Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.48 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC
QUỐC
GIA HÀ NỘI
KHOA
LUẬT
KHOA LUẬT

NGUYỄN TIẾN DŨNG
NGUYỄN TIẾN DŨNG

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT
THỰC TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC
TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành:Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự

Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DŨNG

HÀ NỘI - 2014

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Nội dungcủa luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong công trình khoa học nào.

Tác giả luận văn

Nguyễn Tiến Dũng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...............................................................................................
MỤC LỤC ...........................................................................................................
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT ...........................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG..................................................................................
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................ 9
1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................... 9
1.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985................................. 9
1.1.2. Từ năm 1986 đến trước khi sửa đổi tồn diện Bộ luật hình sự vào
năm 1999 .....................................................................................................................12
1.1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi toàn diện vào
năm 1999 ....................................................................................................................18
1.1.4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009...........21
1.2. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH ..... 22
1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................................22
1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ......................................24

1.3. PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ
TỘI PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN ............................................................ 36
1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự) ......................................................................37
1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng (Điều
162 Bộ luật hình sự) .....................................................................................................38


1.3.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội đánh bạc (Điều 248 Bộ luật
hình sự)..........................................................................................................................39
1.3.4. Phân biệt tội lừa đảo với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng,
mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b) .40
Chƣơng 2:TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC
TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH NAM ĐỊNH ......................................... 42
2.1. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN TRONG BLHS 1999 (SỬA ĐỔI NĂM 2009) ...................................... 42
2.1.1. Khung cơ bản (Khoản 1 Điều 139)..................................................................43
2.1.2. Khung tăng nặng thứ nhất (Khoản 2 Điều 139) .............................................43
2.1.3. Khung tăng nặng thứ hai (Khoản 3 Điều 139)................................................47
2.1.4. Khung tăng nặng thứ ba (Khoản 4 Điều 139).................................................48
2.1.5. Hình phạt bổ sung ..............................................................................................50
2.1.6. Các biện pháp tư pháp .......................................................................................50
2.1.7. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những
trường hợp đặc biệt ......................................................................................................51
2.2. THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ................................ 54
2.2.1. Những đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam định có ảnh hưởng
đến tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản ....................................................54

2.2.2. Kết quả điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Nam Định từ năm 2008 đến năm 2012 ..............................................................58
2.2.3. Một số đặc điểm của loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Nam Định ..............................................................................................................61
2.2.4. Một số đặc điểm liên quan đến chủ thể tội phạm ...........................................65


2.2.5. Địa bàn hoạt động ..............................................................................................67
Chƣơng 3:MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HỒN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM
ĐỊNH .............................................................................................................. 69
3.1. MỘT SỐ BẤT CẬP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Ở TỈNH NAM ĐỊNH.... 69
3.1.1. Một số bất cập của Bộ luật hình sự ..................................................................69
3.1.2 Những bất cập xuất phát từ hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.....72
3.1.3. Những bất cập xuất phát từ việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật ...............74
3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH. ................. 75
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS ................................................................75
3.2.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ của các cơ
quan tố tụng trên địa bàn tỉnh Nam Định về xử lý tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản............................................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT


BLHS

:

Bộ Luật Hình sự

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

TAND

:

Tòa án nhân dân

TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

:

Viện kiểm sát nhân dân

HĐTP

:

Hội đồng thẩm phán

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: So sánh thực trạng tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Nam Định................................58
Bảng 2.2: Thực trạng khởi tố, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Nam Định.................................................................................................59
Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản từ năm 2008 - 2012 trên địa bàn tỉnh Nam Định..............................................600
Bảng 2.4: Bảng thống kê đặc điểm chủ thể tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Nam Định .......................................................................................................66
Bảng 2.5: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................67



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan
trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác
nhau, Nhà nước đều sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản
hợp pháp của con người và hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người
đều bị áp dụng những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: Trách
nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay
điều tra, truy tố, xét xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu
ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi hành vi xâm phạm
quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp dụng đối với người phạm tội
một hình phạt, Nhà nước ln thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng
đối với loại hành vi này.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước
ta đã ban hành Hiến pháp và các đạo luật khác để ghi nhận, bảo vệ quyền sở
hữu hợp pháp của cơng dân, trong đó các quy định của pháp luật hình sự giữ
vai trị quan trọng. Theo cách hiểu hiện nay "Quyền sở hữu là một hệ thống
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản
xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định của pháp luật" [37].
Như vậy sau quyền được sống, quyền được tự do thì quyền sở hữu có một vai
trị to lớn đối với đời sống con người. Tiếp theo các văn bản pháp lý trước đó,
Hiến pháp 1992 - văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất đều ghi nhận:
Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ

1



cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,
trong đó sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể là nền tảng [14].
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự đã giành hẳn
một chương quy định các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật hình
sự) gồm từ Điều 133 đến Điều 145 trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Trước đó, trong Bộ luật hình sự
1985, vì đề cao sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước nên các nhà lập pháp thời kỳ
này đã tách thành hai chương riêng: Chương các tội xâm phạm tài sản sở hữu
xã hội chủ nghĩa và chương các tội xâm phạm sở hữu của công dân với các
đặc điểm pháp lý hành vi khơng có gì khác nhau, có chăng chỉ khác nhau về
khách thể bảo vệ là quan hệ sở hữu XHCN hay quan hệ sở hữ tư nhân. Chính
sách hình sự khác nhau dẫn đến mức hình phạt áp dụng khác nhau và có một
vài tình tiết định khung tăng nặng khác nhau.
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quyền sở hữu là một quyền thiêng
liêng và được hiến định. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh hoặc vì lợi ích
quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường [22].
Cụ thể hóa nội dung và tinh thần này của Hiến pháp, các quy định của
Bộ luật hình sự về bảo vệ quyền sở hữu của con người được nghiên cứu, bổ
sung, trong đó có tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phịng chống tội phạm trong tình hình mới.


2


Nghiên cứu diễn biến tội phạm trong những năm vừa qua, trên phạm vi
tồn quốc, có thể thấy rằng nhóm các tội xâm phạm sở hữu thuộc loại tội
phạm có diễn biến rất phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở hai điểm: số vụ
liên tục tăng và mức độ nguy hiểm cũng ngày càng nghiêm trọng. Hành vi phạm
tội xâm phạm sở hữu đã gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, của
tổ chức và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội.
Trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu có mức độ xảy ra nhiều nhất, tội này diễn biến ngày một gia tăng, với
nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt.
Trên địa bàn tỉnh Nam Định, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội
phạm xâm phạm đến sở hữu trong những năm vừa qua cho thấy loại tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm một số lượng đáng kể trong tổng số các
tội phạm hàng năm. Có nhiều ngun nhân để giải thích cho tình trạng
nghiêm trọng của tội phạm này, tuy nhiên việc nghiên cứu làm rõ các đặc
điểm của tội phạm này trên phạm vi một địa bàn cụ thể được xác định (thông
qua việc nghiên cứu đặc điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm dân cư, tính chất địa
bàn) sẽ giúp chúng ta lý giải phần nào tính đặc thù của loại tội phạm này trên
địa bàn tỉnh Nam Định qua đó giúp chúng ta có thể đưa ra các đề xuất nhằm
hồn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng.
Là một cán bộ công tác trong ngành bảo vệ pháp luật, tác giả lựa chọn
đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Việc nghiên cứu
dấu hiệu pháp lý của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và các
biểu hiện cụ thể của nó tại Nam Định để từ đó đề ra những biện pháp hoàn
thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần


3


thiết. Vì lý do đó tác giả đã chọn đề tài "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
Luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh
Nam Định"làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
Cũng cần nói thêm rằng, vì đặt trọng tâm nghiên cứu thực trạng tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên một địa bàn cụ thể, nên tác giả khơng có
điều kiện nghiên cứu xun suốt q trình lập pháp hình sự Việt Nam về loại
tội phạm này trong suốt quá trình phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam,
mà chỉ cố gắng tập trung nghiên cứu quá trình phát triển pháp luật hình sự
Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập trong một số cơng
trình nghiên cứu khoa học về luật hình sự, trong các tập bình luận khoa học
về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả nổi tiếng như TS
Trịnh Hồng Dương, GS.TS Võ Khánh Vinh, Ths Trần Thị Phương Hiền và gần
đây là khóa luận tốt nghiệp của Lê Thị Khánh Ly tại Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội. Ngồi ra, có thể kể đến các bài viết nghiên cứu của tiến sỹ Lê Đăng
Doanh (Đại học Luật Hà Nội) bàn về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong BLHS, trong đó tác giả đã so sánh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với tội lừa dối khách hàng, cũng như phân tích sâu sắc tính chất pháp lý của
hành vi dùng thủ đoạn lừa dối, lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá
trị gia tăng…
Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các tác giả đã đề cập khá sâu sắc
và toàn diện về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này; phân biệt rõ các
trường hợp phạm tội này với một số tội phạm khác có chung đặc điểm là dấu
hiệu lừa dối, tuy nhiên chưa có cơng trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong mối liên hệ với một địa bàn cụ thể là tỉnh Nam Định,

nhất là trong bối cảnh là một tỉnh đan xen dân cư nông thôn và thành thị. Sự

4


đình đốn trong sản xuất cơng nghiệp, tình trạng thất nghiệp, tình trạng di dân
tự do, tình trạng yếu kém trong việc quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước
trong hoạt động tổ chức xuất khẩu lao động, trong hoạt động cho vay tín
dụng, sự lơ là thiếu cảnh giác của một bộ phận không nhỏ người dân....luôn là
vấn đề nổi cộm và là một trong những nguyên nhân làm cho loại tội phạm này
gia tăng.
Trên thực tế Nam Định tuy là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc Bộ,
song cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế
hiện nay, tình hình tội phạm lừa đảo có những diễn biến phức tạp và xu hướng
ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, hậu quả thiệt hại về tài
sản ngày càng trầm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của tỉnh Nam Định.
Bởi vậy, luận văn nghiên cứu về: các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản; so sánh sự khác biệt của tội phạm này và các tội phạm khác có cùng
tính chất; nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia có
những nét tương đồng về truyền thống lập pháp với Việt Nam; nghiên cứu thực
trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở Nam Định. Trên cơ sở đó, đề xuất
các giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự đồng thời đưa ra các biện
pháp nâng cao nhận thức và hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
của các cơ quan tiến hành tố tụng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm giảm
bớt những thiệt hại xảy ra,đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người
dân trên địa bàn tỉnh Nam Định.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự và thực trạng tình hình, các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định để đưa ra các các đề xuấthoàn

thiện BLHS về loại tội phạm này, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

5


- Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt
ra cho mình các nhiệm vụ sau đây:
a) Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ khi Cách
mạng tháng 8 thành cơng đến nay, qua đó để có một cách nhìn khái quát về
quá trình phát triển của quy định này, phục vụ cho các đề xuất sửa đổi, bổ
sung tội phạm này và các tội phạm khác có liên quan.
b) Phân tích và làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đồng thời
phân tích và so sánh các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này với một số tội
phạm khác có liên quan như: tội lừa dối khách hàng, tội đánh bạc…để làm rõ
thêm cách nhận biết các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này.
c) Phân tích thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử loại tội này tại tỉnh
Nam Định trong thời gian vừa qua để thấy được các yếu tố tác động làm ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác này trong thời gian vừa qua.
d) Phân tích những đặc điểm đặc thù của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên cơ sở gắn với đặc điểm của tỉnh Nam Định đồng thời chỉ ra những
vướng mắc, hạn chế trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này tại tỉnh
Nam Định.
đ) Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
qua đó góp phần đấu tranh có hiệu quả hơn đối với loại hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích thực trạng và diễn biến của tội phạm để
rút ra những điểm thành cơng cũng như thiếu sót trong việc áp dụng các quy

6


định của BLHS và BLTTHS trên địa bàn tỉnh Nam Định, phân tích nguyên
nhân, đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS và nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa
bàn tỉnh Nam Định
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích
và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngồi ra, cịn một số phương pháp khác cũng
được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia...
6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài
Trong phạm vi của đề tài là một cơng trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa
về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng,
chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hồn thiện nội dung quy định của
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Ngồi ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng

tham gia phịng, chống loại tội phạm này khơng những ở tỉnh Nam Định mà
cịn có thể áp dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự.
- Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống và tồn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng thời đã đưa ra các

7


giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố và xét xử đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2:Trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong BLHS hiện hành và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Nam Định.

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Bảo vệ quyền sở hữu của các nhân, tổ chức chống lại các hành vi xâm
hại là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam kể từ khi giành được

Chính quyền. Do đó, chỉ sau một thời gian ngắn, mặc dù bận nhiều cơng việc
nhưng Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật để nghiêm trị các hành vi này.
1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Từ năm 1945 đến trƣớc khi ra đời Bộ luật hình sự 1985
Sau thành cơng của Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước ta đã ban
hành những văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa như:
Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946 về các tội phá hoại công sản;
Sắc lệnh số 223-SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ công quỹ;
Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1949 về tội trộm cắp tài sản quốc phòng
trong thời chiến;
Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949 về bảo vệ các cơng trình thủy nông;
Sắc lệnh 267-SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá
hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc
chính sách, kế hoạch Nhà nước…
Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng quan tâm tới việc bảo vệ các tài sản
riêng của công dân bằng việc ban hành Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955
của Thủ tướng Chính phủ về một số tội phạm. Trong đó có đề cập tới tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên mới nêu tội danh mà chưa mô tả được cụ thể
hành vi phạm tội [31]. Do yêu cầu khách quan và nhằm tăng cường pháp chế

9


xã hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo vệ có hiệu quả tài sản xã hội chủ nghĩa và
cơng dân. Tịa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc
vận dụng các quy phạm pháp luật vào công tác xét xử, ngày 21/10/1970 Nhà

nước ta đã thông qua hai pháp lệnh mới.
- Pháp lệnh thứ nhất là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước
công bố.
- Pháp lệnh thứ hai là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước
công bố.
Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm xâm
phạm sở hữu. Trong cả hai pháp lệnh này hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
cũng được quy định với hai tội danh cụ thể tương ứng với hai hình thức sở
hữu được quy định lúc đó là sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và sở hữu tài sản
riêng của công dân.
Về cơ bản hai tội trên đều có hành vi giống nhau đó là hành vi gian
dối chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn gian dối có thể
bằng cách dùng mọi mánh khóe, bịp bợm, bằng lời nói, giả mạo giấy tờ, giả
danh cán bộ, giả mạo tổ chức,... Làm cho người quản lý tài sản tin mà giao
nhầm tài sản đó cho người phạm tội
Với những hành vi có cùng tính chất nhưng lại tác động lên đối tượng
là hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công
dân nên được quy định thành hai tội khác nhau trong hai pháp lệnh. Tuy nhiên
ở pháp lệnh thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa coi lừa
đảo là một số hành vi gian dối cụ thể của những người trong khi giao dịch,
mua bán với cơ quan nhà nước hay hợp tác xã đã cố ý dùng mánh khóe gian
lận thơng thường như cân, đo, đong, đếm, tính sai hoặc bằng cách khác để

10


chiếm đoạt tài sản của cơ quan nhà nước hoặc hợp tác xã mà mình giao dịch.
Cịn ở pháp lệnh thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân chỉ

quy định tôi phạm một cách chung chung: "kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối để
chiếm đoạt tài sản riêng của công dân…" trong khi những hành vi gian lận
bằng cách: cân, đo, đong, đếm, tính gian, khơng chấp hành chính sách giá cả
đã quy định, đánh tráo hàng…" được tách ra khỏi tội lừa đảo để quy định
thành một tội riêng tại Điều 10 Pháp lệnh là "Tội gian lận để chiếm đoạt tài
sản riêng của khách hàng".
Sau ngày 30/4/1975 thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành
thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở
hữu. Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành
Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt.
Tại Điểm b, Điều 4 Sắc luật số 03-SL/76 quy định như sau: Phạm các
tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp, tham ơ, lừa đảo, bội tín, cướp giật,
cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường
hợp nghiêm trọng thì thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô,
lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng,
hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung
thân hoặc tử hình.
Điều 8 Sắc luật 03-Sl/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng
của công dân như sau:
Phạm tội cướp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 2 năm đến
12 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, từ chung thân
hoặc tử hình.
Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội tín, cướp
giật, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp
nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm.

11


Như vậy, ở thời điểm này trên hai miề n Nam , Bắc tồn tại hai loại văn

bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó
là: Hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976.
Nội dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối
xử lý. Tuy nhiên so với các pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu
tên tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm.
Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối
cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật
đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thống nhất như sau:
Ở miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp
dụng Sắc luật số 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp
lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các
hình phạt hợp lý hơn.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có
hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản
được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh
khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì
vậy cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để
đảm bảo tính thống nhất [24]. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày
01/1/1986 đã ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
1.1.2. Từ năm 1986 đến trƣớc khi sửa đổi tồn diện Bộ luật hình sự
vào năm 1999
Ngày 27/6/1985 Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khóa VI ban hành
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1986 đã khắc phục được tình trạng các
văn bản pháp luật chồng chéo, khơng thống nhất trước đó. Tăng cường được

12



tính pháp chế, đồng thời bảo vệ được quyền tài sản của cơng dân. Sự ra đời
của Bộ luật hình sự là sự pháp điển hóa các quy định về tội phạm và hình phạt
từ năm 1945 đến năm 1985.
Qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự thời kỳ này về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng tôi nhận thấy, loại tội phạm này được phát
triển theo hướng: tiếp tục có sự ghi nhận và có sự phân biệt giữa quan hệ sở
hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của cơng dân; mức hình phạt ngày càng
được tăng nặng cho phù hợp với tình hình tội phạm và các dấu hiệu pháp lý
và các tình tiết định khung tăng nặng ngày càng được hồn thiện hơn.
* Tiếp tục đề cao chính sách hình sự bảo vệ tốt hơn quan hệ sở hữu xã
hội chủ nghĩa
Theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 thì tội xâm phạm sở hữu có
kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó. Do đề cao sở hữu nhà
Nước và tập thể, chưa thật sự coi trọng đến sở hữu tư nhân nên trong giai
đoạn này hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước luôn được coi là nghiêm trọng hơn
xâm hại sở hữu tư nhân nên được các nhà lập pháp lúc bấy giờ quy định ở hai
chương khác nhau. Cụ thể: Chương IV là các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ
nghĩa và chương V là các tội xâm phạm sở hữu công dân. Có sự quy định như
vậy là vì Bộ luật hình sự 1985 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta lúc đó
chỉ có hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Được
quản lý và điều hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thống nhất từ trung
ương đến cơ sở. Trên cơ sở kế thừa quy định của hai pháp lệnh ngày 21/10/1970
thì vẫn được quy định là hai tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa"
và tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân" cụ thể như sau:
Điều 134: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa
thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

13



2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 10 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân [15].
Điều 157: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác
thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02
năm đến 10 năm:
a. Có tổ chức
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 7 năm
đến 15 năm [15].
* Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm ngày càng được bổ sung hoàn
thiện hơn
So với các điều luật tương ứng của các văn bản pháp luật trước năm
1985, Điều 134 Bộ luật hình sự 1985 đã có hai thay đổi quan trọng đó là Bộ
luật hình sự quy định rõ ràng hơn dấu hiệu khách quan của hành vi phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, có thể nói sự sơ hở
trong cơng tác quản lý kinh tế cũng như một số khuyết điểm về kỹ thuật lập
pháp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tội phạm kinh tế và các tội xâm phạm

14



sở hữu nảy sinh và phát triển. Để đáp ứng u cầu của cơng cuộc đấu tranh
phịng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng,
liên tiếp trong 04 năm, 1990, 1991, 1993 và 1997, Bộ luật hình sự 1985 đã
được sửa đổi bổ sung, trong đó có 02 lần sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện
một bước các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này khi đất nước đang bắt
đầu chuyển mình từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cụ thể:
Lần sửa đổi thứ nhất năm 1990 có bổ sung vào Điểm a khoản 2 Điều 134
và Điều 157 ngồi quy định "có tổ chức" cịn thêm tình tiết "hoặc có tính chất
chun nghiệp". Do đó Điểm a Khoản 2 Điều 134 và Điều 157 được quy định
như sau: "Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp".
Lần sửa đổi thứ hai, năm 1993. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm cho thấy, nhiều tội phạm đã thực hiện hành vi phạm tội thông
qua việc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để dễ dàng tạo được niềm tin
đối với nạn nhân, đồng thời trong nền kinh tế thị trường, nhiều trường hợp
hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (lớn hơn rất nhiều
lần so với những dự liệu ban đầu của các nhà lập pháp, do đó năm 1993 có sự
sửa đổi, bổ sung vào khoản 2 Điều 134 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã
hội chủ nghĩa thêm tình tiết định khung tăng nặng là: Lợi dụng danh nghĩa
cơ quan, tổ chức;gây hậu quả nghiêm trọng.cụ thể như sau:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức
b. Có tính chất chuyên nghiệp
c. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
e. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
f. Gây hậu quả nghiêm trọng


15


g. Tái phạm nguy hiểm [17].
Trong lần sửa đổi năm 1997, Bộ luật hình sự đã bổ sung thêm một
điều (Điều 134 a) quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm
đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa cụ thể như sau:
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn dùng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới một
trăm triệu đồng hoặc dưới năm triệu đồng nhưng gây hậu qủa nghiêm trọng, vi
phạm nhiều lần hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a. Có tổ chức
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
c. Tài sản có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng
d. Phạm tội nhiều lần
e. Gây hậu quả nghiêm trọng
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm:
a. Tài sản có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
b. Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này.
c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù chung
thân hoặc tử hình:
a. Tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.
b. Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này.
c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng [18].
* Mức hình phạt áp dụng ngày càng có xu hướng nghiêm khắc hơn


16


Qua nghiên cứu cho thấy, so với các điều luật tương ứng của các văn
bản pháp luật trước năm 1985 mặc dù Điều 134 Bộ luật hình sự bỏ hình phạt
tử hình áp dụng đối với người phạm tội ngay cả trong những trường hợp đặc
biệt nguy hiểm. Tuy nhiên, giai đoạn giữa những năm 80 của thế kỷ trước,
nướcta có những bước phát triển lớn trong lĩnh vực kinh tế. Quá trình chuyển đổi
từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu đảm
bảo sự bình đẳng tham gia của các thành phần kinh tế. Ngoài kinh tế nhà nước
vẫn giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác như: kinh tế tư nhân, hợp
tác xã, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng dần được thừa nhận
và ngày càng chiếm một vị trí quan trọng hơn trong đời sống kinh tế, do đó,
ngay lần sửa đổi đầu tiên vào năm 1991, các nhà lập pháp hình sự Việt Nam
đã nâng mức hình phạt tối đa lên tử hình. Cụ thể: Khoản 3 Điều 134 tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa: "Phạm tội trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình" [16].
Đối với tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 157) trong
lần sửa đổi đầu tiên, các nhà lập pháp hình sự đã tăng mức hình phạt cao nhất
đối với tội này từ 10 năm đến 15 năm áp dụng trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng. Tuy vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, năm 1991 hình phạt tử
hình lại được áp dụng. Khoản 3 Điều 157 như sau:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác
thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm

c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn

17


d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 10
năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình [16].
Như vậy Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 1991 khi quy định hình
phạt cho hai tội trên đều cùng quy định hình phạt cao nhất là tử hình.
1.1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi tồn diện vào
năm 1999
Do chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu
khác nhau, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Để làm được điều này, Nhà
nước chủ trường, thông qua hệ thống pháp luật bảo đảm là các thành phần
kinh tế được đối xử và bảo vệ ngang bằng trước pháp luật. Do đó, việc chia
hai nhóm tội xâm hại quan hệ sở hữu tỏ ra khơng cịn phù hợp vì điều này
không phù hợp với bản chất của kinh tế thị trường - địi hỏi một sự đối sử
bình đẳng của các thành phần kinh tế cùng tham gia vào q trình kinh tế.
Trước tình hình đó, Bộ luật hình sự 1985 mặc dù đã qua 4 lần sửa đổi, bổ
sung vẫn duy trì hai chương về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và
các tội xâm phạm tài sản của công dân. Mặt khác, sự quy định hai nhóm tội
xâm phạm đến hai loại quan hệ sở hữu khác nhau đã nảy sinh ra những bất
cập. Trong nhiều trường hợp, người phạm tội chỉ quan tâm đến tài sản và giá
trị tài sản mà không quan tâm đến nguồn gốc tài sản thuộc sở hữu nào, nên
gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng khi xác định tội danh cho đối với người
phạm tội. Quan niệm về định tội danh theo ý thức chủ quan của người phạm
tội, tuy giải quyết được một phần các vấn đề trước mắt là đáp ứng yêu cầu coi

trọng bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, nhưng rõ ràng khơng đảm bảo tính
khoa học, nhất là trong trường hợp không xác định được rõ ý thức chủ quan

18


×