Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp thâm canh tổng hợp đến sinh trưởng, phát triển và năng suất, chất lượng của cam sành hàm yên tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.02 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
3
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây cam, quýt là cây ăn quả có giá trị trên thị trường quốc tế, là một
trong những loại quả được trao đổi buôn bán nhiều. Cam, quýt có nhiều loài,
thứ, quả chín sớm muộn khác nhau, có thể kéo dài thời gian cung cấp quả tươi
cho thị trường tới 6 tháng trong năm. Nếu được trồng ở các vĩ độ khác nhau
hoặc ở bán cầu khác nhau, cùng với ưu điểm dễ cất giữ, vận chuyển thì cam,
quýt có thể cung cấp quả tươi gần như quanh năm. Trồng cam, quýt sớm cho
thu hoạch, đầu tư ban đầu không cao lắm nhưng hiệu quả kinh tế lớn.
Vùng Trung du - miền núi phía Bắc có nhiều lợi thế về đất đai, khí hậu
và nguồn gen phong phú cho phép phát triển tốt về cây ăn quả. Trong tập
đoàn giống cam quýt ở vùng này, cam sành (Citrus nobilis Lour) là một giống
lai giữa cam và quýt (C.reticulat x C.sinensis of Swingle) hiện nay đang có
diện tích trồng lớn nhất so với các giống khác. Sản phẩm cam sành được coi
là đặc sản của một số địa phương mang tính hàng hóa cao. Cây cam sành
(Citrus nobilis Lour) có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới nóng ẩm và ưa khí hậu
ẩm, sinh trưởng và phát triển thích hợp nhất ở nhiệt độ 23
o
C - 29
o
C, nhưng
cũng có thể chịu rét và sinh trưởng ở nhiệt độ 12
o
C. Vùng có thể trồng được
cây cam sành từ 35 vĩ độ Bắc đến 40 vĩ độ Nam.
Việt Nam là một trong những nước nằm trong trung tâm phát sinh cây
có múi (Trung tâm Đông Nam Á), nên cây có múi đã được trồng rất lâu đời


và phân bố rộng khắp từ Bắc đến Nam. Trong đó có một số nơi nổi tiếng với
cây cam như: cam sành Hàm Yên (Tuyên Quang), cam sành Bắc Quang (Hà
Giang), cam sành Bố Hạ (Bắc Giang), cam sành đồng bằng sông Cửu Long.
Cây cho quả sớm và có sản lượng cao, năm thứ ba sau trồng cây đã bắt đầu
cho quả, những năm về sau năng suất tăng dần và thời gian kinh doanh kéo
dài, nếu chăm sóc tốt có thể trên 50 năm.
Cây cam sành là một trong những loại cây ăn quả được nhiều người
tiêu dùng trong nước cũng như trên thế giới rất ưa chuộng bởi nó có hương vị
3
4
thơm ngon có giá trị dinh dưỡng cao đặc biệt là Vitamin C vì vậy cam có ý
nghĩa trong việc bồi bổ sức khỏe con người, bảo quản được lâu trong quá
trình sử dụng. Nó còn có giá trị trong y học phương Đông, tham gia vào nhiều
vị thuốc cổ truyền.
Đất đai tỉnh Tuyên Quang rất thích hợp cho trồng cây ăn quả có múi.
Từ lâu huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang được biết đến bởi một sản phẩm
nổi tiếng là “cam sành Hàm Yên”. Cây cam hiện đang chiếm ví trí quan trọng
trong phát triển kinh tế của huyện, giúp xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập
cho người dân.
Tại huyện Hàm Yên nói riêng và các vùng trồng cam nói chung hiện
nay, người dân chủ yếu canh tác theo phương thức truyền thống là không bón
phân hoặc bón phân rất ít, sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật. Người dân
chưa thực sự chú trọng đến chất lượng quả, việc áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất chưa được quan tâm, chăm sóc chưa đúng quy trình kỹ thuật nên
vườn cam tàn cỗi nhanh, tình hình sâu bệnh hại nghiêm trọng diễn ra phổ biến
trên diện rộng làm giảm năng suất, chất lượng quả, giống cây trồng chủ yếu
được tạo bằng phương pháp chiết cây, tuổi thọ của cây và vườn ngắn, giống bị
thoái hóa và đang có nguy cơ bị mất nguồn gen quý. Chưa tạo ra được sản
phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao, diện tích đất trồng cam có xu hướng
ngày càng giảm.

Xuất phát từ vấn đề trên chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
ảnh hưởng của biện pháp thâm canh tổng hợp đến sinh trưởng, phát triển
và năng suất, chất lượng của cam sành Hàm Yên - Tuyên Quang”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp thâm canh tổng hợp đến đặc
điểm hình thái, khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất, chất lượng của
cam sành giai đoạn kinh doanh tại Hàm Yên - Tuyên Quang.
- Xây dựng hoàn thiện một quy trình thâm canh mới mang lại hiệu quả
kinh tế cao.
4
5
1.3. YÊU CẦU
- Điều tra điều kiện tự nhiên (đất đai, khí hậu), tình hình sản xuất cam
của huyện Hàm Yên.
- Theo dõi và mô tả đặc điểm hình thái, khả năng sinh trưởng, phát triển
của cam sành Hàm Yên.
- Theo dõi và đánh giá năng suất và chất lượng của quả cam sành Hàm Yên.
1.4. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
+ Giúp sinh viên củng cố và hệ thống hoá những kiến thức đã học trong
nhà trường vào nghiên cứu khoa học và trau dồi những kiến thức, kinh
nghiệm thực tế.
+ Là cơ hội tiếp cận thực tế để hiểu rõ hơn về bản chất vấn đề.
+ Giúp sinh viên nắm được cách tiến hành một đề tài nghiên cứu khoa học
+ Giúp sinh viên biết phương pháp thu thập, xử lý số liệu và trình bày
một báo cáo khoa học.
+ Là cơ sở để lựa chọn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới trong việc
trồng và chăm sóc cây có múi.
+ Là cơ sở để tiến hành nghiên cứu sâu hơn về việc lựa chọn giống
cam, quýt phù hợp cho từng vùng.

+ Là cơ sở để lựa chọn và áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản
xuất cam tại Hàm Yên - Tuyên Quang
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
+ Giúp cho người dân bước đầu tiếp cận và hiểu rõ hơn về điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội và tình hình sản xuất cam của vùng từ đó áp dụng biện
pháp kỹ thuật mới trong việc trồng và chăm sóc cây cam, quýt nói riêng và
cây ăn quả nói chung, góp phần tăng năng suất, chất lượng quả, hạn chế sâu
bệnh nâng cao thu nhập cho người làm vườn.
+ Qua đó áp dụng các biện pháp kĩ thuật mới trong trồng và chăm sóc
cam nhằm nâng cao năng suất, chất lượng quả, hạn chế sâu bệnh hại cam,
tăng thu nhập cho người dân.
5
6
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SƠ KHOA HỌC
Mỗi vùng miền đều có những điều kiện sinh thái nhất định ảnh hưởng
đến quá trình sinh trưởng, phát triển, khả năng cho năng suất và phẩm chất
của cam.
Cây cam, quýt là cây ăn quả lâu năm, chịu ảnh hưởng rất rõ của các
điều kiện ngoại cảnh như: nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, chế độ chăm sóc Các
ảnh hưởng đó sẽ được phản ảnh ra trên bản thân của cây bằng những biểu
hiện của sinh trưởng, phát triển, khả năng cho năng suất và phẩm chất quả.
Những đặc trưng, đặc tính biểu hiện trong một đời của cây hay một năm đều
là kết quả phản ánh tổng hợp giữa đặc điểm của giống và điều kiện ngoại
cảnh. Tùy vào tuổi cây và điều kiện sinh thái nơi trồng, trong chu kỳ sống một
năm cam, quýt thường ra bốn đợt lộc: Xuân, Hè, Thu, Đông. Các đợt lộc có
sự liên quan khá chặt chẽ với nhau, quá trình ra lộc năm trước là tiền đề cho
sự ra hoa kết quả năm sau. Hiểu biết rõ về các quy luật trên có các biện pháp
kỹ thuật hợp lý để điều khiển quá trình ra lộc, hạn chế hoặc loại bỏ hoàn toàn

hiện tượng ra quả cách năm, điều chỉnh cân đối giữa các bộ phận trên mặt đất
và dưới mặt đất, hạn chế sâu bệnh, góp phần nâng cao năng suất và chất
lượng [6].
Ở cam quýt nói chung vào độ tuổi cây cho thu hoạch có thể cho một
khối lượng sản phẩm lớn từ 15-20 tấn/ha. Vì vậy cây lấy đi từ trong đất một
lượng dinh dưỡng tương đối lớn để nuôi thân, rễ, lá và kiến tạo các sản phẩm
quả. Đó là lý do mà chúng ta phải thâm canh, có một chế độ chăm sóc hợp lý
cho cây cam. Bón phân cung cấp dinh dưỡng vào đất hoặc bón phân qua lá sẽ
quyết định nhiều đến năng suất chất lượng cam. Nhưng thâm canh càng cao
càng khiến cho diễn biến sâu bệnh càng phức tạp. Các chế độ chăm sóc như:
làm đất, bón phân, tưới nước,… và mọi hoạt động sản xuất khác của con
người khi có những tác động lên cây trồng, lên các thành phần của hệ sinh
thái đồng ruộng, vườn cây đều có ảnh hưởng đến phát sinh, diễn biến, mật độ,
phân bố các loại sâu bệnh hại cây [3].
6
7
Tại huyện Hàm Yên - Tuyên Quang việc áp dụng khoa học kỹ thuật để
phát triển vùng cam chưa được rộng rãi nên năng suất chưa cao, mẫu mã
không đẹp, chất lượng thấp. Để giải quyết được vấn đề trên, việc nghiên cứu
ảnh hưởng của các biện pháp thâm canh tổng hợp đến sinh trưởng, phát triển
và năng suất, chất lượng của cam sành Hàm Yên là cần thiết.
2.2. NGUỒN GỐC
Cam quýt có nguồn gốc ở miền Nam châu Á, sự lan trải của cam quýt
đến thế giới gắn liền với lịch sử buôn bán đường biển và các cuộc chiến tranh
trước đây. Cam quýt được di chuyển đến châu Phi từ Ấn Độ bởi các thuyền
buôn, di chuyển đến châu Mỹ bởi các nhà thám hiểm và thuyền buôn người
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (Pinhos Spiegel - Roy. El al, 1998)[12].
Trước đây có vài báo cáo cho rằng loài chanh yên (Citrus medica L),
phật thủ (Citrus medica. Var) có thể có nguồn gốc ở địa phương trung hải
hoặc Bắc Phi. Nhưng hiện nay đã chứng minh được sáng tỏ Citris medica có

nguồn gốc tại miền Nam Trung Quốc nhưng là loài cây ăn quả ở Bắc Phi rất
sớm (đầu công nguyên), những tài liệu cổ xưa ghi chép loại cây ăn quả này có
ở Bắc Phi đến mức nhiều người hiểu lầm chúng có nguồn gốc tại đây (Đỗ
Đình Ca,1995) [12] [13].
Cam ngọt (Citrus sisnensis Osbeck) được xác định có nguồn gốc ở
miền Nam Trung Quốc, Ấn Độ và miền Nam Indonexia. Sau đó cũng giống
như các loài Citrus medica được mang đến trồng ở châu Âu và Địa Trung Hải,
châu Phi vào thế kỷ 13 đến thế kỷ 17 (Davies, F.S, 1986) [14]. Giống cam nổi
tiếng thế giới “Washington NaVel ”, ở Việt Nam vẫn gọi là cam Navel được
báo cáo là dạng đột biến tự nhiên từ một giống cam ngọt, giống này được phát
hiện ở Bhia Brazil, lần đầu tiên trồng ở Úc năm 1928, ở Florida (Mỹ) năm
1835, ở California năm 1970 và nó trở nên rất nổi tiếng ở Washington D.C. Sau
đó giống Washington NaVel được thu nhập và trồng khắp các vùng trồng cam
quýt trên thế giới (Nagai, K,O. Tanigawa, 1928) [15].
Các giống chanh núm (Citrus lemon Osbeck) được xác định có nguồn
gốc tại miền Nam Trung Quốc và miền Tây Ấn Độ, sau đó được đem trồng ở
châu Phi và châu Âu. Với những kỹ thuật di truyền hiện đại đã chứng minh
7
8
cho thấy chanh múi là dạng con lai tự nhiên giữa chanh Yên (Citrus medica L)
và chanh vỏ mỏng (Citrus aurantifolia Swingle). Tóm lại cam, quýt có nguồn
gốc ở miền Nam châu Á, sự lan trải của cam quýt đến thế giới gắn liền với
lịch sử buôn bán đường biển và các cuộc chiến tranh trước đây. Cam, quýt
được di chuyển đến châu Phi từ Ấn Độ bởi các thuyền buôn.
2.3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ NGHIÊN CỨU CAM QUÝT TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
2.3.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu cây cam quýt trên thế giới
Mặc dù nguồn gốc cam quýt xuất phát từ vùng Đông Nam Á nhưng
hiện nay cam, quýt được trồng ở nhiều vùng trên thế giới với tổng số hơn
100 quốc gia. Quá trình sản xuất và tiêu thụ cam, quýt được ghi nhận phát

triển từ giữa thập niên 1980 đến nay gồm nhiều chủng loại quả cam, chanh,
quýt, bưởi có lượng gia tăng rất nhanh, sự phát triển cam, quýt bao gồm số
lượng tiêu thụ quả tươi, trên đầu người hàng năm trên thế giới tăng, ngay cả
chế biến đóng hộp cũng gia tăng đồng bộ với hình thức vận chuyển và bao bì
cho sản phẩm, chất lượng đã được cải thiện rất nhiều và chi phí cho đầu tư
giảm đáng kể.
Theo thống kê của FAO năm 2011 tình hình xuất nhập khẩu cam, quýt
trên thế giới như sau: nhập khẩu 37,13 nghìn tấn có giá trị 31.272,38 nghìn
USD, xuất khẩu 63,71 nghìn tấn có giá trị 38.112,3 nghìn USD. Như vậy sản
phẩm cam, quýt có giá trị thương mại rất lớn trong nền kinh tế thế giới.
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng cam, quýt trên thế giới
2005 - 2010
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
2005 7.920.811 14,06 111.375.240
2006 8.233.589 14,28 117.591.695
2007 8.633.025 13,40 115.698.791
2008 8.697.925 14,02 121.936.794
2009 8.684.866 14,14 122.833.294
2010 8.645.339 14,31 123.694.474
(Nguồn: FASTAT/FAO Statistics - năm 2012)[10]
8
9
Từ năm 2005 đến năm 2010 diện tích trồng cam trên thế giới tăng từ
7920811 ha lên 8645339 ha. Bên cạnh đó, năng suất và sản lượng cam cũng

tăng liên tục theo các năm.
Bảng 2.2: Sản lượng cam, quýt, chanh, bưởi ở các châu lục
năm 2010
(Đơn vị: 1000 tấn)
Vùng lãnh thổ Cam Quýt Chanh Bưởi
Châu Phi 6.749,76 1.678,423 883,310 6.957,837
Châu Mỹ 34.898,652 3.192,911 5.680,628 621,068
Châu Á 20.868,872 14.142,136 6.452,399 2.158,906
Châu Âu 6.495,029 2.199,197 1.192,649 4.101,084
Châu Úc 404,023 99,225 35,796 64,899
Tổng cộng 62.673,401 21.311,892 14.244,782 13.903,794
(Nguồn: FASTAT/FAO Statistics - năm 2012) [10]
Nhìn vào bảng trên ta thấy sản lượng cam quýt trên thế giới rất cao
nhưng lại không đồng đều giữa các châu lục, sản lượng cam chiếm tỷ lệ cao
nhất là Châu Mỹ (34.898.652 tấn), chanh, quýt, bưởi đều có sản lượng thấp
hơn hẳn so với cam (bưởi chỉ có 621.068 tấn). Sản lượng cam thấp nhất là
châu Úc (chỉ có 404.023 tấn), không chỉ dẫn đầu về sản lượng cam mà châu
Mỹ còn có sản lượng chanh (hơn 5.680 nghìn tấn) cao hơn so với các châu
lục còn lại. Châu Á đứng thứ 2 về quýt với 14.142,136 nghìn tấn và đứng
đầu về sản lượng chanh với 6.452,399 nghìn tấn. Thấp nhất về sản lương
cam là châu Úc.
Đến năm 2012 theo dự đoán sẽ có hai hướng phát triển về nhu cầu cam,
quýt, đầu tiên là sự phát triển về nhu cầu cam sẽ chậm lại. Brazil hiện nay đang
phải đối phó với hai vấn đề trong sản xuất là bệnh loét (cakel) và hiện tượng
biến vàng trên cam, quýt (Citrut varriegatet chlorosis), ngoài ra thu nhập người
trồng cam thấp do giá thành không cao nên diện tích trồng mới sẽ không tăng.
Hai là xu hướng sử dụng quả cam tươi đối với các quốc gia phát triển sẽ giảm
và công nghiệp chế biến cam sẽ tiếp tục phát triển ở những quốc gia đang phát
triển mặc dù thị trường chính vẫn là các nước Bắc Mỹ và châu Âu.
Bảng 2.3: Tình hình sản xuất cam, quýt ở các vùng trên thế giới

9
10
năm 2010
Chỉ tiêu Năm
Các châu lục trên thế giới Thế giới
Châu Phi Châu Mỹ Châu Á Châu Âu
Châu
Úc
Diện tích
(ha)
2008
1.426.253 2.497.526 4.149.420 591.573 33.176 8.697.925
2009
1.461.736 2.442.310 4.169.000 581.998 29.822 8.684.866
2010
1.449.543 2491284 4.147.708 525.178 31.626 8.645.339
Năng
suất
(tạ/ha)
2008
93,831 195,738 115,360 189,473 178,271 14,0190
2009
100,344 191,149 121,171 179,489 174,015 14,1434
2010
97,895 188,555 125,323 190,171 177,181 14,3067
Sản
lượng
(tấn)
2008
13.382.713 48.886.060 47.867.858 11.208.731 591.432 121.936.794

2009
14.667.596 46.684.422 50.516.128 10.446.201 518.947 122.833.294
2010
14.190.274 46.974.350 51.980.151 9.987.354 562.344 123.694.474
(Nguồn: FASTAT/FAO Statistics - năm 2012) [10]
Năm 2010 diện tích cam, quýt của toàn thế giới là 8.645.339 ha và sản
lượng đạt cao hơn 123.694.474 tấn vì vậy năng suất trung bình là 14,3067
tạ/ha. So sánh về diện tích của 5 châu lục, châu Á có tổng diện tích lớn nhất
sau đó đến châu Mỹ, châu Phi, châu Âu và vùng có diện tích nhỏ nhất là châu
Đại Dương 22,165 nghìn ha.
- Vùng châu Mỹ: các nước sản xuất nhiều như Mỹ, Mêxico, CuBa,
Costarica, Braxin, Achentina tuy vùng cam, quýt châu Mỹ được hình thành
muộn hơn so với vùng khác, song do điều kiện thiên nhiên thuận lợi, do nhu
cầu đòi hỏi của nền công nghiệp Hoa Kỳ đã thúc đẩy ngành cam quýt ở đây
phát triển rất mạnh. Về năng suất cam năm 2008 đạt 93,831 tạ/ha, đến năm
2010 năng suất trung bình đạt 97,895tạ/ha.
-Vùng lãnh thổ châu Á sản xuất cam, quýt gồm các nước (Trung Quốc,
Ấn Độ, Inđônêia, Philippin, Thái Lan…) đây là vùng có diện tích lớn nhất,
năm 2010 là 4.147.708 ha chiếm. Tuy nhiên năng suất thấp hơn vùng châu
Mỹ. Vùng sản xuất cam, quýt châu Phi có năng suất trung bình đạt thấp nhất.
Vùng châu Á được khẳng định là quê hương của cam, quýt, hầu hết các nước
châu Á đều sản xuất cam quýt. Tuy nhiên năng suất bình quân vẫn còn đang ở
mức thấp, đó là do điều kiện kinh tế, xã hội của các nước này có những hạn
10
11
chế nhất định, nghề trồng cam quýt chưa được chú trọng nhiều và đang tồn tại
sự pha trộn của kỹ thuật hiện đại (Nhật Bản, Hàn Quốc) và sự canh tác truyền
thống của Trung Quốc, Ấn Độ, Philippin tình trạng sâu bệnh hại nhiều
nghiêm trọng.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của FAO về tình hình sản xuất cam

ở một số nước châu Á năm 2010 như sau:
Bảng 2.4: Tình hình sản xuất cam ở một số nước vùng châu Á năm 2010
STT Vùng, lãnh thổ
Năm 2010
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
1
Trung Quốc 375.789 133,141 5.003.289
2
Ấn Độ 617.200 101,557 6.268.100
3
Inđônêia 58.000 350,460 2.032.670
4
Thái Lan 21.500 173,349 372.700
5
Việt Nam 61.500 118,602 729.400
(Nguồn: FASTAT/FAO Statistics - năm 2012) [10]
Diện tích lớn nhất ở vùng này là Trung Quốc năm 2010 có trên 3 triệu ha
năng suất đạt 133,141 tạ/ha và sản lượng đứng đầu thế giới với 5.003.289 tấn.
Đứng thứ 2 là Ấn Độ với diện tích 617.200 ha, năng suất đạt 101,557 tạ/ha,
Inđônexia là nước có năng suất cao nhất 350,460 tạ/ha.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất cam, quýt trong nước
Cam, quýt có lịch sử trổng trọt lâu đời ở nước ta, cho đến nay cam quýt
đã được nhiều nhà quan tâm và đã chọn ra được nhiều giống cho năng suất
cao, phẩm chất tốt đem trồng ở một số vùng trên cả nước. Theo các tác giả
Trần Như ý, Đào Thanh Vân, Nguyễn Thế Huấn (năm 2000) cho thấy cây ăn

quả có diện tích, sản lượng cao đó là: chuối, cam, quýt, dứa, xoài trong đó
cam, quýt đứng vị trí thứ 2 sau chuối.
Ở nước ta hiện nay, có nhiều vùng trồng cam quýt, song những vùng
cho năng suất cao, phẩm chất tốt có tiếng trong nước phải kể đến vùng cam
đồng bằng sông Cửu Long, vùng cam Trung du miền núi phía Bắc với nhiều
giống cam đặc sản, chất lượng như: cam Vinh, cam Yên Bái, cam Bắc Quang,
11
12
quýt Bắc Sơn, cam sành Hàm Yên Phân bố ở 8 vùng sản xuất bao gồm đồng
bằng sông Hồng, vùng Đông Bắc, vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung
Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng trồng
có diện tích lớn là đồng bằng sông Cửu Long, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ.
Thời kỳ này có khoảng 3000 ha cam quýt và phát triển khá mạnh, sản
lượng hàng năm đã đạt vài nghìn tấn, trên thị trường cam quýt đã có giá phải
chăng, người dân đã biết đến hương vị của chúng. Năng suất bình quân những
năm đó vào khoảng 135 - 140 tạ/ha. Thời kỳ này vùng cam đất đỏ bazan Phủ
Quỳ (Nghệ An) đạt bình quân toàn nông trường 220 tạ/ha.
Vào đầu những năm của thế kỷ 21 trở lại đây so những năm 1975 của
thế kỷ trước diện tích năng suất và sản lượng của cam được tăng lên rất mạnh
và dần ổn định.
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất cam quýt giai đoạn 2006 - 2010
STT
Tình hình sản xuất
cam, quýt
Năm
2006 2007 2008 2009 2010
1
Diện tích (1000 ha)
62.2 65.1 63.2 63.9 60.9
2

Năng suất (tạ/ha)
98.1 100.1 107.6 105.0 118.6
3
Sản lượng (1000tấn)
611.0 648.2 676.7 683.5 720.1
(Cơ sở dữ liệu bộ NN & PTNT 2012)
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy diện tích sản xuất cam, quýt tăng từ
năm 2006 với 62.2 nghìn ha lên 65.1 nghìn ha năm 2007 sau đó giảm dần đến
năm 2010 xuống còn 60.9 nghìn ha. Năng suất trung bình năm 2006 rất thấp
chỉ đạt 98.1 tạ/ha và chúng tăng dần đến năm 2010 đạt năng suất 118.6 tạ/ha.
Tổng sản lượng cam, quýt trong năm 2010 đạt cao nhất là 720.1 nghìn tấn.
2.3.3. Các vùng trồng cam trong nước
2.3.3.1. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long
Gồm các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Cần Thơ, Sóc Trăng và An Giang có vị trí địa lý từ 9
0
15’ - 10
0
30’ vĩ độ Bắc và
105
0
- 106
0
45’ độ kinh Đông. Đây là vùng tận cùng phía Nam đất nước thuộc
châu thổ sông Cửu Long, địa hình rất bằng phẳng.
12
13
Vùng đồng bằng Sông Cửu Long có nhiều điều kiện thuận lợi về khí
hậu để phát triển sản xuất cây có múi, có chế độ nhiệt độ cao và rất ôn hòa.
Nhiệt độ trung bình năm 25,5

0
C - 29,8
0
C, bức xạ nhiệt lớn và ổn định, lượng
mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.300 - 1.600 mm. Tập trung vào mùa
mưa (90 %), độ ẩm không khí trung bình 83 - 85 %, tháng khô hạn nhất độ
ẩm không khí còn 75 %.
Cam quýt được phát triển nhiều và mạnh ở vùng đồng bằng Sông Cửu
Long, ngoài yếu tố khí hậu, đất đai thuận lợi còn do cam quýt có giá trị và
hiệu quả kinh tế rất cao so với các loại cây trồng khác.
Tuy nhiên vùng đồng bằng Sông Cửu Long còn có nhiều hạn chế nhất
định là:
Vùng đồng bằng Sông Cửu Long không có mùa Đông lạnh biên độ
nhiệt ngày đêm những tháng quá chín nên khả năng hình thành các sắc tố
anthoxyan ở vỏ cam quýt kém, mã quả xấu, khi chín vỏ quả vẫn còn xanh.
Cũng do nhiệt độ cao nên quả thường nhiều hạt, tỷ lệ xơ bã cao, vách múi dai.
Đất phù sa: là loại đất tốt thích hợp với cam quýt, song ven các sông
Tiền, sông Hậu hoặc các cù lao mạch nước ngầm cao gây cản trở tới việc ăn
sâu của rễ cam quýt và ảnh hưởng tới tuổi thọ của chúng.
Sâu bệnh sẽ phát triển rất nhanh, do vậy chi phí cho công tác bảo vệ
thực vật phòng trừ sâu bệnh rất tốn kém.
2.3.3.2. Vùng khu IV cũ
Gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài từ vĩ độ 18 đến
20
0
30’ vĩ độ Bắc. Trọng điểm trồng cam quýt vùng này là vùng Phủ Quỳ -
Nghệ An, gồm một cụm gồm các nông trường chuyên trồng cam, với diện tích
năm 1990 là 1.600 ha.
Vùng Phủ Quỳ nằm ở phía tây Bắc thuộc tỉnh Nghệ An. Diện tích tự
nhiên 730.000 ha. Là vùng đồi núi, nhưng phần lớn diện tích đất có độ dốc từ

3 - 6
0
rất thuận lợi cho trồng cam quýt và các cây trồng lâu năm khác, ảnh
hưởng của 2 loại gió mùa Đông - Bắc (gió lạnh) và Tây - Nam (gió nóng), nên
khí hậu vùng Phủ Quỳ phân thành 4 mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nhiệt
độ trung bình trong các tháng mùa Đông vùng Phủ Quỳ từ 15 - 17
0
C. Nhiệt độ
13
14
tối thấp trong tháng lạnh nhất (tháng 1) xuống tới 2
0
C. Số ngày có nhiệt độ
thấp dưới 10
0
C ở Phủ Quỳ thường có tới 10 ngày. Đây là một hạn chế lớn đối
với vùng sinh trưởng của cam quýt.
Ngược lại về mùa Hè do ảnh hưởng của gió Tây - Nam nên khí hậu rất
khô và nóng. Nhiệt độ trung bình trong các tháng mùa nóng từ 27 - 30
0
C,
nhiệt độ tối cao trung bình là 33 - 33,6
0
C. Nhiệt độ tuyệt đối cao trong tháng
nóng nhất (tháng 7) lên tới 42
0
C. Lượng mưa ở vùng Phủ Quỳ xấp xỉ 1.600
mm/năm, nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu vào mùa nóng, gây
hiện tượng xói mòn đất, trong khi các tháng mùa đông lại ít mưa, lượng bốc
hơi lớn, gây hiện tượng hanh khô thiếu nước.

Do những hạn chế về mặt khí hậu, thời tiết cho nên mặc dù có nhiều ưu
thế về mặt đất đai và trình độ khoa học kỹ thuật, song sản xuất cam ở vùng
Phủ Quỳ vẫn thường không ổn định.
Vấn đề đặt ra ở vùng sản xuất cam ở vùng Phủ Quỳ là cần phải đầu tư
thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, để hạn chế được
những tác hại do thời tiết, khí hậu sinh ra. Mặt khác, việc thay đổi cơ cấu
giống cũng rất cần thiết, bởi vì từ trước tới nay vùng Phủ Quỳ sản xuất cam là
chính, ít chú ý tới các loại khác trong họ cam.
2.3.3.3. Vùng miền núi phía Bắc
Gồm các tỉnh nằm trong dải vĩ độ từ 22 - 23 vĩ độ Bắc như: Tuyên
Quang, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Thái
Nguyên, điều kiện khí hậu hoàn toàn khác với 2 vùng kể trên.
Về điều kiện khí hậu, do vị trí địa lý nằm sát vành đai á nhiệt đới, lại có
địa hình đồi núi và độ cao so với mặt nước biển tương đối cao, cho nên điều
kiện khí hậu có mùa Đông lạnh và mùa Hè tương đối nóng. Nhiệt độ trung
bình năm vào khoảng 21 - 22
0
C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1)
từ 14 - 15
0
C, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất (tháng 7) từ 27 - 28
0
C. Tuy
nhiên do ảnh hưởng của địa hình ở mỗi tỉnh và mỗi địa phương trong tỉnh
khác nhau cũng gây nên sự biến đổi phức tạp về điều kiện khí hậu. Đây là một
trong những khó khăn đối với việc bố trí cơ cấu giống cây trồng ở các tỉnh
miền núi phía Bắc.
14
15
Lượng mưa trung bình ở các tỉnh miền núi phía Bắc từ 1.600 - 1.800mm.

Riêng trung tâm Bắc Quang lượng mưa rất lớn từ 2.500 - 3.200mm. Tuy nhiên, sự
phân bố của mưa không đều [4].
Đất đai rất da dạng, gồm các loại đất Feralit phát triển trên đá biến chất
như: đá Gơnai, đá vôi, phiến thạch sét, phiến thạch mica, đất phù sa cổ, phù sa
không được bồi ven các sông suối, đất dốc tụ do quá trình rửa trôi xói mòn
tạo thành Địa hình phức tạp, chia cắt, độ dốc lớn.
Khí hậu ở miền núi các tỉnh phía Bắc, ngoài thích hợp với sinh trưởng
phát triển bình thường của cam quýt, còn có ưu thế nổi bật so với vùng đồng
bằng sông Cửu Long là có mùa Đông lạnh, biên độ nhiệt độ ngày đêm và giữa
các tháng chênh lệch lớn làm cho quả cam quýt dễ phát mã, thể hiện đúng đặc
trưng của giống, vì vậy mã quả cam quýt ở phía Bắc bao giờ cũng đẹp hơn ở
phía Nam, quả ít hạt hơn, mọng nước và ít xơ bã.
Hạn chế cơ bản của việc phát triển cam quýt ở vùng miền núi phía Bắc là:
+ Địa bàn phân tán, ít có vùng tập trung lớn như vùng Phủ Quỳ - Nghệ
An hoặc vùng đồng bằng sông Cửu Long.
+ Địa hình dốc, giao thông đi lại khó khăn, hạn chế nhiều đến việc mở
rộng vùng sản xuất cam quýt làm hàng hoá.
+ Việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất gặp nhiều khó khăn
do trình độ dân trí còn thấp, tính thích ứng với nền kinh tế hàng hoá còn chậm.
Sản xuất chủ yếu theo lối kinh nghiệm, thường chỉ độc canh một giống,
nên dễ bị ứ đọng sản phẩm, sâu bệnh phát sinh gây hại nhiều, công tác tuyển
chọn nhân giống chưa được chú trọng dẫn đến sự thoái hoá giống, phẩm chất
ngày càng xuống cấp [4].
Khắc phục những trở ngại trên, phát huy thế mạnh của các tỉnh miền
núi phía Bắc về điều kiện tự nhiên khí hậu để sản xuất hàng hoá quả có múi,
chỉ có thể làm từng bước và bắt đầu từ việc nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật mới, đặc biệt là những tiến bộ kỹ thuật về giống vào những vùng sản
xuất có kinh nghiệm, trên cơ sở đó phát triển ra các vùng khác.
15
16

2.4. MỘT SỐ GIỐNG CAM QUÝT ĐƯỢC TRỒNG Ở VIỆT NAM
2.4.1. Một số giống cam
* Giống cam Valencia
Có nguồn gốc từ Mỹ, cây phân cành ngắn, tán hình cầu hay hình ôvan,
lá gồ ghề, eo lá lớn, có màu xanh đậm, phản quang, cành ít gai, quả to, có
khối lượng trung bình đạt 200 - 500g, hình ôvan, vỏ hơi dày mọng nước, ít sơ
bã, giòn. Quả có từ 9 - 12 múi, tép nhỏ mịn, vàng đậm, nhiều nước, vị ngọt
thanh, thơm, rất thích hợp cho ăn tươi cũng như chế biến nước quả, cây 9 năm
tuổi có chiều cao 4 - 5 m, đường kính tán 3,5 - 4m. Cam Valencia chín muộn
vào tháng 1,2 năm sau và có khả năng giữ quả trên cây tới 2 tháng sau khi quả
đã chín. Năng suất quả cao, trong giai đoạn cho năng suất ổn định, năng suất
đạt từ 8 - 22 tấn/ha. Hiện tại được trồng nhiều ở tỉnh Hòa Bình và Nghệ An.
* Giống cam Xã Đoài
Cam Xã Đoài có nguồn gốc từ xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An. Giống cam này do một thầy tu người Pháp mang quả từ giống cam
Valecia sang Việt Nam vào năm 1880. Người dân địa phương thấy phẩm chất
tốt đã lấy hạt trồng và giống này được nhân ra từ đó. Giống cam này có lá
màu xanh đậm, hình lá thuôn dài, cành có gai, lá đứng, eo lá rộng. Quả có
chất lượng thơm ngon, hương vị thơm ngon nhưng tỷ lệ xơ cao và nhiều hạt
Có 2 dạng quả: quả tròn và dạng quả tròn dài. Dạng quả tròn dài cho năng
suất cao hơn, trọng lượng quả trung bình 180 - 200g. Đây là giống có khả
năng thích ứng khá rộng, chịu hạn tốt, chịu đất tốt đất ven biển. Hiện nay
giống này được trồng phổ biến ở các tỉnh miền núi tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,
Hòa Bình, Hưng Yên [8].
* Giống cam Sông Con
Mang tên con sông xứ Nghệ, giống cam này được tạo ra bằng phương
pháp chọn lọc từ một giống nhập nội. Có thể là do dạng đột biến mầm của
cam Washington Navel. Cây sinh trưởng khỏe, tán hình cầu, phân cành
nhiều, cành ngắn và tập trung. Lá cam bầu, gân phía lưng nổi rõ, hoa màu
xanh bóng có phản quang, hoa bất dục đực 50%. Khối lượng quả trung bình

đạt 200 - 220 g, quả hình cầu, mọng nước, vỏ quả mỏng, ít hạt, ngọt đậm và
16
17
thơm. Cây chiết hoặc cây từ giâm cành sau 3 năm cho quả. Giống cam Sông
Con cho năng suất trung bình có khả năng chống chịu được một số sâu bệnh
và có tính thích ứng rộng nên đã được trồng ở trung du, miền núi, ven biển
và vùng đồng bằng. Cam Sông Con còn được trồng phổ biến khắp các vùng
trong cả nước [8].
* Giống cam Vân Du
Được nhập nội từ những năm của thập kỷ 40 do trạm nghiên cứu cam
Vân Du (Thanh Hóa) chọn lọc. Đây là một trong các giống cam chủ lực của
nước ta, cây phân cành khỏe, tán hình trụ, cành dày, có gai. Lá hơi thuôn,
màu xanh đậm, eo lá hơi to. Quả hình tròn ôvan, vỏ dày, mọng nước, giòn,
ngọt nhiều hạt. Giống cam này cho năng suất khá cao, chống chịu tốt với
một số sâu bệnh hại, chịu hạn và được phổ biến rộng. Được trồng phổ biến ở
các nông trường thuộc các tỉnh miền Trung và phía Bắc [8].
* Giống cam Bù Hà Tĩnh
Được trồng từ lâu ở Hương Sơn - Hà Tĩnh, có nơi gọi là quýt. Có 3
dạng hình chủ yếu:
- Dạng vỏ dày, quả có thành cao, phẩm chất tốt, ăn rất ngon.
- Dạng hoàn toàn giống cam sành nhưng quả có thành cao, vỏ mỏng
hơn, nhiều hạt.
- Dạng có quả hình cầu, chín muộn, vỏ quả đẹp
Cam Bù Hà Tĩnh có tính chống chịu khá, thích nghi với điều kiện khí
hậu, đất đai ở tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và các vùng đồng bằng, Trung du,
miền núi phía bắc. Năng suất ở cây 9 - 10 năm tuổi có thể đạt 35 - 40 tấn/ha.
Nếu trồng ở mật độ 800 - 1200 cây/ha.
* Giống cam Dây (cam Mật)
Phổ biến ở các vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông
Nam Bộ. Cây đạt 5 năm tuổi cao 3 - 4 m, đường kính tán 5 - 6 m, cành ít gai,

gai ngắn, lá xanh đậm có eo nhỏ, cây có thể ra hoa 3 vụ trong năm. Năng
suất có thể đạt 1000 - 1200 quả/cây/năm. Khối lượng quả trung bình đạt 220
- 260 g. Khi cam chín có vỏ màu vàng, thịt quả vàng đậm, ngọt, nhiều hạt,
vỏ quả hơi dày, ít thơm hơn các giống cam trồng ở phía Bắc.
17
18
2.4.2. Một số giống quýt
* Cam Sành (quýt Kinh)
Là loại quýt được trồng phổ biến ở nước ta có tên là cam Sành. Ở miền
Bắc cam Sành mang tên theo từng địa phương trồng như: Cam Sành Bố Hạ
(Hà Bắc), cam Sành Hàm Yên (Tuyên Quang), cam Sành Bắc Quang (Hà
Giang)… lá to, dày, xanh đậm, eo lá to, răng cưa trên mép lá thưa và nông,
hình thức quả không đẹp vỏ dày thô, sần sùi nhưng màu sắc vỏ đẹp, thịt quả
rất đẹp, thơm ngon, chất lượng cao [8].
* Quýt Phủ Quỳ Nghệ An.
Giống này có đặc điểm thân cây dạng thẳng đứng, không có gai, góc
phân cành hẹp. Tán cây hình elip, mật độ cành trung bình, cành dẻo, tán gọn, lá
non có màu xanh nhạt, lá trưởng thành có màu xanh đậm. Hoa đơn và hoa chùm
mọc ở nách lá. Quả có hình cầu dẹt, đáy quả, đỉnh quả lõm khi chín, bề mặt quả
nhẵn bóng. Vỏ quả rất dễ bóc, số quả bình quân trên kg đạt 6 - 6,5 quả/kg. Hạt
có dạng hình nêm dẹt 2 đầu. Quýt Phủ Quỳ cho năng suất cao, phẩm chất khá,
chống chịu sâu bệnh tốt đặc biệt là bệnh Greening, chín muộn vào tháng 1,
tháng 2.
* Quýt Đường (Quýt Xiêm)
Trồng ở các tỉnh phía Nam đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu
long. Cây 5 năm tuổi có thể cho 600 - 1000 quả, khối lượng trung bình đạt
100 - 120 g. Quả hình cầu,vỏ mỏng dai, khi chín có màu vàng tươi, thịt quả
mọng nước, ngọt thơm, ít xơ bã nhưng tương đối nhiều hạt.
* Quýt Tích Giang
Được trồng nhiều ở Hải Dương, Hưng Yên và được gọi là quýt Tiền,

ngày xưa được dùng để tiến vua, giống quýt này được trồng nhiều ở xã
Tích Giang từ đó có tên gọi là quýt Tích Giang. Lá dày, thuôn dài, quả to
đẹp, đường kính quả lớn hơn chiều cao quả, vỏ hạt dày và giòn, thịt quả
mọng nước, nhiều hạt, hạt to, thịt nhiều xơ bã nhưng ngọt đậm.
* Quýt Vỏ vàng Lạng Sơn.
Cây mọc thẳng và cao, phân cành nhiều và nhỏ. Lá giống lá quýt Tích
Giang, nhưng nhỏ và dài hơn, trên lá có nhiều túi hình dầu, mùi thơm đặc
18
19
biệt. Thịt quả mọng nước, vách múi mỏng, ít hạt hương vị thơm ngon, hấp
dẫn, ngọt đậm hơi có vị chua. Tính chống chịu tốt với điều kiện sinh thái cao,
khả năng thích nghi lớn được trồng nhiều ở các tỉnh như: Lạng Sơn, Bắc Cạn,
Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng.
2.5. MỘT SỐ GIỐNG CAM QUÝT ĐƯỢC TRỒNG Ở TUYÊN QUANG
* Cam Sành:
Quả to trung bình 180 - 200g, vỏ dày thô, sần sùi, màu sắc vỏ quả và
thịt quả đẹp, vị quả ngọt đậm, ít xơ, chín muộn vào dịp tết (tháng 12 - tháng 1
trong năm sau).
* Quýt Sen:
Cây sinh trưởng khỏe, năng suất cao, chín sớm, vị ngọt mát, thơm
nhưng xơ bã nhiều, dai, thích hợp trồng để dải vụ.
* Quýt Đỏ Ngọc Hồi:
Sinh trưởng khỏe, năng suất cao, mẫu mã đẹp, quả còn xanh mọng
nước và rất chua. Khi chín vỏ quả chuyển màu đỏ, có vị ngọt đậm.
* Quýt Vàng:
Quả hình cầu hơi dẹt, khi chín vỏ quả màu vàng, giòn, thịt quả mọng
nước, vị ngọt đậm, hơi chua, ít xơ.
* Quýt Chum:
Quả hình quả lê, có núm lồi, vỏ màu vàng da cam, hơi sần sùi, dễ bóc,
vị ngọt, không chua.

2.6. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC CỦA CAM QUÝT
2.6.1. Bộ rễ
Bộ rễ của cam quýt được phát triển theo chiều rộng hay chiều sâu phụ
thuộc vào đặc tính của giống, cách nhân giống (cây gieo hạt, ghép, chiết),
điều kiện đất trồng và chế độ chăm bón, canh tác nhìn chung cam quýt có bộ
rễ ăn nông từ (0 - 30 cm). Theo V.P.Eki nốp (Liên Xô cũ) thì biểu bì của rễ
non có nấm cộng sinh có tác dụng tốt cho cây.
Bộ rễ của cam quýt hoạt động mạnh vào 3 thời kỳ:
- Trước khi ra cành Xuân (từ tháng 2 đến tháng 3).
19
20
- Sau khi rụng quả sinh lý đợt đầu đến lúc cành Hè xuất hiện (từ tháng
6 đến tháng 8).
- Sau khi cành mùa Thu đã sung sức (khoảng tháng 10) (Trần Như Ý,
Đào Thanh Vân, 2000) [7].
Mức độ phát triển theo bề rộng và bề sâu của bộ rễ cam, quýt phụ thuộc
vào các yếu tố như loại đất, độ dày tầng đất mặt, thành phần hoá học của đất,
mực nước ngầm, đặc tính giống, cách nhân giống (cây gieo hạt, chiết hoặc
ghép), kỹ thuật canh tác như chế độ làm đất, bón phân…
Các cây cam, quýt nhân giống bằng hạt và ghép lên gốc ghép gieo hạt
có bộ rễ ăn sâu nhưng phân bố hẹp và có ít rễ hút. Cây chiết và cây giâm cành
có bộ rễ ăn nông nhưng có nhiều rễ hút phân bố nông và tự điều tiết được tầng
sâu phân bố theo sự thay đổi của điều kiện bên ngoài, nhất là mực nước ngầm.
Rễ quýt rất sợ bí chặt, không phát triển được ở những nơi có mực nước
ngầm cao. Quan sát hoạt động của bộ rễ quýt địa phương 20 năm tuổi, cho
thấy trong năm rễ có 3 lần sinh trưởng và có 3 cao điểm, rễ mọc xen kẻ với bộ
phận trên không (cành, mầm). Mùa Xuân rễ thường phát triển ít, lần thứ nhất
trước lúc bắt đầu ra lộc đọt mùa hè, lần thứ hai thường sau đợt đọt lộc hè, lần
thứ ba sau khi đợt đọt mùa thu ngừng sinh trưởng và quả thuần thục.
2.6.2. Thân, cành, lá

* Thân, cành:
Cam quýt có đặc điểm là "tự rụng ngọn" nghĩa là sau khi cành đã phát
triển đến nhất định thì ngừng lại lúc đó ngọn và 1- 2 mầm sẽ rụng đi. Hiện
tượng này xảy ra với các đợt lộc khiến cho cam quýt không có thân chính rõ
rệt, cành lá rậm rạp đây chính là cơ sở cho việc tỉa hàng năm.
- Một năm cam quýt ra nhiều đợt cành:
+ Cành Xuân ra vào tháng 2, 3 là cành mang hoa và quả, cành thường
ngắn, mật độ lá dày thích hợp đẻ lấy mắt ghép, ghép vào mùa Thu.
+ Cành Hè được mọc ra từ cành Xuân cùng năm thường ra vào tháng 5 - 7.
+ Cành Thu: ra vào tháng 8 - 9 phát sinh ra chủ yếu từ cành Xuân và
cành Hè cùng năm.
+ Cành Đông: ra vào tháng 11 - 12 thường sinh ra trên cành quả.
20
21
- Cành cam quýt được phân chia làm 3 loại:
+ Cành quả: tùy giống cam quýt mà cành quả có độ dài từ 3 - 25 cm.
Cành có lá thường có tỷ lệ đậu quả cao hơn cành không có lá. Cành quả
thường sai trong mùa Xuân (trừ một số giống từ thời Chanh Yên, Phật Thủ) vì
tập trung dinh dưỡng nuôi quả quanh năm nên ít nảy lộc. Sau khi thu quả phải
mất một thời gian nhất định tích lũy dinh dưỡng cành quả sẽ trở thành cành
mẹ (Trần Như Ý, Đào Thanh Vân, 2000) [7].
+ Cành mẹ: là cành sinh ra quả có thể là cành Xuân, cành Hè hoặc cành
Thu năm trước. Qua theo dõi cho thấy tùy thuộc giống, thường cành thu
hoạch, cành Hè làm cành mẹ thì số cành nhiều quả và tỷ lệ đậu quả cao hơn.
Người ta có thể chủ động bồi dưỡng cành mẹ để tạo điều kiện cho vụ quả sau.
+ Đây là biện pháp quan trọng để tạo điều kiện cho vụ quả sau.
+ Cành dinh dưỡng: cành không có hoa quả, chỉ có lá, nhiệm vụ chính
của cành dinh dưỡng là quang hợp và tích lũy dinh dưỡng. Thực ra giữa cành
mẹ và cành dinh dưỡng không có giới hạn rõ, năm nay là cành dinh dưỡng,
sang năm có thể là cành mẹ. Khi cây còn nhỏ có thể lợi dụng cành dinh dưỡng

để tạo tán hoặc khi cây già cỗi cần phục tráng cho cây thì cần giữ lại cành này.
Đối với cam quýt vào thời kỳ kinh doanh nên cắt bỏ để tránh cho cây rụng
quả và bớt sâu bệnh.
* Lá:
Theo quan điểm tiến hóa thì cam quýt vẫn có lá kép, dấu vết còn lại là
ra lá dưới gốc lá đơn. Eo lá là một đặc điểm để phân biệt các giống. Tuổi thọ
trung bình của lá cam quýt từ 15 - 24 tháng. Ở Việt Nam lá cam quýt thường
rụng nhiều vào mùa Đông, lá có quan hệ chặt chẽ với số lượng nhất là với
trọng lượng quả. Theo nghiên cứu trên cam Washington Navel (Mỹ) cho thấy:
+ Nếu có 10 lá/quả thì quả nặng 70g.
+ Nếu có 35 lá/quả thì quả nặng 120g.
+ Nếu có 50 lá/quả thì quả nặng 180g (Trần Như Ý, Đào Thanh Vân,
2000) [7].
Vì vậy cần chú ý bảo vệ lá để cây cam quýt có thể có sản lượng cao.
21
22
2.6.3. Hoa quả, hạt
* Hoa: công thức hoa: K
5
C
5
A
(20 - 40)
G
(8 - 15)

Là loại hoa đầy đủ, hoa thường ra đồng thời với cành non và thường ra rõ.
Một cây cam có thể nở tới 60.000 hoa nhưng chỉ có 7% đậu quả là có thể đạt sản
lượng 100 kg/cây. Hoa cam quýt là hoa lưỡng tính, thông thường tỷ lệ đậu quả
của cam quýt dao động trong khoảng 3 - 11%. (Bùi Huy Đáp, 1960) [4].

Hoa cam quýt cơ bản được phân chia làm 2 loại:
Hoa phát dục đầy đủ: hoa có đầy đủ đài hoa, tràng hoa, nhị hoa, nhụy
hoa và bầu hoa.
Hoa dị hình: những hoa có các bộ phận phát triển không đầy đủ những
hoa này ít có khả năng đậu quả.
* Quả: quả cam quýt thuộc loài quả mọng có múi, số múi tùy thuộc vào
loài: cam Bố Hạ có từ 9 - 10 múi, cam Xã Đoài có từ 10 - 13 múi, cam Giấy 8
- 9 múi, quýt Bắc Sơn có từ 10 - 12 múi. Khi còn xanh chứa nhiều acit đến
khi chín lượng acit giảm, hàm lượng đường và chất tan tăng lên.
Cấu tạo quả gồm 2 phần : vỏ ngoài và vỏ giữa.
Phần vỏ ngoài: gồm lớp biểu bì trên là: biểu bì của tử phong do các tế
bào có chất sừng dày hình thành xen kẽ có các khí khổng.
Phần vỏ giữa gồm 2 lớp: lớp sắc tố và lớp trắng.
+ Lớp sắc tố do mấy chục tầng tế bào chứa nhiều sắc tố hợp thành một
lớp mỏng. Khi quả còn xanh nhờ diệp lục mà quả có thể quang hợp được. Khi
quả già và chín thì quả có màu vàng hoặc đỏ.
+ Lớp trắng dưới lớp sắc tố là lớp trắng (lớp cùi) lớp này có thể màu
trắng, màu vàng hoặc hồng nhạt, độ dày của lớp trắng thay đổi tùy giống.
Sự phát triển của quả trái qua hai đợt rụng quả sinh lý:
Đợt 1: sau khi ra hoa khoảng 1 tháng (tháng 3 - tháng 4) quả còn nhỏ
khi rụng mang theo cả cuống.
Đợt 2: quả đạt đường kính 3 - 4 cm (vào cuối tháng 4) khi quả rụng
không mang theo cuống. Sau 2 đợt rụng quả tốc độ quả lớn nhanh, tốc độ
trung bình từ 0,5 - 0,7 mm/ngày.
22
23
Quả lớn nhanh do có sự kích thích của các chất sinh trưởng, chất này
được tạo từ vách tử phòng hoặc từ hạt. Việc bổ sung thêm chất kích thích sinh
trưởng như NAA, IAA, GA3 có thể sẽ nâng cao tỷ lệ đậu quả, giảm số lượng
hạt và tăng kích thước quả.

* Hạt:
Tùy theo giống mà có sự khác nhau về kích thước, số lượng màu sắc và
phôi hạt, các loại quả có múi phần lớn là hạt đa phôi, riêng bưởi là hạt đơn
phôi (Trần Như Ý, Đào Thanh Vân, 2000) [8].
2.6.4. Lộc
Trong điều kiện khí hậu nước ta cây cam, quýt thường ra 3 - 4 đợt lộc
trong 1 năm.
Lộc Xuân: ra từ cuối tháng 2 đầu tháng 3, nếu thời tiết ấm lộc Xuân có
thể ra sớm hơn từ đầu tháng 1. Ở các tỉnh phía bắc 50 - 60% lộc Xuân tạo
thành cành hoa, cành quả tỉ lệ này thay đổi tùy thuộc vào từng giống, theo
điều kiện ngoại cảnh và tùy thuộc vào mức độ thâm canh.
Lộc Hè: xuất hiện từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7, lộc Hè ra sớm hay
muộn, nhiều hay ít tủy thuộc vào từng giống cây, điều kiện ngoại cảnh và
trình độ thâm canh.
Lộc Thu: xuất hiện từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9. Người ta có thể
nhìn vào lộc Hè và lộc Thu mà dự đoán được năng suất quả của năm sau.
Lộc Đông: là đốt lộc thường hình thành ở các cây non và hiện tượng
này thường chỉ xuất hiện trên cây ăn quả có múi như cam quýt. Ở các tỉnh
phía Bắc nước ta đợt lộc này thường chiếm tỷ lệ ít (khoảng 54%) và ra vào
tháng 11-12.
Những cây sống lâu năm và những cây trưởng thành mà năm trước ra
nhiều quả thì vào mùa Hè, mùa Thu, mùa Đông rất ít ra lộc hoặc không ra lộc,
quýt ra lộc muộn hơn cam từ 10 - 20 ngày, trên mặt cây quýt thường có nhiều
cấp cành và được phân bố theo kiểu hợp trục do hiện tượng rụng ngọn (hiện
tượng tự hủy).
23
24
2.6.5. Các thời kỳ sinh trưởng và phát dục của cam, quýt
2.6.5.1. Thời kỳ kiến thiết cơ bản
Giai đoạn này cây chủ yếu sinh trưởng dinh dưỡng, cây phát triển thân

cành liên tục trong năm, cành sinh trưởng mạnh, to khỏe, số lượng cành nhiều
trong mỗi đợt ra cành, bộ rễ phát triển mạnh nên cây phát triển rất nhanh.
2.6.5.2. Thời kỳ đầu kinh doanh
Cây cần tiếp tục sinh trưởng dinh dưỡng, cành vẫn ra nhiều tuy nhiên
số lần ra trong năm giảm từ 3 - 4 lần, số lượng cành ít hơn, cành ngắn và ít,
bộ rễ phát triển rất khỏe, số cành ra quả tăng dần. Thời kỳ này xảy ra sự mất
cân đối giữa sinh trưởng tán cây và bộ rễ, cây vẫn sinh trưởng sinh dưỡng
mạnh đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng nuôi tán cây và quả vì không đủ dinh
dưỡng nên rễ phát triển ra khỏi mô trồng và đi xuống tầng đất, rễ chật làm ảnh
hưởng đến khả năng sinh trưởng của rễ đồng thời cũng xảy ra sự mất cân đối
giữa sinh trưởng dinh dưỡng và hoa, có thể cây chậm ra hoa cho quả hoặc trên
những cây sinh trưởng dinh dưỡng kém, cây có khuynh hướng ra hoa nhiều
ảnh hưởng đến sinh trưởng thân tán của cây.
2.6.5.3. Thời kỳ khai thác
Cây ở giai đoạn thuần thục, tán cây đã ổn định, sinh trưởng kém cành
nhỏ, ngắn, ít lá, chủ yếu là cành mang quả, số lần ra cành trong năm (ít 1 - 2
lần). Thời kì này thường xảy ra hiện tượng cây giao tán và sản lượng không
ổn định do có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa sinh trưởng dinh dưỡng và sự
cung cấp dinh dưỡng cho quả, cành lá ra quả nhiều làm cây giao tán rậm ra,
quang hợp không hiệu quả, chất hữu cơ tạo ra không đủ dự trữ để tiến hành
phân hóa mầm hoa, dinh dưỡng không đủ để cung cấp cho hoa phát triển cũng
như để nuôi quả khi đậu.
2.6.5.4. Thời kỳ già cỗi
Cây sinh trưởng dinh dưỡng kém, cành lá phát triển ít, nhỏ, lá ít, tán lá
thưa, cành một phát triển nhiều, cây ra hoa và đậu quả thấp, quả nhỏ, rụng
nhiều, năng suất thấp.
24
25
Chu kỳ sinh trưởng của cam, quýt gồm các thời kỳ phát triển căn bản,
thời kỳ trước là nền tảng cho thời kỳ sau phát triển do vậy cần ứng dụng đồng

loạt nhiều biện pháp kỹ thuật để thúc đẩy cây sinh trưởng, phát triển tốt.
2.7. YÊU CẦU NGOẠI CẢNH CỦA CAM QUÝT
2.7.1. Nhiệt độ
Cây cam quýt có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới nóng ẩm, vì vậy chúng ưa
khí hậu ấm, nhưng do có phạm vi phân bố rộng, cho nên một số loài chịu được
nhiệt độ thấp. Phần lớn cam quýt sinh trưởng trong phạm vi nhiệt độ 12 - 39
0
C.
Những giống thích ứng với điều kiện nhiệt độ thấp thường có phẩm vị ngon,
hấp dẫn, mã quả đẹp. Ở nhiệt độ 40
0
C với thời gian kéo dài nhiều ngày, cây
ngừng sinh trưởng, lá rụng, cành bị khô héo. Tuy vậy, có những giống chỉ bị
hại khi nhiệt độ không khí lên đến 50 - 57
0
C (Đường Hồng Dật, 2003) [2].
Nhìn chung những vùng có nhiệt độ bình quân hàng năm > 17
0
C có thể trồng
cam quýt. Ở Việt Nam trừ một số vùng có sương muối kéo dài, còn các vùng
khác đều có thể phù hợp với cây cam (Trần Như Ý, Đào Thanh Vân, 2000) [8].
+ Theo Vũ Công Hậu (1996) [5]. Tuổi thọ của các cây có múi thường
cao, đặc biệt ở những nới khí hậu ôn hoà, đất tốt nhưng có đọ dốc thoát nước
tốt. Trong nước ở miền núi không hiếm những cây bưởi sống tới 40-50 năm. Ở
các vườn cam vùng á nhiệt đới, hoặc nhiệt đới nhưng trồng đúng kỹ thuật, chọn
địa điểm thích hợp, tuổi thọ vườn cam là 30-40 năm, tối đa tới 50-60 năm.
- Nhiệt độ: do cây cam có nguồn gốc vùng á nhiệt đới do vậy chúng
không chịu được nhiệt ở độ quá thấp hoặc quá cao, nói chung chịu nóng tốt
hơn chịu lạnh.
Nhìn chung những vùng có nhiệt độ bình quân hàng năm ≥ 17

0
C đều có
thể trồng được cây cam.
Ở Việt nam trừ một số vùng có sương muối kéo dài, còn các vùng khác
đều có thể phù hợp và trồng được cây cam.
- Ẩm độ và nước: cây cam là cây ưa độ ẩm trung bình, nhưng nước cần
trong suốt thời kỳ sinh trưởng và phát triển của chúng, cần nhiều nhất trong
thời kỳ lúc hạt nay mầm và lúc ra hoa kết quả, tối thiểu phải đạt 1270mm/năm.
25

×