại Hà Nội, Hội thảo về Thực thi quyền sở hữu
trí tuệ, Cục SHCN và Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa kỳ tổ chức 11/2001 tại
TP Hồ Chí Minh, Hội thảo về Sở hữu công nghiệp và hội nhập của Việt Nam vào hệ
thống thương mại đa biên, Cục SHCN và Viện sở hữu trí tuệ Liên bang Thuỵ sỹ tổ
chức 3/2002 tại Hà Nội, Hội thảo Pháp luật, Chính sách và Quản lý Sở hữu trí tuệ,
Cục SHCN, Dự án STAR Việt Nam (Dự án Hỗ trợ Triển khai Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ) và Viện SHTT Quốc tế tổ chức 10/2002 tại Hà Nội ... Gần đây
nhất, đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt QG.01.10 về Những vấn đề lý luận và thực
tiễn hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong xu thế
hội nhập quốc tế và khu vực đã được thực hiện bởi Khoa Luật trực thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu dưới dạng một luận

văn thạc sỹ, tiến sỹ khoa học luật học về “Quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp
quốc tế và một số định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu cơng
nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực” ở nước ta. Trong thời gian qua,
với sự phát triển rất nhanh của pháp luật SHCN Việt Nam cũng như sự phát triển như
vũ bão của khoa học kỹ thuật kéo theo sự phát triển của luật SHCN trên thế giới, việc
nghiên cứu đánh giá trong lĩnh vực này cũng phải được đổi mới kịp thời, đáp ứng
tính thời sự của vấn đề.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

-

Mục đích: trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản gắn liền với đặc
điểm của các đối tượng SHCN và phân tích luật thực định cũng như thực trạng
của việc bảo hộ quốc tế quyền SHCN tại Việt Nam, đề tài đề xuất những định
hướng cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền SHCN trong tiến
trình hội nhập quốc tế và khu vực.

-

Nhiệm vụ: đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề sau:



Những vấn đề lý luận và đặc điểm của các đối tượng SHCN, quyền bảo hộ các
đối tượng SHCN




Bảo hộ các quyền SHCN theo luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia

3




Thực trạng bảo hộ các quyền SHCN tại Việt Nam, đối chiếu các quy định về
SHCN mà Việt Nam phải đáp ứng và các đề xuất định hướng hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam về SHCN để phù hợp với các quy định và lộ trình
gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực

4.

Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu những cơ sở lý thuyết của việc bảo hộ quyền
SHCN trong Tư pháp quốc té, những đặc điểm và thực trạng của việc bảo hộ các
quyền SHCN theo các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng như các
Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, đồng thời so sánh và nêu ra những thay
đổi, hồn thiện cần phải có của hệ thống pháp luật để đáp ứng những yêu cầu khi
Việt nam hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cũng như đáp ứng những yêu
cầu của các Hiệp định đa phương và song phương mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Trong khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng chủ yếu phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến

các vấn đề thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng, giải pháp nhằm hoàn
thiện vấn đề đang nghiên cứu. Ngoài ra, trong q trình nghiên cứu, đề tài có sử dụng
một số phương pháp cụ thể như phương pháp phân tích luật thực định, phương pháp
so sánh, thống kê, tổng hợp.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

-

Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về các đối tượng SHCN, đánh giá
khái quát về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật SHCN tại Việt
Nam

-

Phân tích tổng quát thực trạng bảo hộ và thực thi các quyền SHCN tại Việt
Nam, chỉ ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân của các vấn đề này

-

Nêu lên các bất cập và khiếm khuyết của hệ thống pháp luật Việt Nam so với
những đòi hỏi của các Điều ước quốc tế mà Việt nam đã và sẽ tham gia trong
quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế để từ đó đề ra những
kiến nghị, định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về SHCN
trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực

7.

Tên và kết cấu của luận văn


4


Tên của luận văn là ”Quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế và một
số định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu công nghiệp trong
tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực”.
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu thành ba chương:
-

Chương I: Bảo hộ SHCN trong tư pháp quốc tế và ảnh hưởng của hội nhập và
tồn cầu hố đến các xu hướng phát triển của bảo hộ SHCN

-

Chương II: Bảo hộ quốc tế quyền SHCN tại Việt Nam

-

Chương III: Một số định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền
SHCN trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực
*
* *

Trong bối cảnh hiện tại, Việt Nam đang từng bước hoàn thiện pháp luật về
quyền SHCN và đây cũng là một vấn đề nhận được sự quan tâm của các doanh
nghiệp trong và ngồi nước cũng như đơng đảo cơng chúng. Việc nhìn nhận vấn đề
hồn thiện pháp luật về quyền SHCN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế yêu cầu
Luận văn phải giải quyết một khối lượng lớn công việc nghiên cứu. Do vậy, mặc dù

có nhiều cố gắng và đầu tư nhiều cơng sức, nhưng Luận văn cũng không thể tránh
khỏi những hạn chế mà tơi rất mong nhận được sự góp ý kiến của các thầy cô giáo,
các nhà nghiên cứu, bạn bè và đồng nghiệp để Luận văn được hoàn chỉnh hơn, cũng
như sẽ giúp tôi trong việc định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo.

Chương I: Bảo hộ quyền SHCN trong Tư pháp quốc tế và ảnh

hưởng của hội nhập và tồn cầu hố đến các xu hướng
phát triển của bảo hộ quyền SHCN

1.

Khái niệm quyền SHCN và các đối tượng SHCN

1.1

Khái niệm quyền SHCN

a.

Sở hữu trí tuệ

Một khái niệm cơ bản về SHTT là: một tài sản phi vật chất phát sinh từ một ý
tưởng nào đó, được nhận biết như là ý tưởng ấy và giá trị của nó được căn cứ vào ý
tưởng này và ý tưởng đó ra đời từ nỗ lực tri thức của một người và chứa đựng yếu tố

5


mới lạ (Justin Hughes, Triết học sở hữu trí tuệ[34]). Nói chung, SHTT đề cập đến sản

phẩm hệ quả của một tư tưởng chứ khơng phải chính tư tưởng đó.
Tài sản SHTT là thông tin mang giá trị nội tại từ những ý tưởng sáng tạo,
đồng thời SHTT cũng là thơng tin có giá trị thương mại. Tài sản trí tuệ về bản chất là
vơ hình nhưng nói chung được chứa đựng trong một hình thái vật chất hữu hình nhất
định: giấy, CD, vi mạch điện toán.
Giống như tài sản hữu hình, quyền SHTT cho phép chủ sở hữu có quyền
không cho người khác tiếp cận hoặc sở hữu tài sản của mình
Cũng như các đối tượng tài sản khác, tài sản SHTT, một loại tài sản vơ hình,
có nội hàm tương đồng với tài sản hữu hình nhưng bên cạnh đó có những đặc tính
riêng biệt xuất phát từ đối tượng sở hữu đặc thù là sản phẩm của trí tuệ con người,
mang tính phi vật chất. Tài sản SHTT mang một số đặc tính của tài sản vơ hình:
-

Khơng hao mịn về vật lý, chỉ có thể bị lạc hậu (trừ nhãn hiệu hàng hoá, chỉ
dẫn địa lý, tên thương mại)

-

Khơng hạn chế về lượng người sử dụng

-

Có thể bán hoặc cho nhiều người sử dụng cùng một lúc

Tại hội nghị ngoại giao Stockholm, ngày 14.07.1967, một Công ước đã được
ký kết để thành lập WIPO, tổ chức này đã trở thành một cơ quan đặc biệt của Liên
hợp quốc, tạo cơ cấu ổn định và lâu dài cho việc bảo hộ quyền SHTT trên toàn thể
giới. Một thành công rất lớn của Công ước thành lập WIPO là đã đưa ra được một
đinh nghĩa về SHTT được chấp nhận trên trường quốc tế và được ghi nhận tại Cơng
ước theo đó quyền SHTT bao gồm các quyền liên quan đến các đối tượng sau:

-

Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;

-

Các trình diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các dấu hiệu ghi âm, phát thanh và
truyền hình;

-

Các sáng chế trong mọi lĩnh vực đời sống con nguời;

-

Các phát minh khoa học;

-

Các kiểu dáng công nghiệp;

-

Nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại và các chỉ dẫn;

-

Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh; và

6



-

Tất cả các quyền khác được tạo thành từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực
cơng nghiệp, khoa học, văn học hay nghệ thuật [55, Đ2]

Định nghĩa của WIPO về SHTT là rất rộng. Nó quá rộng để có thể bao quát
được hết những tiến bộ công nghệ mới đặt ra các vấn đề về SHTT trong những lĩnh
vực mà khơng ai có thể tưởng tượng đựoc tới trong thời điểm ra đời Cơng ước. Có
thể nói khơng q rằng cùng với tốc độ phát triển của những tiến bộ công nghệ và
khoa học kỹ thuật đã khiến cho luật SHTT phát triển nhanh nhất và trở thành lĩnh vực
luật pháp năng động nhất hiện nay. Luật SHTT phải cố gắng theo kịp với sự phát
triển không ngừng trong tồn bộ các ngành cơng nghiệp mới như cơng nghệ sinh học,
truyền vệ tinh, kỹ thuật di truyền học cũng như các bước nhảy vọt về công nghệ
thông tin, tiếp thị và nghệ thuật. Những sức ép về kinh tế có nghĩa là đã có và tiếp tục
có sức ép kết nạp các đối tượng mới vào thế giới SHTT và sự bảo hộ mà nó yêu cầu.
Do vậy, bất cứ một sự mơ tả nào về cái có chứa luật SHTT có thể nhanh chóng trở
nên lạc hậu.
Trong Hiệp định TRIPS, một trong những điều ước quốc tế quan trọng nhất về
SHTT, thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” [54. Đ1] có nghĩa là tất cả các đối tượng SHTT nêu tại
các Mục từ 1 đến 7 của Phần II, trong đó Mục 1 đề cập đến bản quyền và các quyền
có liên quan, Mục 2 đề cập đến Nhãn hiệu hàng hoá, Mục 3 đề cập Chỉ dẫn địa lý,
Mục 4 đề cập đến Kiểu dáng công nghiệp, Mục 5 đề cập Sáng chế, Mục 6 liên quan
đến Bố trí thiết kế Mạch tích hợp và Mục 7 đề cập đến Thơng tin bí mật.
Thuật ngữ SHTT bao gồm hai khái niệm là sở hữu công nghiệp và quyền tác
giả (hay còn gọi là bản quyền). Quyền sở hữu cơng nghiệp có quan hệ mật thiết với
bản quyền và có nhiều đặc điểm chung với bản quyền. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm
này có những điểm phân biệt khá rõ ràng với nhau, đặc biệt là các đối tượng của
quyền SHCN và bản quyền. Sở hữu cơng nghiệp có thể hiểu đơn giản là những quyền

pháp lý liên quan đến SHTT sử dụng trong công nghiệp hay buôn bán. Quyền SHCN
thường được áp dụng đối với các đối tượng là kết quả của hoạt động sáng tạo kỹ
thuật (sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế bố trí mạch tích hợp, giống cây trồng mới)
hoặc của hoạt động sáng tạo mỹ thuật ứng dụng (kiểu dáng công nghiệp) hay hoạt
động sáng tạo trong thương mại (nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại,
thơng tin bí mật). Các đối tượng của quyền SHCN chủ yếu xuất hiện trong lĩnh vực
kinh tế, khoa học công nghệ. Kết quả là SHCN sẽ khơng bao gồm bản quyền, có thể
hiểu như là quyền đối với các tác phẩm nghệ thuật chứ không phải là quyền về công
nghiệp.

7


Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả đối với
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Luật quyền tác giả nhằm mục đích bảo hộ
sáng tạo trí tuệ trong những lĩnh vực văn học, âm nhạc và nghệ thuật. Bổ sung vào
việc bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và âm nhạc của chính các tác giả là bảo
hộ quyền kề cận, tức là các quyền nảy sinh từ bản quyền, có liên quan trực tiếp đến
bản quyền và có liên quan đến những đối tượng thể hiện các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, đó chính là việc trình diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các dấu hiệu ghi âm, phát
thanh và truyền hình
b.

Quyền sở hữu cơng nghiệp

Mặc dù các nước có chính sách bảo hộ SHCN đưa ra khái niệm khác nhau về
quyền SHCN nhưng nhìn chung quyền SHCN được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa khách quan, chế định quyền SHCN là tồng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt các đối tượng SHCN được Nhà nước bảo hộ.

Theo nghĩa chủ quan, quyền SHCN là các quyền dân sự cụ thể của các chủ sở
hữu trong việc chiếm hữu sử dụng và định đoạt các đối tượng SHCN [15].
Theo Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp [9, Đ1.2], “Đối tượng bảo hộ
sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp, nhãn
hiệu hàng hố, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi
xuất xứ và quyền chống cạnh tranh khơng lành mạnh”.
Thêm vào dó, tại Cơng ước Paris [9, Đ1.3] quy định ”sở hữu công nghiêp phải
được hiểu theo nghĩa rộng nhất và sẽ áp dụng không chỉ cho công nghiệp và thương
mại theo đúng nghĩa của chúng mà cịn cho nơng nghiệp và các ngành cơng nghiệp
chiết xuất, khai thác và cho tất cả các sản phẩm tự nhiên hoặc được sản xuất như nho,
hạt ngũ cốc, lá thuốc lá, hoa quả, gia súc, các khoáng sản, nước khống, bia, hoa và
bột mì”.
Ngồi đặc tính của loại tài sản vơ hình, quyền SHCN cịn có một số đặc điểm
như:
-

Quyền SHCN mang tính khơng gian và lãnh thổ tuyệt đối, tức là quyền SHCN
phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào thì chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh
thổ nước đó, nếu điều ước quốc tế mà nước đó tham gia khơng quy định khác

-

Quyền SHCN (khơng kể các quyền nhân thân) bị giới hạn về mặt thời gian.
Đặc điểm này thể hiện ở các quyền tài sản của quyền SHCN chỉ được bảo hộ

8


trong một khoảng thời gian nhất định khi chủ sở hữu các quyền SHCN trả tiền
cho sự bảo hộ đó. Khoảng thời gian nhất định để bảo hộ là khoảng thời gian

hợp lý để chủ sở hữu các quyền SHCN khai thác bù đắp được những chi phí
vật chất và tinh thần khi sáng tạo sản phẩm.
-

Quyền SHCN được xác lập bằng một hình thức nhất định theo quy định của
pháp luật. Đó có thể là việc nộp đơn và cấp văn bằng bảo hộ như đối với một
số đối tượng như sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hoá, v.v. hoặc
việc đáp ứng một số tiêu chuẩn bảo hộ nhất định do pháp luật quy định như
tên thương mại, thơng tin bí mật, chỉ dẫn địa lý.

-

Thêm vào đó, quyền SHCN cịn có đặc điểm quan trọng là bảo hộ độc quyền
khai thác của chủ đối tưọng SHCN. Tuy nhiên, cần nhìn nhận việc bảo hộ độc
quyền theo hướng cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu quyền và
công chúng, bao gồm cả các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Trong quá
trình này, nhà nước đóng vai trị quản lý và quy định các quyền và nghĩa vụ
của các bên một cách hợp lý, vừa thúc đẩy sự sáng tạo, chống cạnh tranh
không lành mạnh, phát triển sản xuất kinh doanh đồng thời tránh tình trạng
độc quyền, lũng đoạn thị trường của một bộ phận chủ sở hữu quyền.

Với những đặc điểm như trên, việc phân tích và đánh giá quyền SHCN phải
được nhìn nhận dưới những góc độ phù hợp, khơng thiên lệch hay phiến diện.
1.2

Quyền sở hữu công nghiệp trong Tư pháp quốc tế

Tư pháp quốc tế là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật
độc lập bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân
sự - kinh tế - thương mại, hơn nhân và gia đình, lao động và một số vấn đề tố tụng

dân sự có yếu tố nước ngồi [14, 13]. Hệ thống quy phạm Tư pháp quốc tế không chỉ
bao gồm các quy phạm xung đột mà còn bao gồm các quy phạm thực chất thống nhất
và quy phạm thực chất thông thường, tức là những quy phạm được quy định trong
các văn bản pháp luật quốc gia, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ dân sự - kinh tế thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động có yếu tố nước ngoài [50, 24].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền SHCN trong Tư pháp quốc tế
được hiểu là các quyền SHCN có yếu tố nước ngồi. Theo quy định tại BLDS, “quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được hiểu là các quan hệ dân sự có người nước ngoài,
pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi [2,
Đ826]
”. Như vậy, theo quy định trên, để cấu thành quan hệ SHCN có yếu tố nước

9


ngồi thì đầu tiên phải có quan hệ SHCN và quan hệ đó phải có ít nhất một trong ba
tiêu chuẩn:
-

Có người nước ngồi hay pháp nhân nước ngồi tham gia, tức là chủ thể của
quan hệ SHCN phải có quốc tịch hay nơi cư trú hay nơi đặt trụ sở ở nước
ngoài. “Người nước ngoài” ở đây được hiểu là người khơng có quốc tịch Việt
Nam, bao gồm cả người có quốc tịch nước ngồi và người khơng có quốc tịch.
“Pháp nhân nước ngoài” được hiểu là tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy
định của pháp luật nước ngoài [25, Đ1];

-

Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ SHCN đó phát sinh ở nước
ngồi; và


-

Tài sản liên quan đến quan hệ SHCN ở nước ngồi

Dưới góc độ Tư pháp quốc tế, việc bảo hộ quyền SHCN được hiểu là việc bảo
hộ của Nhà nước đối với quyền SHCN có yếu tố nước ngồi. Dưới góc độ này, tính
chất “lãnh thổ tuyệt đối” của quyền SHCN được thể hiện rõ nét, tức là quyền SHCN
chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ mà quyền SHCN đã được phát sinh, nếu các
điều ước quốc tế về quyền SHCN mà quốc gia sở tại tham gia hoặc ký kết khơng có
quy định khác.
Theo BLDS, “Quyền sở hữu cơng nghiệp của người nước ngồi, pháp nhân
nước ngồi đối với các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp đã được Nhà nước
CHXHCN Việt Nam cấp văn bằng bảo hộ thì được bảo hộ theo quy định của pháp
luật CHXHCN Việt Nam và các điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết
hoặc tham gia [2, Đ837]”. Với quy định này, Việt Nam bảo hộ các đối tượng SHCN đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước CHXHCN Việt Nam, cụ thể là Cục
Sở hữu công nghiệp, cấp bảo hộ. Đồng thời, việc bảo hộ này tuyệt đối chỉ tuân theo
pháp luật Việt Nam và những quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia hoặc ký kết [25, Đ13]. Tuy nhiên, một điều cũng cần lưu ý là đối với một số
đối tượng SHCN như bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN theo Quy định tại
Nghị định 54/2000/NĐ-CP thì các đối tượng SHCN này không yêu cầu thủ tục đăng
ký mà vẫn được xác lập bảo hộ nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định [27].
1.3

Các đối tượng sở hữu công nghiệp

1.3.1 Sáng chế
Thường được mô tả như một khế ước giữa nhà sáng chế và chính phủ, các

sáng chế là những quyền độc quyền tạm thời do chính phủ cấp để đổi lấy sự tiết lộ
10


chi tiết ra công chúng về những công nghệ, quy trình và phương pháp bí mật. Hệ
thống đăng ký sáng chế là một cơ chế cho phép các sáng chế được tiết lộ ra xã hội để
có được độc quyền theo luật [35].
Việc bảo hộ sáng chế nhằm mục đích chính là khuyến khích các hoạt động
nghiên cứu và phát triển công nghệ. Nguyên tắc chung của việc bảo hộ các thành tưụ
sáng tạo công nghệ là Nhà nước công nhận quyền nhân thân và quyền tài sản của
những người đã đầu tư trí tuệ và vật chất để tạo ra công nghệ tiên tiến. Sáng chế và
giải pháp hữu ích là những đối tượng công nghệ được bảo hộ dưới hình thức cấp
bằng độc quyền sáng chế/bằng độc quyền giải pháp hữu ích, theo đó chủ văn bằng
được dành độc quyền khai thác sáng chế/giải pháp hữu ích trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư ban đầu. Ngược lại, chủ văn bằng bảo hộ có nghĩa vụ bộc
lộ công nghệ được bảo hộ để tránh cho những người khác không đầu tư nghiên cứu
trùng lặp, đồng thời khuyến khích việc cải tiến hơn nữa cơng nghệ đó và để sau thời
hạn bảo hộ, tồn xã hội có thể sử dụng chung cơng nghệ.
Những ý kiến lý giải về sáng chế chẳng mới mẻ gì. Về mặt lịch sử, sáng chế
đầu tiên được cấp patent được biết là ở Florence (Italy) vào năm 1421 cho cơ cấu
“Xà lan có tời kéo để chở đá cẩm thạch” [40]. Còn dưới đây là một tuyên bố từ thành
Vơnidơ (Ý) từ cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16:
“Chúng tơi có những bậc thiên tài vĩ đại, mong muốn sáng chế và phát minh
những cơ cấu khéo léo, và do uy quyền cùng đức hạnh của thành phố chúng tơi, mỗi
ngày càng có thêm nhiều người từ các vùng khác nhau đến đây. Nay nếu có quy định
về những cơng trình và cơ cấu do những người này khám phá ra để cho những ngườì
khác có thể thấy họ không thể phát minh được ra chúng và lấy cắp danh dự của nhà
sáng chế, thì nhiều người sẽ khai thác tài năng của mình, sẽ khám phá và thiết lập
những cơ cấu hữu ích nhất và có lợi nhất cho sự thịnh vượng của chúng ta”.
Tại Anh quốc, một quốc gia có nền cơng nghiệp phát triển sớm nhất thế giới,

bảo hộ sáng chế đã ra đời từ rất sớm. Ngay từ thế kỷ 15, Anh quốc đã công nhận
những đặc quyền cho các nhà sản xuất và các thương nhân bằng những cơng văn có
con dấu đặc biệt của Hoàng gia, gọi là “letter of patent”. Sáng chế đựoc cấp đầu tiên
là do vua Henry VI cấp cho John (sinh năm 1449 tại Flemish) cho phép giữ độc
quyền về phương pháp sản xuất kính màu, một phương pháp hồn tồn mới vào thời
kỳ đó tại Anh quốc, trong vịng 20 năm. Dưới thời nữ hồng Elizabeth I, trong
khoảng 30 năm, từ năm 1561 đến 1590, đã có hơn 50 sáng chế được cấp bằng độc
quyền sáng chế trong các lĩnh vực như sản xuất xà phòng, phèn, da thuộc, dao mổ,
kính, vải làm buồm, lưu huỳnh, bàn là. . . Trong luật của Anh về sáng chế, vấn đề

11


lợi ích cộng đồng được đưa vào hệ thống bảo hộ sáng chế từ rất sớm và đã được quy
định trong đạo luật về độc quyền năm 1624. Mục 6 của đạo luật này quy định rằng
độc quyền là bất hợp pháp và nó chỉ cho phép giữ độc quyền trong vịng 14 năm,
những mặt hàng độc quyền khơng được trái pháp luật hoặc tổn hại đến lợi ích quốc
gia do giá quá cao hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại [37].
Chúng ta cần phân biệt hai khái niệm “phát minh” và “sáng chế”. Điểm chung
giống nhau giữa hai khái niệm này là tìm ra một điều gì đó hoặc hiểu biết gì đó mang
tính mới. Tuy nhiên, phát minh được dùng để nói về những hiểu biết mới có tính quy
luật về những thứ vốn đã tồn tại sẵn trong tự nhiên mà trước đây loài người chưa biết
tới, nay được biết tới. Phát minh được khởi nguồn từ việc phát hiện ra các hiện
tượng, các tính chất được lặp lại. Trong tiếng Anh, từ “discovery” theo từ điển
Longman, Dictionary of the English Language, từ này có nghĩa là “nhận thấy hoặc
hiểu biết trước tiên”. Trong tiếng Pháp, “decouverte” theo từ điển Robert, Dictionaire
de la langue francaise có nghĩa là “hành động làm cho biết về một đối tượng, một
hịện tượng ẩn dấu hoặc không được biết tới (nhưng đã tồn tại trước) và qua đó
chúng được bộc lộ”. Đặc trưng cho các phát minh là việc tìm ra các định luật khoa
học, thí dụ Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, Định luật tuần hoàn các nguyên tố

hoá học Mendelev. Các bản chất, các quy luật này vốn vẫn tồn tại và vận hành theo
các quy luật tự nhiên, thậm chí ngồi sự hiểu biết của con người. Nhờ có các nhà
khoa học nghiên cứu, phát hiện ra chúng, phát biểu thành các định luật và đó là các
phát minh. Điểm 1.1.(i) của Hiệp định Geneve về ghi nhận quốc tế đối với các phát
minh khoa học (1978) định nghĩa phát minh khoa học là “sự ghi nhận các hiện tượng,
tính chất và các định luật của thế giới vật chất cho đến nay không được ghi nhận và
có thể kiểm chứng được”. Như vậy, về bản chất, phát minh là việc tìm ra các tính
chất, các quy luật của tự nhiên vốn đã và đang tồn tại.
Khái niệm “sáng chế” được dùng để nói về việc phát hiện ra những công nghệ
mới, vốn không tồn tại sẵn trong tự nhiên cũng như trong hiểu biết của loài người.
Trong tiếng Anh, “invention” theo Từ điển Oxford, Advanced Learner’s
Encyclopedic Dictionary có nghĩa là “hành động làm hoặc thiết kế một cái gì đó
khơng tồn tại trước đây, tạo ra bằng tư duy”. Trong tiếng Pháp, “invention” theo Từ
điển Larousse Encyclopedique Universel, có nghĩa là “hành động tạo ra đầu tiên, thể
hiện sự tài tình về kỹ thuật một cái gì đó chưa từng tồn tại và do đó khơng ai có ý
tưởng gì về điều đó cả”.

12


Theo pháp luật Việt Nam, sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ
kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực
kinh tế-xã hội [2, Đ782].
Sáng chế là một trong những đối tượng SHCN được bảo hộ đầu tiên tại Việt
Nam, do nhu cầu khách quan về phát triển công nghệ của Việt Nam. Theo pháp luật
hiện hành về SHCN, chỉ có các giải pháp kỹ thuật thuộc một trong các dạng cơ cấu,
chất và phương pháp mới có thể được bảo hộ sáng chế. Như vậy, các đối tượng có
thể được bảo hộ sáng chế chính là các công nghệ. Để được bảo hộ sáng chế tại Việt
Nam, công nghệ phải đáp ứng đồng thời những tiêu chuẩn cụ thể về tính mới so với
tình trạng kỹ thuật trên thế giới tại ngày ưu tiên, phải có trình độ sáng tạo và khả

năng áp dụng cơng nghiệp. Thiếu một trong những tiêu chuẩn nói trên cơng nghệ sẽ
không được bảo hộ sáng chế. So với luật sáng chế của hầu hết các nước phát triển,
các tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế của Việt Nam khơng có một sự khác biệt nào [35].
1.3.2 Giải pháp hữu ích (bao gồm cả Mẫu hữu ích)
Tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản, mẫu hữu ích chính là việc
bảo hộ công nghệ tuy chưa đạt được các tiêu chuẩn bảo hộ như sáng chế, nhưng vẫn
mang tính đột phá và có thể áp dụng trong cơng nghiệp. Mẫu hữu ích có quan hệ chặt
chẽ với sáng chế
Tại Việt Nam, trước khi Bộ luật dân sự được thi hành, tiêu chuẩn để bảo hộ
giải pháp hữu ích thấp hơn nhiều so với sáng chế. Chỉ cần giải pháp kỹ thuật có tính
mới so với tình trạng kỹ thuật ở Việt Nam và có khả năng áp dụng trong điều kiện kỹ
thuật của Việt Nam tại thời điểm đăng ký thì cơng nghệ đã có thể được cơng nhận là
giải pháp hữu ích và được cấp văn bằng bảo hộ (Khoản 1 Điều 2 Điều lệ về giải pháp
hữu ích Ban hành kèm theo Nghị định số 200-HĐBT ngày 28.12.1988 được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị định số 84-HĐBT ngày 20.3.1990 của Hội đồng Bộ trưởng). So
với tiêu chuẩn cấp bằng độc quyền mẫu hữu ích của các nước khác, tiêu chuẩn được
áp dụng tại Việt Nam lúc bấy giờ thấp hơn rất nhiều bởi lẽ trình độ kỹ thuật của Việt
Nam vốn ở mức rất thấp so với trình độ chung của thế giới. Việc đặt ra tiêu chuẩn
bảo hộ giải pháp hữu ích thấp hơn như trên chỉ phù hợp với điều kiện thực tiễn trong
thời gian đó.
Đến thời điểm Bộ luật Dân sự ra đời, cùng với việc mở rộng các quan hệ kinh
tế-khoa học kỹ thuật với thế giới, các tiêu chuẩn như đã nêu không cịn phù hợp nữa.
Nếu tiếp tục duy trì các tiêu chuẩn như vậy, các công nghệ mới được tạo ra ở Việt

13


Nam sẽ tiếp tục ở mức thấp so với thế giới và sẽ tạo ra khuynh hướng du nhập vào
Việt Nam các công nghệ hạng hai vốn đã phổ cập ở nước ngoài nhưng chưa xuất hiện
tại Việt Nam và biến các cơng nghệ đó thành độc quyền của người du nhập nhằm

ngăn cản sự tự do du nhập công nghệ tương tự hoặc cơng nghệ cao hơn. Chình vì lý
do đó, trong Bộ luật Dân sự, tiêu chuẩn bảo hộ giải pháp hữu ích được sửa đổi thành
có tính mới so với trình độ kỹ thuật thế giới và có khả năng áp dụng trong các lĩnh
vực kinh tế-xã hội [2, Đ783]. Các tiêu chuẩn của giải pháp hữu ích theo quy định của
Việt Nam đã ngang bằng với tiêu chuẩn mẫu hữu ích áp dụng tại các nước phát triển.
Mục tiêu của việc bảo hộ sáng chế/mẫu hữu ích là thông qua việc bảo đảm các
điều kiện thuận lợi, ưu đãi cho những người tạo ra sáng chế/ mẫu hữu ích để họ yên
tâm khai thác các đối tượng đó, nhờ đó kích thích hoạt động đầu tư cho cơng nghệ
mới. Để đạt được mục đích đó, pháp luật bảo đảm cho người được cấp bằng độc
quyền sáng chế/mẫu hữu ích (patent) quyền độc quyền sử dụng, khai thác sáng
chế/mẫu hữu ích trong một thời gian nhất định (thường là 20 năm đối với sáng chế,
10 năm đối với mẫu hữu ích). Trong thời gian đó, bất kỳ người thứ ba nào khai thác
sáng chế/mẫu hữu ích mà không được phép của chủ sở hữu quyền đều bị coi là xâm
phạm quyền của chủ patent và bị pháp luật xử lý. Ngun tắc đó chính là ngun tắc
độc quyền công nghệ (monopoly of technology) của hệ thống sáng chế.
Với ngun tắc đó, người được cấp patent khơng phải lo đối phó với nguy cơ
sáng chế/mẫu hữu ích bị các đối thủ cạnh tranh khai thác tuỳ tiện, nhờ đó mà có thể
yên tâm khai thác sáng chế, thu hồi vốn dầu tư cho việc tạo ra sáng chế và có đủ thời
gian thu lợi từ sáng chế. Trong thời gian độc quyền, bất kỳ ai muốn sử dụng sáng
chế/mẫu hữu ích đều phải xin phép chủ patent và khi được chủ patent cho phép,
thường phải tuân theo những điều kiện do chủ patent áp đặt, trong đó có việc phải trả
tiền (royalty) cho việc khai thác sáng chế/mẫu hữu ích. Nếu khơng được phép của
chủ patent, khơng ai được phép khai thác sáng chế trong thời hạn nêu trên. Nói cách
khác, trong cuộc chạy đua để khai thác sáng chế, chủ patent được xuất phát trước các
đối thủ, những người không phải là chủ patent chỉ được xuất phát sau một số năm
tương ứng với thời hạn hiệu lực của patent.
Hệ thống bảo hộ độc quyền sáng chế/mẫu hữu ích khơng chỉ mang lại lợi ích
riêng cho chủ patent mà còn mang lại cho xã hội những lợi ích không nhỏ. Song song
với nguyên tắc độc quyền, hệ thống patent còn được xây dựng trên một nguyên tắc
quan trọng khác, đó là ngun tắc cơng khai cơng nghệ. Theo nguyên tắc này, để

đánh đổi việc được cấp patent, người giữ độc quyền phải công bố nội dung công
nghệ cho xã hội biết ngay sau khi, thậm chí trước khi được cấp patent. Việc công bố

14


nói trên, một mặt bố cáo rằng cơng nghệ đã có chủ, mặt khác thơng báo về lời giải
của một vấn đề hoặc bài toán thực tiến được nhiều người cùng quan tâm giải quyết và
do đó, những người khác có thể dừng q trình tìm kiếm lời giải hoặc chuyển sang
một hướng giải quyết khác tốt hơn. Cứ như vậy, một độc quyền công nghệ được thiết
lập, tri thức công nghệ lại được đổi mới một bước. Đồng thời xã hội khơng phải mất
cơng sức, thời gian, chi phí cho việc tìm kiếm lại những cơng nghệ đã được tìm ra
rồi. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng nếu patent được cấp một cách tuỳ tiện,
khơng xứng đáng thì sẽ là vật cản cho sự phát triển công nghệ. Vì vậy, các tiêu
chuẩn, nguyên tắc, trình tự, thủ tục xét duyệt để cấp patent phải rất chặt chẽ và khoa
học.
1.3.3 Kiểu dáng công nghiệp
Từ thời văn minh cổ xưa cho tới ngày nay, con người đã tập trung rất nhiều
sức lực, trí tuệ vào việc nghiên cứu hình dáng đường nét để trang trí cho các đồ vật
sử dụng hàng ngày do họ tạo ra. Hoa văn trên những chiếc đĩa cổ Trung Hoa, hình
dáng của những cây đèn cổ thời đế chế La Mã hay đường nét những chiếc bình gốm
cổ chính là những ví dụ đầu tiên về kiểu dáng.
Trong nền kinh tế thị trường, đối với một sản phẩm mới thì ngồi các u cầu
về kỹ thuật như độ bền, độ tin cậy . . . còn đặt ra các yêu cầu về mặt thẩm mỹ. Nói
một cách khác là cùng một loại sản phẩm được sản xuất có tính năng, cơng dụng và
chát lượng như nhau, những sản phẩm có hình dáng đẹp, đáp ứng thị hiếu của người
tiêu dùng thì sẽ tiêu thụ nhanh hơn. Kiểu dáng là một yếu tố quan trọng nhằm kích
thích ý muốn mua hàng của người tiêu dùng, tăng khả năng cạnh tranh của nhà sản
xuất. Do vậy, ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư mạnh vào việc tạo dáng và
thiết kế cho các sản phẩm của họ. Hơn thế nữa, một sản phẩm thành công về mặt

thương mại có thể bị làm tương tự tới mức gây nhầm lẫn về kiểu dáng và chính đó là
lý do để pháp luật phải bảo hộ kiểu dáng công nghiệp.
Khái niệm kiểu dáng công nghiệp được xác định theo luật của từng quốc gia
và do đó có thể khác nhau. Theo nguyên tắc chung, kiểu dáng công nghiệp là các yếu
tố có tính thẩm mỹ hoặc có tính trang trí của một sản phẩm ứng dụng. Kiểu dáng có
thể bao gồm các hình dáng ba chiều hoặc hai chiều. Các hình dáng hai chiều là các
khn mẫu, đường kẻ hoặc mầu sắc được sử dụng cho vải vóc hoặc các hàng dệt.
Các hình dáng ba chiều bao gồm hình dáng và bề mặt của một sản phẩm. Nếu hình
dáng của một sản phẩm được xác định bởi các yếu tố kỹ thuật hay chức năng của sản
phẩm mang kiểu dáng đó thì kiểu dáng đó sẽ khơng được bảo hộ.

15


Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định “Kiểu dáng cơng nghiệp là hình dáng bên
ngồi của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sư kết
hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và làm mẫu để chế tạo sản phẩm
công nghiệp hoặc thủ công nghiệp [2, Đ784]”
Kiểu dáng công nghiệp có những đặc điểm cơ bản để phân biệt với sáng chế,
giải pháp hữu ích là sáng chế/giải pháp hữu ích là một giải pháp kỹ thuật trong khi
KDCN là giải pháp thiết kế mỹ thuật hay là cách trình bày cho sản phẩm. So với
nhãn hiệu hàng hố, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu mặc dù đều được tạo nên
bởi các đường nét, màu sắc, hình khối nhưng chúng có đặc thù riêng được quy định
bởi chức năng của mỗi đối tượng, Chức năng chính của nhãn hiệu là phân biệt hàng
hoá, dịch vụ cùng loại của các nhà sản xuất, cung cấp khác nhau trong khi chức năng
chính của kiểu dáng cơng nghiệp là lơi cuốn, hấp dẫn người tiêu dùng bằng sự hồn
thiện của hình dáng bên ngoài sản phẩm. So với các đối tượng được bảo hộ theo
quyền tác giả như các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, mỹ thuật ứng dụng cũng được
thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc thì tiêu chuẩn quan trọng để phân biệt
với kiểu dáng công nghiệp chính là mục tiêu sử dụng của đối tượng, trong đó KDCN

có cơng dụng nhất định cịn tác phẩm chỉ đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ. Thêm vào đó,
các sản phẩm mang KDCN được tạo ra bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ
cơng nghiệp trong khi đó các tác phẩm nghệ thuật thưịng tạo ra bằng phương pháp
thủ cơng.
Một kiểu dáng cơng nghiệp sẽ được bảo hộ nếu nó đáp ứng các tiêu chuẩn về
tính mới đối với thế giới và có khả năng dùng làm mẫu để chế tạo hàng loạt trên
những sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp. Để đáp ứng tiêu chuẩn tính mới
đối với thế giới, một KDCN phải khác biệt cơ bản với các kiểu dáng công nghiệp
tương tự và chưa được sử dụng ở bất cứ đâu, dưới bất kỳ hình thức nào ở trong nước
và trên thé giới. Đối với tiêu chuẩn dùng làm mẫu để chế tạo các sản phẩm công
nghiệp hoặc thủ cơng nghiệp, điều này có nghĩa là kiểu dáng cơng nghiệp đó phải
được sản xuất hàng loạt theo phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp chứ
không phải sản xuất đơn chiếc.
Về mặt thị trường, KDCN không đơn giản chỉ là một sản phẩm hấp dẫn và
quyến rũ mà KDCN còn tăng giá trị thương mại của sản phẩm và tạo điều kiện cho
việc tiếp thị và thương mại hố sản phẩm đó. Một hệ thống bảo hộ kiểu dáng hiện đại
và có hiệu quả mang lại lợi ích cho:
-

Chủ sở hữu KDCN vì việc bảo hộ KDCN góp phần phát triển thị trường cho
các sản phẩm của họ, bảo đảm việc thu hồi vốn đầu tư thoả đáng

16


-

Người tiêu dùng và cơng chúng nói chung, vì việc bảo hộ KDCN dẫn đến
cạnh tranh lành mạnh và thương mại trung thực, khuyến khích hoạt động sáng
tạo ra sản phẩm phong phú và hấp dẫn về thẩm mỹ


-

Phát triển kinh tế, vì việc bảo hộ KDCN đưa hoạt động sáng tạo vào các khu
vực công nghiệp và chế tạo, góp phần mở rộng các hoạt động thương mại và
tăng cường xuất khẩu các sản phẩm nội địa.

Trái với patent, việc phát triển và bảo hộ KDCN thường tương đối đơn giản và
khơng tốn kém. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí các cá nhân hoặc
nghệ nhân ở cả các nước cơng nghiệp hố và các nước đang phảt triển đều có thể tiếp
cận hợp lý với KDCN.
Theo số liệu thống kê của WIPO, hiện đã có 87 nước có các văn bản pháp luật
bảo hộ KDCN. Những quốc gia có số lượng đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ
KDCN nộp hàng năm lớn nhất là Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh và
Pháp (Nguồn: ).
1.3.4 Nhãn hiệu hàng hoá (bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ)
Nhãn hiệu hàng hố có lẽ là đối tượng dễ tiếp cận nhất của SHTT. Nó dễ hiểu
nhất, quen thuộc nhất với mọi người tiêu dùng. Nhưng nhãn hiệu hàng hố là gì ?
Khái qt nhất, nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ dấu hiệu nào được thể hiện bằng hình
ảnh và có khả năng phân biệt được hàng hoá và/hoặc dịch vụ của người này với
người khác. Về cơ bản, nhãn hiệu hàng hố đóng vai trị biểu tượng xuất xứ của
nguồn cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ vào cộng đồng.
Trong số các đối tượng SHCN, nhãn hiệu hàng hố có lẽ được ra đời sớm
nhất trong q trình phát triển của lồi người. Ở thời cổ đại, những dấu hiệu đầu tiên
trên thế giới để chỉ quyền sở hữu là các nhãn đóng trên những con bò. Những người
thợ cắt đá cũng đã ghi những dấu hiệu của mình lên các cơng trình xây dựng ở Ai
Cập vào khoảng năm 4000 trước công nguyên. Các nhà khảo cổ học và các nhà sử
học đã xác định được hơn một nghìn nhãn hiệu do những người thợ gốm sử dụng
trong thời đế chế La Mã và trong số đó, nhãn đèn “FORTIS” là rất phổ biến [33].
Tại nước Anh, một nước công nghiệp phát triển, nhãn hiệu thông thường là

nhãn hiệu cá nhân, chẳng hạn một cái vịng mang nhãn hiệu thường được ấn vào sáp
nóng để tạo nên dấu ấu trong những văn bản hay hàng hố. Năm 1126, nước Anh đã
thơng qua đạo luật đầu tiên về nhãn hàng có hiệu lực bắt buộc đối với những người
thợ làm bánh, trong đó có quy định “Thợ làm bánh phải in một nhãn rõ ràng lên từng
chiếc bánh đem bán để khi phát hiện ra thiếu cân sẽ biết ngay được ai là người vi

17


phạm”. Với sự khởi phát của các hội đoàn ở nước Anh vào thế kỷ 14, tầm quan trọng
của các nhãn hàng càng tăng lên. Năm 1363, các dấu hiệu về chất lượng sản phẩm
bạc đã được coi là bắt buộc áp dụng ở nước Anh.
Tại Mỹ, việc đăng ký nhãn hàng được thực hiện lần đầu tiên vào khoảng năm
1774 ở quận Fairfax tại Bang Virginia. Người nộp đơn đăng ký đó chính là George
Washington, người đương nhiên đã trở nên nổi tiếng sau đó vì là vị Tổng thống đầu
tiên của Hoa Kỳ chứ khơng phải vì là người đăng ký nhãn hàng đầu tiên trong lịch sử
Hoa Kỳ. Ông ta đã đăng ký nhãn hàng “G. Washington” cho sản phẩm bột của mình.
Về mặt lý thuyết, có năm yếu tố trong khái niệm nhãn hiệu hàng hoá, đó là:
-

một quyền tương tự như quyền đối với tài sản;

-

người chủ sở hữu quyền đó phải tham gia vào việc kinh doanh;

-

quyền đó phải gắn với hàng hố hoặc dịch vụ;


-

người chủ của hàng hố/dich vụ phải có đủ quyền đối với hàng hoấ/dịch vụ để
cho phép anh ta gắn nhãn này lên các hàng hoá/dịch vụ được cung cấp; và

-

nhãn hàng giúp phân biệt các hàng hoá/dịch vụ được sản xuất/cung cấp bởi
một người cụ thể.

Về bản chất, nhãn hiệu hàng hố khơng hồn tồn là SHTT vì chúng không
bảo hộ các tư tưởng sáng tạo [38]. Mặc dù vậy, chúng vẫn được coi là SHTT. Tuy
nhiên, do bản chất nhãn hiệu hàng hố khơng hồn tồn là SHTT nên chúng có
những đặc điểm khác với sáng chế, một đối tượng SHTT đặc trưng, ở các điểm sau:
-

Sở hữu sáng chế nảy sinh từ hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong khi sở hữu
nhãn hiệu hàng hoá dựa trên cơ sở đăng ký và sử dụng. Việc không sử dụng
nhãn hiệu hàng hoá, theo luật tại nhiều quốc gia, sẽ là cơ sở để huỷ bỏ việc
đăng ký.

-

Đăng ký nhãn hiệu hàng hố có thể được gia hạn không hạn định trong khi
sáng chế chỉ được bảo hộ trong khoảng thời gian nhất định.

-

Mục đích chính của hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá là nhằm kiểm soát
hệ thống hàng hoá/dịch vụ, bảo hộ nhãn hiệu hàng hố chính là bảo hộ các

thương gia và ngườì tiêu dùng trong khi sáng chế chủ yếu là để bảo vệ tác gỉả
và chủ sáng chế

Trong nền kinh tế thị trường, nhãn hiệu có ý nghĩa rất quan trọng vì chính
nhãn hiệu hàng hố đã đóng vai trị thơng báo cho người tiêu dùng là hàng hoá/dịch

18


vụ đó do ai cung cấp và cho phép người tiêu dùng phân biệt được xuất xứ các sản
phẩm/dịch vụ [32, 55]. Về cơ bản, nhãn hiệu hàng hoá gắn bó chặt chẽ với uy tín kinh
doanh mà đã được công chúng công nhận một cách rộng rãi như là một quyền sở hữu
tài sản vơ hình. Khi một nhãn hiệu bị vi phạm, ngoài các thiệt hại về vật chất có thể
đo đếm được như doanh thu giảm, lợi nhuận giảm, v.v. một hậu quả rất nghiêm trọng
sẽ xảy ra là mất uy tín, đặc biệt là khi nhà sản xuất đã bỏ ra bao nhiêu tiền bạc và
công sức để gây dựng và có được uy tín. Như nhà viết kịch Shearkspeare đã viết
trong vở “Othello” nổi tiếng:
“Cái tên hay trong đàn ông và phụ nữ - hỡi chúa tơi đó là ngọc q của tâm
hồn họ
Ai đã đánh cắp ví tiền của tơi, đánh cắp vật vơ giá của tơi
Đó là một cái gì, chẳng là gì cả
Nó đã là của tơi, giờ là của hắn và là nô lệ của ngàn người
Nhưng hắn, kẻ đã đánh cắp danh tiếng của tôi
Lấy của tôi, cái mà chẳng làm hắn giàu lên
Và thực sự đã làm tôi nghèo khó”
Việc bảo hộ đối với các nhãn hiệu hàng hố là một quyền thiết yếu và thường
diễn ra trong mối liên quan đến các quyền đối với nhãn hiệu đã đăng ký. Tuy nhiên,
tại nhiều nước theo hệ thống thông luật (common law) như Anh, Hoa Kỳ, Singapore,
v.v, việc đăng ký nhãn hiệu có thể là khơng bắt buộc và bất cứ một nhãn hiệu nào đã
sử dụng trong thực tế đều có thể được bảo hộ.

Về hình thức của nhãn hiệu, về nguyên tắc, nhãn hiệu có thể là bất kỳ một dấu
hiệu nào đại diện cho một công ty hoặc một cá nhân trên thị trường. Nhãn hiệu có thể
là một từ ngữ hay hình ảnh mang tính phân biệt, thậm chí cả âm thanh (như tiếng
rống của con sư tử là nhãn hiệu của hãng sản xuất phim nổi tiếng Hoa kỳ MGM),
màu sắc (như sự kết hợp giữa màu xanh và vàng là nhãn hiệu của đội bóng Boca
Junior của Argentina hay màu sắc sử dụng trên vỏ phim KODAK) hay mùi thơm của
hoa hồng cho những chiếc lốp xe ôtô của hãng Bridgestone , v.v. Mọi người đã quen
với những nhãn hiệu bằng từ ngữ hay hình ảnh hai chiều, tuy nhiên nhãn hiệu có thể
là hình ảnh ba chiều như nhãn hình chai Coca-Cola của Cơng ty Coca-Cola hay hình
tam giác 3 mũi tên trong nhãn hiệu xe Mercedec.
Để được bảo hộ, nhãn hiệu hàng hoá phải đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định
như khơng được mang tính mơ tả, dễ nhận biết, không làm sai lệch nhận thức hay
gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa đảo người tiêu dùng về xuất xứ, tính năng, chất

19


lượng, giá trị của hàng hố/dịch vụ, khơng trùng hay tương tự gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu cuả người khác đã được bảo hộ hay đơn đã nộp có ngày ưu tiên sớm hơn, v.v.
Tại Việt Nam, khái niệm nhãn hiệu hàng hoá được định nghĩa “Nhãn hiệu
hàng hoá là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ
sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hố có thể là từ ngữ, hình ảnh
hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc [2, Đ785]”.
Nhìn chung, các quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam đã tương
đương với quy định của các nước tiên tiến và đáp ứng nhu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường.
Một khái niệm mới xuất hiện thời gian gần đây và cũng có mối liên hệ gần gũi
với nhãn hiệu hàng hố, đó là “Tên miền”. Tên miền là hình thức đơn giản của địa
chỉ Internet, được thiết kế nhằm cho phép người sử dụng tìm kiếm được các trang
web trên Internet bằng cách thức dễ dàng. Tên miền có thể được đăng ký quốc tế

được gọi là “miền chung cấp cao nhất” (gTLD”, ví dụ như .com; .org, hoặc .net,
trong “miền cao nhất cấp quốc gia” (ccTLDs) ví dụ như .vn (cho Việt Nam); .in (cho
Ấn Độ), hoặc trong 7 gTLD mới như .biz hoặc .info. Việc sử dụng hệ thống tên miền
đã phát triển rất mạnh trong thời gian gần đây. Hiện có trên 35,5 triều tên miền được
đăng ký trên tồn cầu, với hơn 25 triệu tên miền được đăng ký trong miền .com
(nguồn: Sự gia tăng việc đăng ký tên miền sẽ còn
tiếp tục, đặc biệt trong kỷ nguyên tin học như hiện nay .
Do các hoạt động thương mại trên Internet đang gia tăng, tên miền đã mang ý
nghĩa của chỉ dẫn kinh doanh và dẫn đến xung đột với hệ thống chỉ dẫn kinh doanh
truyền thống đã ra đời trước Internet và được bảo hộ quyền SHTT, cụ thể là nhãn
hiệu hàng hoá và các quyền về chỉ dẫn thuơng mại. Sư xung đột về tên miền và các
quyền SHTT đã gây ra những vấn đề mang tính thách thức vì hệ thống tên miền hầu
như được quản lý tư (trừ một số nước như Việt Nam - do cơ quan nhà nước VNNIC
quản lý), và việc xác lập các tên miền gây ra sự hiện diện trên tồn cầu, có thể truy
cập từ bất kỳ nơi nào trên thé giứoi trong khi hệ thống SHTT mang tính lãnh thổ và
xác lập quyền trong phạm vi quốc gia. Sự xung đột này đã trở nên trầm trọng hơn do
hoạt động lợi dụng được một số bên thực hiện nhằm khai thác bất cập nêu trên. Tại
Việt Nam, một số vụ tranh chấp về tên miền đã xảy ra giữa Yahoo! Inc và VDC Khu
vưc II liên quan đến tên miền yahoo-vn.com.vn, eGuide Singapore Co., Ltd và Công
ty Niên giám Điện tử Việt Nam liên quan đến tên miền eGuide.com.vn. mà tác giả
đang trực tiếp xử lý.

20


Thừa nhận mối lo ngại này, WIPO đã thực hiện chương trình tên miền của
WIPO và đưa ra các khuyến nghị cho các tổ chức quản lý kỹ thuật hệ thống tên miền,
đặc biệt là Tổ chức phân phối Tên và địa chỉ Internet (ICANN). Căn cứ vào khuyến
nghị của WIPO, ICANN đã phê chuẩn Chính sách giải quyết tranh chấp thống nhất
(UDRP) bao gồm các quy tắc về thủ tục. Trung tâm trung gian và hoà giải của

WIPO, dựa trên các quy định tại UDRP đã giải quyết được nhiều vụ tranh chấp có
liên quan đến tên miền, góp phần giải quyết được các ý đồ lạm dụng với dụng ý xấu,
chống cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế.
1.3.5 Chỉ dẫn địa lý
Chỉ dẫn địa lý được hiểu là những thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá
được thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh dùng để chỉ
một quốc gia, một khu vực lãnh thổ hoặc địa phương nhằm chỉ dẫn rằng hàng hóa
liên quan có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà chủ yếu
nguồn gốc địa lý của hàng hoá mang lại đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng
hoặc các đặc tính khác của hàng hố đó. Tại Điều 22.1 Hiệp định TRIPS và tại Điều
10 Nghị định 54/2000/NĐ-CP cũng có quy định tương tự về chỉ dẫn địa lý.
Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý được mở rộng cho mọi tổ chức, cá nhân tiến
hành sản xuất hàng hoá tại lãnh thổ quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương tương
ứng với điều kiện hàng hoá phải bảo đảm uy tín hoặc danh tiếng vốn có của hàng hố
đó. Khác với các đối tượng SHCN khác, quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý không được
chuyển giao và quyền này chỉ được bảo hộ khi còn đủ các điều kiện đặc trưng cho chỉ
dẫn địa lý và các điều kiện sản xuất bảo đảm các tính chất đặc trưng của hàng hoá [27,
Đ12]
.
Hơn thế nữa, quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý tự động được xác lập khi có
đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật mà không cần phải đăng ký tại cơ quan
Nhà nước. Khi chủ sở hữu của chỉ dẫn địa lý thực hiện yêu cầu xử lý hành vi xâm
phạm, họ có nghĩa vụ chứng minh điều kiện xác lập quyền và phạm vi quyền của
mình, đồng thời nêu rõ tên, địa chỉ của người đã thực hiện hành vi xâm phạm, cung
cấp các chứng cứ về phạm vi và mức độ của việc xâm phạm để các cơ quan có thẩm
quyền xem xét theo trình tự và thủ tục xử lý như đối với các hành vi xâm phạm đối
với các đối tượng SHCN khác.
Một điều cần chú ý là tại Việt Nam, một khái niệm nữa cần phân biệt với chỉ
dẫn địa lý, đó là tên gọi xuất xứ hàng hoá (“TGXXHH”). Tên gọi xuất xứ hàng hoá
là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa

phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù
21


dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người
hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó [2, Đ786] .Các ví dụ về TGXXHH có thể là nước mắm
Phan Thiết, chè Tân Cương Thái Nguyên, gạch Bát Tràng, rượu vang Bordeau v.v.
Như vậy, có thể thấy tên gọi xuất xứ hàng hoá là một dạng đặc biệt của chỉ dẫn địa
lý, đều chỉ ra xuất xứ hàng hoá. Tuy vậy, giữa chúng có một số khác biệt cơ bản như:
-

Dạng thể hiện của TGXXHH hẹp hơn so với chỉ dẫn địa lý: TGXXHH là tên
địa lý của nước, địa phương trong khi chỉ dẫn địa lý được thể hiện dưới dạng
một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh dùng để chỉ một quốc gia
hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia. Như vậy, hình tháp
Eiffel (chỉ thủ đơ Paris) hay hình Kh văn các (chỉ Hà nội) chính là chỉ dẫn
địa lý trong khi chúng không thể là TGXXHH.

-

TGXXHH được bảo hộ theo nguyên tắc truyền thống là cấp Văn bằng bảo hộ
còn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ khơng địi hỏi phải qua thủ tục đăng ký mà
quyền SHCN của chỉ dẫn địa lý được xác lập khi có đủ các điều kiện nhất
định, được thừa nhận về nguyên tắc và khi có khiếu kiện thì người có quyền
phải chứng minh điều kiện xác lập quyền và phạm vi quyền của mình.

Chỉ dẫn địa lý có liên quan chặt chẽ đến các sản phẩm tiêu dùng đặc biệt là
rượu vang và rượu mạnh. Mặc dù chưa có quy định riêng, chi tiết về vấn đề này, Việt
Nam đã có quy định chung về chỉ dẫn địa lý liên quan đến rượu vang và rượu mạnh
[27, Đ19.3]

.
1.3.6 Tên thương mại
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh. Để được bảo hộ, tên thương mại phải là tập hợp các chữ cái, có thể kèm theo
chữ số, phát âm được và tên thương mại tạo ra khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh
mang tên thương mại đó với các chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực kinh
doanh.
Các tên thương mại mà gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã
sử dụng từ trước trên cùng địa bàn và trong cùng lĩnh vực kinh doanh hoặc gây nhầm
lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được bảo hộ từ trước thì sẽ không
được bảo hộ. Tương tự như vậy, tên của các cơ quan hành chính, tổ chức chính trị,
chính tri-xã hội, tổ chức nghề nghiệp hoặc các chủ thể không liên quan đến kinh
doanh thì sẽ khơng được bảo hộ với danh nghĩa là tên thương mại. Trong trường hợp
tên thương mại nhưng chỉ nhằm mục đích thực hiện chức năng của chính chủ thể
kinh doanh, ví dụ cơ sở sản xuất thức ăn gia súc, cửa hàng điện tử điện lạnh, v.v. mà

22


khơng có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh với các chủ thể khác trong cùng lĩnh
vực thì cũng sẽ khơng được bảo hộ.
Tên thương mại có thể được chuyển giao hoặc thừa kế với điều kiện việc
chuyển giao phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động
kinh doanh dưới tên thương mại đó. Quyền SHCN đối với tên thương mại được bảo
hộ khi chủ sở hữu vẫn duy trì hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó [27, Đ17].
1.3.7 Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
Trong một nền kinh tế, cạnh tranh là cần thiết và cần phải được khuyến khích,
xuất phát từ nguyên tắc tự do kinh doanh. Tuy nhiên, cạnh tranh khơng lành mạnh lại
là bất hợp pháp. Khó có thể có một định nghĩa chính xác, đầy đủ về thuật ngữ cạnh
tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, theo Cơng ước Paris, trong đó các quốc gia thành

viên cam kết về “bảo hộ một cách có hiệu quả chống lại cạnh tranh không lành
mạnh” và định nghĩa “cạnh tranh không lành mạnh là bất kỳ hành vi cạnh tranh nào
trái với thực tiễn trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại” [9, Đ10bis]. Điều
này cũng chi rõ các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh gồm:
-

Mọi hành vi gây nhầm lẫn với cơng ty, hàng hố hoặc các hoạt động thương
mại và công nghiệp của đối thủ cạnh tranh;

-

Mọi hành vi nhằm hạ uy tín về sản phẩm và các hoạt động cũng như bản thân
bên cạnh tranh; và

-

Sử dụng các chỉ dẫn có khả năng gây nhầm lẫn cho cơng chúng về bản chất,
q trình sản xuất, chất lượng hay số lượng sản phẩm.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất đa dạng và khó có thể liệt kê
hết được. Việt Nam cũng có các quy định bảo hộ các quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh liên quan tới SHCN. Các hành vi được coi là cạnh tranh không lành mạnh
bao gồm việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin
về chủ thể kinh doanh, hàng hoá dịch vụ nhằm gây thiệt hại cho người khác, làm lợi
cho mình hoặc chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà khơng được
người đó cho phép. Tổ chức, cá nhân bị hại hoặc có khả năng bị hại có quyền yêu cầu
cơ quan nhà nuớc có thẩm quyền: buộc bên vi phạm chấm dứt hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, yêu cầu bồi thường thiệt hại, yều cầu xử lý hành chính hoặc hình
sự bên vi phạm. Khi thực hiện các quyền này, các tổ chức cá nhân có nghiã vụ chứng
minh về quyền, lợi ích hợp pháp của mình đang bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị thiệt

hại do hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh gây ra.
1.3.8 Thơng tin bí mật
23


Nhiều nước có các đạo luật điều chỉnh việc phổ biến thơng tin bí mật. Về khái
niệm này, có thể nói thơng tin bí mật là thơng tin có giá trị cần phải giữ bí mật. Lý do
của tính mơ hồ trong khái niệm này là ở chỗ các thể loại tư tưởng và thông tin được
bảo vệ là không hạn chế. Ví dụ như các bí mật cá nhân, về mức lương, thơng tin
khách hàng, bí mật của chính phủ, công thức cấu tạo sản phẩm, v.v. Khái niệm thơng
tin bí mật cũng bao hàm cả bí mật kinh doanh.
Lý thuyết pháp lý làm nền tảng cho việc bảo hộ thơng tin bí mật là con người
ta có nghĩa vụ phải trung thực. Con người không được phép tiết lộ các thơng tin nhận
được trong các điều kiện bí mật thì chẳng có lý do gì để làm điều đó. Nói một cách
đơn giản hơn, con người có nghĩa vụ phải giữ bí mật nếu họ đã thoả thuận như vậy.
Theo pháp luật Việt Nam, “bí mật kinh doanh” được bảo hộ và khái niệm này
được gắn với khái niệm “thành quả đầu tư” dưới dạng thông tin đáp ứng ba điều kiện:
không phải là hiểu biết thông thường, có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi
được áp dụng mang lại lợi thế cho người nắm giữ thông tin, được chủ sở hữu bảo mật
bằng các biện pháp cần thiết và không dễ dàng tiếp cận được. Luật Việt Nam không
xác định cụ thể thời hạn bảo hộ đối với các quyền có liên quan đến bí mật kinh
doanh mà quy định rằng các quyền này được bảo hộ khi bí mật kinh doanh cịn đáp
ứng đủ 3 điều kiện trên. Các bí mật kinh doanh được phép chuyển giao hoặc thừa kế
[27, Đ9]
.
1.3.9 Thiết kế bố trí mạch tích hợp
Mạch tích hợp (Integrated Circuits - IC) là một đối tượng SHCN mới so với
các đối tượng SHCN truyền thống như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, v.v Thiết kế bố
trí (topography hay layout design) mạch tích hợp được bảo hộ theo điều ước quốc tế
là Hiệp ước Washington về bảo hộ Sở hữu trí tuệ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp

(Treaty on Intellectual Property in Respect of Integrated Circuits - IPIC hay Hiệp ước
Washington).
Mạch tích hợp được định nghĩa tại Điều 2(ii) Hiệp ước IPIC là một sản phẩm,
dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó các phần tử - với ít nhất một
phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối nối được gắn kết trong và/hoặc trên
một miếng vật liệu và nhằm thực hiện một chức năng điện tử. Thiết kế bố trí có nghĩa
là sự sắp xếp trong không gian ba chiều, thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, dưới
dạng hữu hình bất kỳ, của các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và của một số
hoặc tất cả các mối nối của một mạch tích hợp, hoặc sự sắp xếp trong khơng gian ba
chiều như vậy của một mạch tích hợp được thiết kế để sản xuất mạch tích hợp nói
trên. Sự thể hiện hữu hình của thiết kế bố trí, dưới bất kỳ hình thức nào, tức là có thể
24


×