Di sàn Vân hỏa Phi vột thể Vĩnh Phúc
THỤC TDẠNG VẢ GIAI PHÁP ồ Ả O t ồ n PHẢT huy
DI & k VĂN HÓA PHI VẬT THỂ v ĩn h p h ú c
Đánh giá thực trạng
Việc đánh giá thực trạng dựa trên những quan điểm và
những tiêu chí nhất định. Đôi với việc đánh giá các di sản văn
hố nói chung, di sản văn hố phi vật thể tiêu biểu nói riêng, có
thể có những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Điều
này phụ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử nhất định, đồng thời
cũng phụ thuộc vào những quan điểm và tiêu chí xã hội nhất
định được thể hiện cụ thể ở những người đánh giá.
Dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc và quan điểm của
UNESCO về vấn đề này để đánh giá thực trạng di sản văn hóa
phi vật thể ở Vĩnh Phúc. Từ đó đưa ra tiêu chí đánh giá:
- Số lượng các hình thái vãn hố phi vật thể: càng nhiều
càng tốt.
- Chất lượng: hình thái văn hoá phi vật thể nào càng phản
ảnh được các giá trị cổ truyền dân tộc càng được đánh giá cao
(ở đây tạm gác những tiêu chí khơng thuần văn hóa hoặc cịn
đang tranh cãi. Ví dụ: những vấn đề về mê tín dị đoan hay tín
ngưỡng, truyền thống hay hủ tục, tiến bộ hay lạc hậu).
L ễ hội
+ Các lễ hội ở Vĩnh Phúc hầu hết đều gắn liền với ngày
sinh, ngày hố của các thành hồng làng (nhân thần và thiên
61
Di sỏn Ván hòa Phi vồ t thể Vĩnh Phúc
thần), ngồi ra cũng có những ngày lễ hội gắn với lễ hạ điền,
tiệc khai xuân, khánh hạ, tiệc cầu đinh, giỗ tổ nghề...
+ Quy mỏ tổ chức lễ hội: thông thường là quy mơ làng,
nhưng cũng có lễ hội diễn ra theo quy mô nhiều làng cùng
tham gia (hàng tổng trước kia).
+ Số lượng lễ hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc tương đối
nhiều chiếm 64.4% trên toàn tỉnh. Đây là tài sản quý giá của
vãn hoá phi vật thể ớ Vĩnh Phúc. Tuv nhiên, số lượng lễ hội đạt
loại * so với tổng sô' lễ hội trên địa bàn cịn q ít. Lễ hội loại
D cịn rất nhiều. Trước kia, phần lớn các lễ hội đều tổ chức tế
và rước linh đình, trải qua thời gian do điều kiện vật chất: kiệu
bị mất, thiếu kinh phí... nên đến nay thủ tục tế, rước đã giảm đi
rất nhiều, có nhiều lễ hội 3 - 4 năm mới tổ chức rước một lần,
thậm chí có những lễ hội chỉ cịn lại lễ tế hàng năm.
+ Chất lượng lễ hội ở Vĩnh Phúc còn nhiều vấn đề cần quan
tâm: sự độc đáo của từng lễ hội bị giảm dần, xu hướng “bắt
chước” nhau giữa làng nọ và làng kia làm mất đi tính bản sắc của
từng lẻ hội. Thậm chí có những lễ hội đặc sắc đã bị mất đi như
lễ hội khai địa mạch ở làng Bưởi (xã Thanh Vân - Tam Dương).
Trò choi dân gian
+ Trò chơi dân gian ở Vĩnh Phúc khá phong phú, trên
tồn tỉnh có 520 lễ hội thì có 271 lễ hội có trị chơi dân gian.
+ Ngồi các trị chơi dân gian truyền thống, ở Vĩnh Phúc,
những trò chơi dân gian độc đáo như: trò kéo song, đánh địn,
trị chạy trá hình, bịt mắt vẽ đi lợn, tứ nghệ cầu may, tứ dân
chi nghiệp... cịn được bảo lưu tương đối tốt.
+ Các huyện còn bảo lưu tốt các trò chơi dân gian như:
huyện Tam Dương 61.5%; huyện Yên Lạc 59.8%; thành phố Vĩnh
Yên 47.1%; huyện Vĩnh Tường 35.9%; huyện Mê Linh 34.5%.
62
Di sịn Vởn hịa Phi vơ t thể Vỉnh Phúc
+ Bắt đầu có sự tham gia và lấn át của các loại hình trị
chơi hiện đại: các trị chơi dân gian có xu hướng giảm dần thay
vào đó là việc tổ chức giao lưu thi đấu thể thao, các irò chơi
điện tứ trong lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh.
Nghệ thuật dân gian c ổ truyền
Một thực trạng đáng báo động là các loại hình nghệ thuật
dân gian cổ truyền ớ Vĩnh Phúc trước đây vốn đã ít, ngày nay,
các loại hình này cịn lại khơng đáng là bao, đang có nguy cơ
mai một hết, một vài loại hình cần được bảo tồn cấp thiết như:
làm con giống (0.3%), tạc tượng (0.4%), đội múa lán (1.4%), đội
múa rồng (0.8%), đội đánh trống truyền thống (1.6%), rối nước
(0 . 1%).
Phong tục tập quán
Các phong tục tập quán ở Vĩnh Phúc vẫn bảo lưu được
các thành tố cơ bản nhất của truyền thống. Những phong tục
được bảo lưu tốt như: thờ cúng gia tiên 95.8%, trung thu
93.5%, lễ mừng thọ 89.0%, cúng ỏng táo 88.5%, xá tội vong
nhân 87.0%... Những huyện bảo lưu tốt nhất các phong tục này
là huyện Yên Lạc, huyện Bình Xuyên, huyên Mê Linh và
huyện Vĩnh Tường.
Một số phong tục: lễ đổi tên cho con, dựng nêu, hạ nêu,
lễ thôi nôi, tục bán con cho chùa cho thánh, tục lên lão và làm
đầy cữ cho con... có xu hướng giảm dần cả về quy mô và việc
thực hành nghi lễ. Điều này là tất yếu trong quá trình phát triển
của một nền văn hố, ln ln tích hợp những yếu tố mới và
“đào thải” những nhân tố khơng cịn thích nghi với thời đại.
Q trình đơ thị hoá, hiện đại hoá làm giảm đi một số
phong tục, thậm chí mất dần đi như: lễ xuống đồng, cơm mới,
giết sâu bọ...những nghi lễ của nơng nghiệp khơng cịn thích
Di sỏn Vòn hòa Phi vãt th ể Vinh Phúc
hợp với đời sống đơ thị.
Vãn hố ẩm thực truyền thống
Xuất phát từ sự đa dạng trong nông nghiệp và là vùng có
nhiều sơng suối nên văn hố ẩm thực ở Vĩnh Phúc rất đa dạng,
phong phú. Mặc dù bị mai một đi nhiều, số món ăn trước có
nay khơng cịn là 14.8%, trong số đó số lượng món ăn độc đáo
hiện cịn có ở địa phương là 13.1%. Như vậy, số món ăn độc
đáo mai một đi nhiều hơn số hiện cịn lại.
Sơ' lượng làng bảo lưu được từ 2 đến 3 món cịn q ít: (4%)
Hạt nhân văn hố c ổ truyền
Số lượng các thầy lang gia truyền, thầy cúng, thầy bói,
người biết chữ Nho cịn khơng nhiều. Đây là một thực trạng mà
chúng ta phải quan tàm, vì chính những nghệ nhân này đã và
đang lưu giữ nhiều giá trị văn hố phi vật thể tiềm ẩn. Nếu
khơng có một chính sách phù hợp kịp thời gian thì việc lưu giữ
và phổ biến những giá trị văn hoá này gặp rất nhiều khó khăn
nếu khơng muốn nói là mất đi hồn tồn những kiến thức văn
hố mà những nghệ nhân này lưu giữ.
Những thuận lợi và khó khãn trong công tác bảo tồn
và phát huy di sản văn hoá phi vật thê ử Vĩnh Phúc.
Thuận lợi
- Vĩnh Phúc là một vùng đất có lịch sử lâu đời, từ xa xưa
là phần đất phía Tây của bộ Văn Lang, trải qua hàng nghìn
năm lịch sử, Vĩnh Phúc ln là địa bàn quan trọng của đất
nước. Vì thế, việc bảo lưu các giá trị văn hoá cổ truyền từ xưa
đến nay đã ăn sâu vào tâm thức của cư dân Vĩnh Phúc.
- So với các địa phương đã tiến hành tổng điều tra vãn
hóa phi vật thể như: Quảng Bình, Hà Nội, Hội An... thì việc
bảo lưu các hình thái văn hoá phi vật thể tại Vĩnh Phúc là cao,
64
Di sỏn Vén hỏa Phi vỏt thể Vĩnh Phúc
bên cạrh đó việc thực hành các hình thái văn hố phi vật thể
này còr rất tốt.
- Những năm gần đây, tỉnh Vĩnh Phúc mà trực tiếp là Sở
Văn hoi Thông tin rất quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị văn
hoá vặt thể và phi vật thể trên địa bàn tinh, chú trọng đến công
tác tu b) tôn tạo di tích, đặc biệt là phục dựng những lễ hội lớn
như: lễ hội đền Hai Bà Trưng, lễ hội Tây Thiên, lễ hội cướp
Phết ở Bàn Giản, lễ hội đúc Bụt ở Đồng Tĩnh...
- Q trình đơ thị hố diễn ra nhanh ở Vĩnh Phúc nhưng
khơng ủm mất đi những hình thái văn hoá phi vật thể (so sánh
số liệu ẽ hội loại A, B giữa thành phô Vĩnh Yên và thị xã Phúc
n vớ một vài huyện). Q trình đơ thị hố cũng đã thúc đẩy
một SỐhình thái vãn hố phi vật thể phát triển.
- Sự tác động của một số lề hội lớn đối với việc phát triển du
lịch ở Vĩnh Phúc như: lễ hội chọi trâu, lê hội Tây Thiên, lễ hội đén
Hai Bà Trưng.
K ió khán:
- 'Zhưa có quy hoạch phát triển tổng thể trên lĩnh vực bảo
tồn các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể ở Vĩnh Phúc.
- Trong nhiều năm qua “chương trình mục tiêu quốc gia
về vãn ìố” về sưu tầm và phát huy các di sản vãn hoá phi vật
thể đưcc tiến hành ở tỉnh chưa có tính hệ thống và thiếu tính
khoa hoc nên hiệu quả khơng cao.
- Dội ngũ cán bộ cống tác trong ngành văn hố cịn ít:
theo th)'ng kê của ngành văn hố thơng tin thì cho đến thời
điểm nim 2006, ở Vĩnh Phúc số cán bộ ngành văn hố cấp tỉnh
(có trìm độ đại học, cao đẳng) mới chỉ chiếm 42% (117/273),
cấp hirện (trình độ đại học, cao đẳng) chiếm 63% (67/105),
65
Di sản Vốn hòa Phi vởt thể Vĩnh Phúc
cấp xã (trình độ trung cấp trở lên) chiếm 42% (65/152)4
- Đội ngũ những người trực tiếp quản lý các di tích còn
thiếu trầm trọng. Chưa kể đến đội ngũ cán bộ làm cơng tác
quản lý loại hình di sản vãn hố phi vật thể, hầu như khơng có
cán bộ chun về lĩnh vực này.
- Lãnh đạo các cấp còn chưa nhận thức đầy đủ về vai trò
và tầm quan trọng của các di sản văn hoá phi vật thể trong các
di tích nói riêng và trong phát triển kinh tế nói chung.
- Mật độ lễ hội dày đặc cũng sẽ khó khăn cho việc bảo tồn.
Những lý do xã hội của thực trạng.
Về đội ngũ các bộ:
Đội ngũ cán bộ có trình độ tốt nghiệp trung cấp, cao
đẳng, đại học cịn q ít, trình độ, năng lực cịn hạn chế, dẫn
đến một loạt những khó khăn:
+ Nhận thức hạn chế: cách hiểu (hay quan niệm) cịn
chưa thật chính xác. Thơng thường đa số họ chỉ hiểu vãn hố
cổ truyền là đình, chùa, văn nghệ và gần đây lằ iễ hội. Phẩn lớn
cho rằng phong tục tập quán như: cưới, tang, các phong tục thờ
cúng, các lề lối sinh hoạt, ăn uống khơng phải là văn hố.
Chính nhận thức như vậy dẫn đến những hành vi sai lầm đối
với những hình thái văn hố này: chỉ những gì được coi là văn
hố thì mới khơng bị cấm đốn, được hoạt động ngược lại
những gì khơng phải là văn hố thi bị cấm đốn, khơng cho
hoạt động. Điều này dẫn đến giá trị văn hố bị mai một rất
nhiều, thậm chí có hình thái văn hố nào cố tình để tồn tại thì
bị biến dạng đi.
4Báo cáo Quy hoạch tình Vĩnh Phúc
66
Di sòn Vởn hca Phi vồt thề Vĩnh Phúc
+ Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa văn hoá cổ truyền và
văn hố mới: từ vấn đề nhận thức khơng đầy đủ đến quan niệm,
việc xây dưng đời sống văn hoá cơ sở chù yếu là xây dựng vãn
hoá mới, đưa ra những hình thức mới như: thơng tin cổ động,
thể thao, văn nghệ quần chúng cịn văn hố cổ truyền của cộng
đồng làng khơng có vai trị đáng kể trong cuộc sống đương đại
ở cơ sở.
+ Đa số cán bộ cơ sở cịn giữ cách nhận thức siêu hình
đối với các hiện tượng vãn hoá cổ truyền: sự tách bạch một
cách siêu hình máy móc theo kiểu chi chọn lọc mặt tích cực,
loại bỏ mặt tiêu cực trong một hiện tượng vãn hoá (vốn là một
thực thể) là tư duy phổ biến của họ5. Điều này thấy rất rõ trong
qưá trình khảo sát các thành tố của phong tục tập qn, họ cho
rằng một số thành tơ' cịn mang nặng hủ tục, mê tín dị đoan
như: cúng mụ, lễ đổi tên, tục bán con cho phật, cho thánh.
Trong lễ hội, thì phần hội được ưu tiên hơn cả, phần lễ thì cắt
bỏ những thủ tục cho là rườm rà khơng cần thiết. Việc quan
tâm đến nghệ nhân dân gian cũng có những sai lầm như: cấm
đốn việc hoạt động của các thầy mo, thầy cúng, thầy bói.
+ Q trình triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Bin chấp hành Trung ương đảng (khóa VIII) “về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc” và Luật Di sản văn hóa đến với các địa phương
cịn chậm. Tỉnh chưa có chính sách cụ thể có hiệu lực đối với
việc bảo tón và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể.
~
Ván hóa phi >ậí thẻ ở Hà Nội , Phạm H ổng Giang (chủ bièn), trang 60. N hà Xuáí
bản Thẻ giới răm 2005
5
Di sòn Vòn hòa Phi vỏt thể Vĩnh Phúc
Những nguyên nhân cụ th ể dẫn đến sự suy giảm của lễ
hội cổ truyền ở Vĩnh P húc :
Lễ hội là hạt nhân của vãn hoá phi vật thể của mỗi cộng
đồng làng. Vai trò của lễ hội rất quan trọng đối với sự thịnh,
suy của tồn bộ hình thái văn hố phi vật thể. Vì thế, cần tìm
ra những ngun nhân gây nên sự suy giảm của lễ hội cổ
truyền và tìm ra những phương pháp để khắc phục.
+ Thứ nhất: ở rất nhiều làng, các thiết chế như: đình, đền,
miếu bị mất đi nhiều. Đây chính là nơi diễn ra lễ hội và cũng
là nơi thờ tự vị thánh của làng. Số lễ hội khơng có địa điểm mở
hội rất lớn, chiếm 36.6%. Một phần lớn đình, đền, chùa, miếu
bị tàn phá trong thời kháng chiến chống Pháp do giặc tàn phá,
một phần do ta “tiêu thổ kháng chiến”, phần nữa do đã có một
thời ta cho rằng việc cúng đinh, chùa là những hủ tục, mê tín
nên việc thực hành các nghi lễ trong các thiết chế này bị mất
dần đi.
+ Thứ hai: Nhiều làng vẫn còn các thiết chế đình, đền
nhưng chất lượng của lễ hội thấp vì hệ thống nghi vật, nghi
trượng để dùng trong tế lễ cổ truyền khơng cịn. Số làng khơng
có thần phả chiếm 57.1%, khơng có sắc phong chiếm 66.8%.
+ Thứ ba: Bản thân người dân do những ảnh hưởng của tư
tưởng cực đoan một thời cũng đã có những quan niệm lệch lạc
đối với lễ hội, dẫn đến việc không quan tâm đến những vị thánh
được thờ ở làng, không quan tâm đến những thiết chế văn hố
ở làng mình. Qua khảo sát, số người khơng biết tên thành
hồng làng mình ỉà ai chiếm 41.5%; sắc phong của làng có nhớ
nhưng khơng nhớ niên đại chính xác là 93.5%.
68
Di sỏn Vồn hỏa Phi vâ t thể Vĩnh Phúc
+ Các trị chơi dân gian trong lễ hội khơng được đánh giá
cao, thậm chí bị bỏ qn (trong khi trị chơi dân gian là một
thành tố của lễ hội cổ truyền, thậm chí chúng khơng đơn thuần
là trị chơi mà trong chúng còn ẩn chứa những nghi thức ma
thuật cổ xưa cịn sót lại hoặc bị biến đổi, chính chúng góp phần
tạo nên nét đặc sắc của từng lễ hội). Trong lễ hội hiện nay, các
trò chơi mới (thi đấu thể thao, ca nhạc, các trò chơi ãn tiền...)
lấn áp các trò chơi truyền thống. Lý do là các trò chơi dân gian
truyền thống khơng được khuyến khích, hơn nữa, những nhà
quản lý lễ hội địa phương vì muốn trục lợi đã tạo điều kiện cho
các loại hình trị chơi mới xâm nhập bằng cách chia cắt địa
điểm, không gian trong lễ hội cho thuê để kiếm tiền.
+ Sự phân chia đơn vị hành chính mới: trong những năm
đổi mới, ở một số địa phương với việc chia nhỏ đơn vị ra để dễ
quản lý, đơn vị tổng trước kia khơng cịn gây ra những biến
động lớn trong cộng đồng làng, một số làng bị tách ra khỏi
tổng của mình, khơng cịn đình, khơng cịn đền, miếu, khơng
cịn thành hồng làng.
+ Trong một thời gian dài, vì lý do kinh tế, cơ chế hay lý
do này, lý do khác, lễ hội khơng được tổ chức. Có những làng
trong hàng chục năm khơng tổ chức lễ hội, vì vậy khi muốn
phục hồi lễ hội thì họ gặp nhiều khó khăn (nhiều người già đã
mất, những người trẻ trong làng không nhớ được quy trình, nghi
thức tổ chức, đồ rước lễ bị hỏng), họ phải đi học ở làng khác
một cách máy móc, dẫn đến tình trạng lễ hội làng này giống lễ
hội làng khác, thậm chí có những lễ hội “khơng giống ai”, “thập
cẩm” , vì họ “học kinh nghiệm” ở nhiều lễ hội khác nhau.
Di sản Vởn hỏa Phi vát h ể Vĩnh Phúc
Vị thê xã hội của nghệ nhàn và các loại hình ĩghệ thuật
dàn gian khơng cịn được coi trọng'.
Từ trước đến nay, chúng ta chưa có một chính sách thoả
đáng nào đối với nghệ nhân. Chúng ta mới chỉ dừng ơ các di sản
vãn hoá phi vật thể mà chưa quan tâm đến chủ thể iáng tạo ra
nó, chúng ta nghĩ rằng “đó là sáng tạo của nhân dân mà chưa ý
thức đầy đủ khởi thuỷ sáng tạo ấy là một cá thể”6. Họ chính là
những người sáng tạo, lưu truyền, lưu giữ, trao truyềr các di sản
văn hoá phi vật thể từ thế hệ này qua thế hệ khác. Phát huy vai
trị nghệ nhân trong cộng đồng là cơng việc cần thiếi mà chúng
ta chưa có các chính sách, chủ trương hữu hiệu. Ching hạn, ta
nên có chính sách, tài chính cho việc nghệ nhân truyỉn dạy cho
cộng đồng những di sản mà họ lưu giữ được trong tâm thức.
Ngay việc bảo tồn cũng cần chú ý, ghi chcp tỉ mỉ, chính xác
những hình thái mà nghệ nhân lưu giữ, nhưng ghi ;hép xong
khơng có nghĩa là chúng ta lưu giữ cẩn thận trong kho mà đưa
những kiến thức ấy phổ biến, lưu truyền trong cộng đồng, và
những người phổ biến ấy phải trực tiếp là các nghệ nhân chứ
không ai khác.
+ Khơng ít nhà quản lý văn hố địa phương của chúng ta
chưa có thái độ trân trọng đúng mức đối với nghệ nhân cũng
như với các hình thái nghệ thuật dân gian: điều này lì do chúng
ta nhận thức thiếu toàn diện, thiếu sâu sắc về khái niệm văn
hố. Có một thực tế là các nhà quản lý văn hố ở tíịa phương
khơng bao giờ học hỏi văn hố của địa phương mình từ chính
các nghệ nhân mà thường được đi học các lớp tập huấn ở chỗ
khác để về quản lý địa phương minh.
6
,
Nguyên C hí Bên - Góp phân nghiên cứu văn hóa dàn gian, trang 957
70
Di sàn Van hóa Phi v ơ t thề Vĩnh Phúc
Giảp pháp và khuyến nghị
Nâng cao nhận thức cho đội ngũ quản lý ván hóa các
cấp, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở:
+ Trước hết, phải ổn định bộ máy hoạt động văn hố
thơng tin cấp xã để đảm nhiệm vận hành các thiết chế vãn hố
xã, thơn như: nhà vãn hoá; đài truyền thanh; điểm bưu điện văn hố xã; thư viện - phịng đọc, vận hành mạng Internet theo
tinh thần Nghị quyết số 03/NQ-TU của Tỉnh ủy về phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn Vĩnh Phúc giai đoạn 2006 2010, định hướng đến năm 2020.
+ Khâu đào tạo: có một thực tế là ngay cả trong các
chương trình đào tạo chun ngành quản lý văn hố ở địa
phương (ở đây thường là Trường trung cấp Văn hố Nghệ thuật
tỉnh), khung chương trình đào tạo thường là lĩnh vực quản lý
văn hoá, sân khấu, thư viện. Học sinh ra trường được trang bị
những kiến thức về quản lý văn hoá ở cơ sở, hoạt động văn hoá
phong trào, nghiệp vụ về thư viện... Những kicn thức cơ bản
trong lĩnh vực văn hố thì lại chưa được học: các khái niệm văn
hoá, văn hoá phi vật thể.
+ Bên cạnh việc nâng cao nhận thức về mặt lý thuyết, phải
từng bước nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ sở về
phương pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể.
Trang bị cho họ những kiến thức căn bản về khái niệm văn hố
với tính lý thuyết cũng như tính thực hành của nó, đưa ra cho họ
một phương pháp chung để trên cơ sở đó họ có cách giải quyết
cụ thể về bảo tồn các giá trị văn hoá của từng địa phương.
Đời sống văn hoá được cấu thành từ hai thành tố chính là
71
Di sản Vỡn hịa Phi vồt thề Vĩnh Phúc
vãn hố dân gian cổ truyền và vãn hố đương đại. Có một thực
tếlà: Với những hoạt động văn hoá truyền thống tại cộng đổng,
nhân dân là những người quản lý trực tiếp, là người đóng góp
kinh phí, sử dụng kinh phí của mình một cách dân chủ cơng
khai. Phần lớn các di tích tại địa phương là do nhân dân chủ
động đóng góp kinh phí để tu bổ, tơn tạo mà khơng nhờ đến sự
“viện trợ” từ phía nhà nước. Thậm chí, có một sơ địa phương,
số kinh phí dư ra còn được sử dụng để tái sản xuất, hỗ trợ cho
hoạt động từ thiện, cho khuyến học tại địa phương mình.
Ngược lại những hoạt động văn hố mới (văn nghệ quần
chúng, thể dục thể thao cơ sở, thư viện văn hố) nếu khơng có
kinh phí từ trên “rót” xuống thì khơng hoạt động được. Nói như
vậy, khơng có nghĩa là chúng ta chỉ trích hay bì bác những hoạt
động văn hoá mới mà là để cho những người làm vãn hoá cơ
sở hiểu đầy đủ khái niệm đời sống vãn hoá.
Khuyến nghị:
+ Tiến hành rà soát, thống kê đội ngũ cán bộ văn hố cấp
xã, phân loại theo chương trình đào tạo, nắm bắt thực trạng
nhận thức của cán bộ cơ sở, thái độ của họ đối với việc thực
hành văn hố nói chung, văn hố cổ truyền và văn hố phi vật
thể nói riêng. Trên cơ sở đó biết được điểm mạnh, điểm yếu
trong nhận thức, phát huy những mặt mạnh, bồi dưỡng những
mảng còn yếu kém cho họ.
+ Mở những lớp đào tạo chuyên sâu, tập huấn cho cán bộ
cơ sở những lĩnh vực: khái niệm văn hoá, văn hố phi vật thể;
vai trị và vị trí của văn hoá phi vật thể trong thời đại hiện đại
hoá, cơng nghiệp hố; trang bị phương pháp bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá phi vật thể.
Di sỏn Vốn hịa Phi vơt thể Vĩnh Phúc
Phải có chính sách văn hố đổi với việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá p h i vật thê
+ Chính sách văn hố với tư cách là một chính sách xã
hội cần phải được hiểu một cách tổng thể:
- Đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước
- Hệ thống thể chế tương ứng để hiện thực hoá đường lối,
chủ trương đó.
- Cơ cấu - tổ chức xã hội tương ứng để hệ thống thể chế
ấy hoạt động một cách hiệu quả7
Trong nhiều nãm qua, Đảng và Nhà nước đã có những
chính sách, đường lối đúng đắn để xây dựng nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, hiệu quả của nó phụ
thuộc rất lớn vào nhận thức, sự vận dụng ở tình hình cụ thể ở
mỗi địa phương. Ở cấp tỉnh, việc thể chế hoá những đường lối
chủ trương để phù hợp với thực tiễn không dễ, một loạt vấn đề
được đặt ra như: hệ thống pháp luật, các văn bản dưới luật đảm
bảo cho chính sách vận hành, chẻ độ tài chính và bộ máy quản
lý tương ứng.
+ Có kế hoạch nghiên cứu, bảo tồn tổng thể: việc nghiên
cứu bảo tồn văn hoá phi vật thể phải làm từng bước cẩn thận:
tiến hành nghiên cứu thực trạng để từ đó có kế hoạch phát huy
thế mạnh, điểm yếu của từng loại hình. Mấy năm gần đày, Tỉnh
đã quan tâm đến việc bảo tồn, các di tích trọng điểm như: đền
Hai Bà Trưng, đinh Hương Canh, khu di tích và danh thắng Tây
Thiên, chùa Hà... Việc đầu tư tu bổ các di tích là cần thiết
nhưng phải gắn với các hoạt động của vãn hố phi vật thể.
7
,,
Ván hóa p h i vật thé ở Hà Nội , trang 61
Di sỏn Vỏn hỏa Phi v â t thể Vĩnh Phúc
Chúng ta đều biết nếu các sinh hoạt của văn hố phi vật thể bị
tách ra khỏi khơng gian vật thể của nó thì các chức năng văn
hố - xã hội - tâm linh nhanh chóng biến mất, các sinh hoạt đó
trở nên giả tạo, nhàm chán. Đơn cử một ví dụ: từ năm 2004 đến
2007, tỉnh Vĩnh Phúc đầu tư khá nhiều kinh phí để tu bổ, tơn
tạo di tích đền Hai Bà Trưng (huyện Mê Linh) kết quả là lễ hội
rất đơng nhưng nội dung lễ hội cịn sơ sài: đám rước rời rạc,
các hình thức tế lễ khơng được chỉnh chu, thiếu trị chơi dân
gian và các diễn xướng dân gian khác. Nếu nghiên cứu kỹ các
hình thức diễn xướng, đầu tư một ít kinh phí để phục hồi các
hình thức diễn xướng thì lễ hội sẽ phong phú hơn.
Khuyến nghị:
+ Từ năm 2005 đến 2007, Sở Văn hố - Thơng tin (nay là
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã tiến hành tổng kiểm kê di
sản văn hố phi vật thể trên địa bàn tồn tỉnh. Chương trình này
đã xác định được số lượng, đánh giá được thực trạng và phân
loại hình thái vãn hố phi vật thể. Trong chương trình tiếp theo,
cần tiến hành những nghiên cứu định tính đối với từng loại
hình di sản phi vật thể.
+ Từng bước bảo tồn, phát huy những di sản này một
cách hữu hiệu: lên kế hoạch trung hạn, dài hạn cho việc bảo
tồn. Cần có cơ chế tài chính thích hợp, ngồi việc huy động
ngân sách của tỉnh chi cho ngành văn hố có thể vận động
thêm ngân sách từ các nguồn tài trợ khác
+ Cùng với việc bảo lưu trong cộng đồng, Tỉnh cần có
kinh phí để ghi hình, ghi âm lại những loại hình văn hoá phi
vật thể tiêu biểu để lưu giữ và phổ biến.
Di sỏn Vốn hòa Phi vá t thể Vinh Phúc
Phát huy các loại h ìn h di sản văn hố p h i vật thè gắn
với phát triển cộng đồng
Theo J.H. Fichter, khái niệm cộng đồng bao gồm bốn yếu
tố: (1) Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác,
tương quan này đôi khi được gọi là tương quan dệ nhất đẳng,
tương quan mặt đối mặt, tương quan thăn mật; (2) Có sự liên
hệ vê tình câm và cảm xúc nơi cá nhân trong những nhiệm vụ
và công tác xã hội của tập thể; (3) Có sự hiến dâng tinh thần
hoặc dấn thân đối với những giá trị dược tập th ể coi là cao cả
và có ỷ nghĩa; (4) M ột ý thức đoàn kết với những người trong
. A
» f 8
íậ p th ê .
Trong giai đoạn hiện nay, những cộng đồng có những đặc
tính trên dần bị mai một do những tác động của quá trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố. Lực cỏ kết văn hố truyền thống của
các cộng đồng làng bị yếu đi rất nhiều, trong khi trước kia nó
vốn là sợi dây cố kết sức mạnh của cộng đồng trong việc bảo
vệ làng đối trọi với những lực lượng tự nhiên và xã hội. Mặt
khác, khi cộng đồng bị phá vỡ các khuôn mẫu về giá trị quan
hệ xã hội, giá trị về chuẩn mực, ứng xử, văn hoá... cũng bị thay
đổi. Vậy, câu hỏi đặt ra là chúng ta phái làm gì, các nhà quản
lý phải làm gì đối với việc biến đổi này? Định hướng nó như
thế nào?
Qua nghiên cứu các cộng đồng làng ở Vĩnh Phúc, có thể
thấy vấn đề chính yếu ở đây chính là các loại hình di sản có thể
đảm đương được việc này, đó là các loại hình di sản văn hố
phi vật thể. Những di sản văn hố trong việc cơ kết cộng đồng
8
,
,
.
.
.
.
'
,
H chter , X ă hội học. Bản dịch của Trán Văn Đĩnh... Hiện dại th ư xã xuàt bán nám
1974, trang 79-80.
Di sòn V ởn hòa Phi vỏt thể Vĩnh Phúc
vẫn có tác dụng - hay nói cách khác nó vẫn là chất keo cố kết
cộng đổng trong cuộc sống hiện đại. Việc cộng đồng bảo lưu
và phát huy được các giá trị văn hố cổ truyền, thì ý thức tự hào
về cộng đồng của mình, về q hương “nơi chơn rau cắt rốn”
luôn hiện hữu trong hành vi của tất cả các thành viên, dù họ
đang ở đâu nơi đất khách quê người. Cũng trên cơ sở đó, ý thức
về cộng đồng và tinh thần đoàn kết cộng đồng ngày càng được
củng cố trong mỗi thành viên. Đây là cơ sở cho mọi thành công
trong xây dựng và phát triển cộng đồng.
Khuyến nghị:
+ Tiếp tục phát triển phong trào xây dựng làng văn hoá ở
các cộng đồng cả ở bề nổi lẫn chiều sâu: q trình xây dựng
làng văn hố nhiều mặt mạnh của truyền thống được khai thác
và phát huy, đặc biệt là những sinh hoạt vãn hoá cộng đồng (như
tu bổ, tơn tạo di tích, lễ hội truyền thống...), văn hoá gia tộc...
+ Trước khi bảo tồn bất cứ di sản nào thì vai trị của cộng
đồng phải được đặt lên hàng đầu.
76
Di sàn Văn hóa Phi vột thể Vĩnh Phúc
LỊ I KẾT
Chương trình: “T ổng điều tra di sản văn tiố p h i vật thê
ở V ĩnh Phúc” là một chương trình được thực hiện trên quy mơ
lớn trên tồn tính. Phương pháp nghiên cứu được lựa chọn để
thực hiện là tiến hành nghiên cứu điền dã và nghièn cứu định
lượng. Những dữ liệu đã thu thập được là kết quả trung thực từ
những đợt điều tra điền dã tại cơ sở (làng/thởn/khu phố) của tất
cả hơn 900 đơn vị. v ề cơ bản, những số liệu này phản ánh đúng
thực trạng bảo tồn các di sản văn hoá phi vật thể tại Vĩnh Phúc.
Kết quả của chương trình ngồi phần ghi chép khá tỉ mí
những hình thái vãn hố phi vật thể tiêu biểu tại Vĩnh Phúc
như: lễ hội, phong tục tập qn, trị chơi, văn hố ẩm thực...
cịn kế thừa những kết quả nghiên cứu của những người đi
trước, đặc biệt là những chuyên luận, những bài nghiên cứu có
liên quan đến chương trình này.
Từ những kết quả điều tra về mặt số liệu thống kê định
lượng cùng với những bài viết định tính, các thơng tin đã được
xử lý: phân loại, đánh giá mức độ bảo lưu từng loại hình văn
hố phi vật thể của từng huyện, thành phố, thị xã, mức độ bảo
lưu đối với tổng thể tỉnh Vĩnh Phúc. Những số liệu này có ý
nghĩa thiết thực trong công tác quản lý công tác xã hội nói
chung và ngành văn hố nói riêng của tỉnh Vĩnh Phúc. Nhìn
vào đó, nhà quản lý có thể thấy được bức tranh tổng thể cũng
như chi tiết về thực trạng văn hoá phi vật thể hiện nay.
77
Di sán Vởn hỏa Phi vât thể Vĩnh Phúc
Số liệu thống kê khi được phân tích đã nói được khá đầy
đủ về mức độ bảo tồn của các cộng đồng cư dân đối với di sản
vãn hoá phi vật thể của mình. Di sản văn hố phi vật thê (ở đây
chủ yếu là lễ hội) đã được tiến hành phân loại thành 4 loại.
Nhìn vào đó các nhà quản lý sẽ nắm được đối tượng cần phải
đầu tư (trong tất cả các thành tố văn hoá phi vật thể như vậy,
xem khâu nào yếu để đầu tư tạo việc bảo tồn được tốt). Bên
cạnh đó, những bài nghiên cứu định tính từ các cuộc điều tra
điền dã cũng sẽ góp phần làm sáng tỏ những nguyên nhân tác
động của thực trạng này. Từ đó, nêu ra những xu hướng vận
động của các di sản văn hoá phi vật thể và nêu ra những vấn đề
mà các nhà quản lý của tỉnh cần quan tâm, cần tác động vào để
những di sản văn hoá phi vật thể này được bảo tồn và phát huy
đúng hướng và tích cực.
Dựa trên thực trạng của loại hình văn hố phi vật thể
chúng tơi đã cố gắng đi tìm những lý do xã hội, những nguyên
nhân khách quan, khó khăn và cũng mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp, khuyến nghị khoa học để cho lãnh đạo ngành cũng
như lãnh đạo tỉnh tham khảo. Dù vậy, những đề xuất, khuyến
nghị là hoàn toàn dựa trên những cơ sở nghiên cứu của mình,
chứ hồn tồn khơng mang tính chủ quan, võ đốn hay áp đặt.
Hi vọng rằng, những kết quả nghiên cứu mà chúng tơi
trình đã trình bày ở cuốn sách này sẽ hữu ích cho cơng việc
quản lý văn hố ở Vĩnh Phúc./.
78
Di sàn Vân hóa Phi vơt thể Vĩnh Phúc
MƠT ỗ ổ LỄ HÔI TIÊU BÊU
Lẽ hội huyện Binh Xuyên
1. LỄ HỘI LÀNG AN LÃO, XÃ SƠN LÔI
I. Thời gian mở hội: Ngày 12 tháng Giêng
Hội chính: 5 n ă m / 1 lần
Hội lệ: 1 năm/ 1 lần
II. Địa điểm m ở hội: Đình An Lão
III. T h àn h hoàng làng:
- Cao Sơn
- Quý Minh
- Trường Giang
IV. Sắc phong: Không
V. Rước: Rước thánh
- Hành trình đám rước: Rước từ điếm về đình mớ hội.
- Đội hình rước: Cờ thần, phường bát âm, chấp kích, kiệu
lễ, kiệu thánh, quan viên, nhân dân.
VI. Tế: 3 chầu
- Đội tế: 15 người
- Trang phục: + Chủ tế: áo xanh
+ Xướng quan: áo xanh
+ Hầu tế: áo the
VII. Đọc sớ (chúc văn): Trước đọc chữ Hán nay đọc
Quốc ngữ
v r a . Trò diễn, trò chơi dân gian: Cờ tướng, vật, dập niêu,
chọi gà.
IX. Lễ vật dâng thánh: Xôi, thủ lợn, gà.
80
V ật “chồng tang giếng" đền Xuân Lãng - Thanh Lãng - Bình Xuyên
“K éo s o n g ” Hương Canh - Bình Xuyên
L ễ vật dáng thánh đình N hân L ạ c - N hân Đ ạ o
Thi làm bánh tẻ làng Yên L ậ p
-
Tứ Yên
-
-
L ậ p Thạch
Lập T hạch
“
Leo cầu bốp vú ” đình Thạc Trục - thị trấn Lập Thạch
Hát trống quân Đức Bác - Lập Thạch
-
L ễ hội chọi trâu Hải Lựu - Lập Thạch
L ễ “trình Bơng ” làng Bồng M ạc
-
Liên M ạc - M ê Linh
Thi g iã bánh d ầy - Đ ông C ao - M ê Linh