Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.39 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ HƢƠNG THƠM

XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH ĐỨC THẢO

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể


bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Ngô Thị Hƣơng Thơm


MỤC LỤC
Trang

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.3.
2.3.1.

2.3.2.

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
Khái quát chung về Nhà nước pháp quyền
Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ
Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền
Khái niệm, đặc trưng và nội dung xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam
Khái niệm về Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Mơ hình Nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới
và giá trị tham khảo cho Việt Nam
Mơ hình Nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới
Giá trị tham khảo cho Việt Nam
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN
NAY (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)
Thực trạng xây dựng pháp luật
Thành tựu đạt được
Một số hạn chế
Thực trạng xây dựng bộ máy nhà nước
Những thành tựu trong tổ chức bộ máy nhà nước đảm bảo
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

Một số hạn chế trong tổ chức bộ máy nhà nước thời kỳ đổi mới
Thực trạng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Những thành tựu về phát huy dân chủ
Một số hạn chế

1
4
4
4
9
11
14
14
16
25
26
26
29

31
31
31
36
46
46
55
59
59
62



2.4.
2.4.1.
2.4.2.
2.5.

3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.
3.2.6.
3.2.7.
3.2.8.

Thực trạng xây dựng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
Nhân dân
Những thành tựu đạt được
Một số hạn chế cần khắc phục
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
Quan điểm
Những giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
Đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội
Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước

Đẩy mạnh cải cách tư pháp
Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật
Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và những
hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

63
63
65
66

70
70
71
71
82
86
93
99
103
108
111
114
116



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HĐND

:

Hội đồng nhân dân

QPPL

:

Quy phạm pháp luật

UBND

:

Ủy ban nhân dân

VBQPPL

:

Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN

:


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Học thuyết nhà nước pháp quyền từ lý luận vận dụng vào thực tiễn như
thế nào đến nay vẫn còn là một vấn đề cần bàn luận. Việc vận dụng lý luận
xây dựng nhà nước pháp quyền trên các quốc gia trên thế giới không theo một
khuôn mẫu xác định, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chế độ chính trị, truyền
thống lịch sử và bản sắc văn hoá mà mỗi quốc gia xây dựng một mơ hình nhà
nước pháp quyền riêng. Hơn hai thế kỷ qua, các quốc gia phát triển đã và
đang hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật, giảm thiểu biên chế trong bộ máy nhà nước, tiết kiệm ngân
sách, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, thực hiện nguyên tắc sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như giao lưu văn hoá,
chuyển giao khoa học - cơng nghệ, dân chủ hóa tồn diện đời sống xã hội hiện
nay, địi hỏi các quốc gia phải có những quy định pháp lý chung, những chế
tài pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ quốc tế. Để hội nhập quốc tế Việt
Nam phải cấp thiết xây dựng bộ máy hồn thiện, trong sạch, vững mạnh, hoạt
động linh hoạt có tính hiệu quả cao theo hướng lấy pháp luật làm phương tiện
quản lý nhà nước và điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền không chỉ là một cuộc cách mạng, nó
là một cuộc đại cách mạng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Cuộc đại cách
mạng ấy lại được tiến hành trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội, cịn mn vàn khó khăn về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội…Vì vậy, đây là q trình lâu dài, khó khăn, phức tạp phải có sự
chuẩn bị chu đáo cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Điều đó địi hỏi
các nhà nghiên cứu lý luận phải khảo sát đời sống thực tế, phân tích

phương diện kinh tế, chính trị, văn hố - xã hội. Qua phân tích những
phương diện đó, phải vạch ra lộ trình, tìm bước đi thích hợp, xây dựng

1


những giải pháp, từng bước hoàn thiện lý luận, đẩy nhanh tiến trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Tuy nhiên cho đến nay, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là
một vấn đề có nội dung rất lớn, địi hỏi phải có sự nghiên cứu tồn diện cả về
lý luận và thực tiễn. Để góp phần vào quá trình nghiên cứu đó, tơi chọn đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá
thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, luận văn đề xuất các
quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
Việt Nam hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền và
nhà nước pháp quyền Việt Nam.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam từ năm 1986 đến nay.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn
nghiên cứu lý luận, thực trạng về nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp
quyền Việt Nam.
- Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước,
hệ thống pháp luật, về vấn đề dân chủ và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước

với Nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
- Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 đến nay (từ thời kỳ đổi mới).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và

2


Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Luận văn cũng kế thừa các thành tựu nghiên
cứu của các tác giả trong và ngoài nước về nhà nước và pháp luật để làm tài
liệu tham khảo.
- Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử
dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và
phân tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm
về xây dựng nhà nước pháp quyền.
- Ngoài ra, luận văn còn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tuân thủ các nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, thống nhất giữa lôgic và lịch sử, nguyên tắc xem xét
khách quan, xem xét toàn diện, lịch sử - cụ thể, đối chiếu, so sánh, v.v..
5. Đóng góp mới của luận văn
- Đưa ra được khái niệm và phân tích rõ hơn những đặc trưng cơ bản
của nhà nước pháp quyền Việt Nam.
- Luận văn chỉ ra được thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thực
trạng xây dựng nhà nước pháp quyền từ năm 1986 đến nay.
- Đề xuất được một số giải pháp có tính khả thi nhằm tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và
giảng dạy các vấn đề về nhà nước, nhà nước pháp quyền, làm tài liệu phục vụ

các cán bộ, công chức quản lý nhà nước và pháp luật.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam từ khi
đổi mới đến nay (từ năm 1986 đến nay)
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.

3


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về Nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ
1.1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cổ đại
ở Châu Âu
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư
tưởng chính trị - pháp lý, gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ
chuyên quyền, độc tài, vơ chính phủ, vơ pháp luật, đã hình thành ngay từ thời
cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng thời cổ đại như Xocrat,
Đemocrit, Platon, Arixtot, Xixeron… trong đó nổi bật nhất là quan điểm của
Đemocrit, Arixtot và Xixeron.
Đemocrit (460 - 370 tr. CN): Được coi là người đầu tiên lý giải một cách
khoa học về sự xuất hiện và sự hình thành con người, xã hội lồi người. Ơng cho
rằng Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con
người nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền

lực chung của công dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật.
Arixtot (384 - 322 tr. CN): Ông được C.Mác đánh giá là nhà tư tưởng
vĩ đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo
ơng thì yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong pháp luật là sự
phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; khơng thể
có pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên
pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Những quan điểm nêu trên được
Arixtot trình bày trong tác phẩm “Đạo đức học” và “Thuật hùng biện”.
Xixeron (106 - 43 tr. CN): Ông là nhà hoạt động nhà nước, nhà luật học
và nhà hùng biện của thời kỳ La Mã cổ đại, tác giả của những tác phẩm nổi

4


tiếng như “Về nhà nước”, “Về những đạo luật” và “Về các nghĩa vụ”… Ơng
đã có những tư tưởng tiến bộ như: nhà nước là công việc chung của nhân dân;
phân biệt ba hình thức nhà nước: dân chủ, quý tộc và quân chủ; người điều
hành công việc nhà nước phải sáng suốt, cơng minh, có khả năng hùng biện
và hiểu biết những nguyên lý cơ bản của pháp luật… Đặc biệt, Xixeron đưa ra
quan điểm nổi tiếng: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và
nhân dân phải coi pháp luật như chốn nương thân của mình.
Như vậy, theo các nhà triết học thời kỳ này, pháp luật không chỉ là
công cụ cai trị của nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng
nhất đối với các quan hệ xã hội, bản thân nhà nước cũng phải phục tùng
pháp luật.
1.1.1.2. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cách
mạng tư sản
Những quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên được
tiếp tục phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản đánh đổ
chế độ phong kiến chuyên chế, độc tài ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII. Trong

thời kỳ này tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được phát triển khá phong phú,
toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính trị - pháp
lý. Những người có cơng xây dựng tư tưởng ấy là các học giả tư sản tự do ở
châu Âu như J.Locke, S.L.Montesquieu, I.Kant, Heghel…trong đó đáng chú ý
là học thuyết của S.L.Montesquieu và J.J.Rút - xô
Nhà tư tưởng vĩ đại nước Pháp S.L.Montesquieu (1698 - 1755) đã xây
dựng thuyết phân quyền trong tổ chức nhà nước, ông là tác giả của cuốn sách
nổi tiếng Bàn về tinh thần pháp luật (1748). Trong tác phẩm này từ việc phân
tích chế độ chun quyền độc đốn, chun quyền, tùy tiện xâm hại tự do dân
chủ, Montesquieu đề cao cơ quan đại biểu của nhân dân, lập luận về sự cần
thiết phải phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp. Ông cho rằng ba thứ quyền này phải được tổ chức

5


một cách độc lập và kiềm chế lẫn nhau để chống tư tưởng độc đoán, lạm
quyền. Để tránh lạm quyền, ba quyền đó cần nằm trong tay ba cơ quan khác
nhau, kiềm chế lẫn nhau. Đây cũng chính là điều kiện chủ yếu để đảm bảo tự
do chính trị trong nhà nước.
Tư tưởng về mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân thật sự được nâng
lên một đỉnh cao mới với tư tưởng về “nguồn gốc quyền lực nhà nước” và
“chủ quyền nhân dân” của J.J Rút - xô. Ông là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện
chứng học lỗi lạc của triết học khai sáng thế kỷ XVIII. Quan điểm về nhà
nước và pháp luật của ông được nêu chủ yếu trong tác phẩm “Bàn về khế ước
xã hội”. Trong tác phẩm này Rút - xô đề cập đến sự cần thiết của việc thiết
lập công ước xã hội, các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của cơ quan
lập pháp, cơ quan hành pháp. Ông đề cao chủ quyền của nhân dân, quyền lực
nhà nước phải có sự phân chia rành mạch giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp;
pháp luật phải kết tinh ý chí và lợi ích của nhân dân, phải đảm bảo tính độc

lập của Tịa án. Triết lý giải phóng quyền, tư tưởng về giá trị tự nhiên bằng
nhau của các cá nhân và nguyên tắc dành cho cá nhân “Tất cả những gì pháp
luật khơng cấm thì được phép tự do ý chí” đã dánh dấu một bước ngoặt đối
với quan niệm về địa vị của cá nhân.
Ngoài các nhà lý luận nói trên, trong thời kỳ này nhiều nhà tư tưởng,
triết học, luật học khác đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền như Tomat Jephecxon tác giả của bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm
1776, Tomat Pên, Jon Adam, Jem Medison…
Những quan điểm, tư tưởng ấy được bổ sung và ngày càng hoàn thiện
bằng nhiều quan điểm lý luận mới, trở thành hệ thống các tri thức khoa học
dưới dạng các quan điểm, tư tưởng, lý luận rất phong phú và phức tạp về mối
quan hệ giữa nhà nước - pháp luật - con người trong xã hội có giai cấp. Sợi
chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng về nhà nước pháp quyền vẫn là thượng tơn vị trí,
vai trị của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.

6


1.1.1.3. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ănghen, V.I. Lênin và Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật kiểu mới
 Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen
Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của C.Mác và Ănghen
tập trung vào các yếu tố chủ yếu liên quan đến Nhà nước pháp quyền, đó là
nhà nước, pháp luật gắn với chủ quyền và quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Về pháp luật, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và
Ănghen đã khẳng định pháp luật ln ln có tính giai cấp, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị về chính trị và kinh tế. Mặt khác, pháp luật phải phản ánh
thực tại khác quan và lợi ích chung của xã hội, quan hệ xã hội.
Ngay từ những năm 1842 - 1843, trong những cuộc tranh luận về tự do,
C.Mác đã khẳng định vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền tự do dân

chủ của nhân dân. Theo nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật thì
trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật trở thành tối thượng. Mọi thành viên
trong xã hội, kể cả nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đều phải tuân thủ
pháp luật, xử sự đúng u cầu của pháp luật, khơng có ngoại lệ.
Về nhà nước, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác chủ
trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt để trong đó “tự do của mỗi người là
điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”, nhà nước kiểu mới phải “giải
phóng con người, bảo đảm sự phát triển tự do tối đa và phát triển toàn diện
con người”. Muốn vậy phải “biến nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành
cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội”. Dân chủ trong nhà nước kiểu mới là dân
chủ “do nhân dân tự quy định”, là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội
công dân. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm chủ quyền của nhân dân, nhà
nước phải là đại biểu cho chủ quyền nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân
dân. Yêu cầu nâng cao đạo đức, phẩm chất, năng lực và trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong Nhà nước pháp quyền.

7


 Tư tưởng của V.I.Lênin
Những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên của C.Mác và
Ph.Ănghen được V.I.Lênin tiếp thu và phát triển trong quá trình xây dựng nhà
nước Xơ Viết. Ơng chỉ rõ “Mục đích của chính quyền Xô viết là thu hút
những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước” và “việc thu hút được
mọi người lao động tham gia vào quản lý là một trong những ưu thế quyết
định của nền dân chủ XHCN”
V.I.Lênin đã khái quát nhiều quan điểm về Nhà nước kiểu mới, đó là
“nhà nước khơng cịn ngun nghĩa”, “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà nước
quá độ” để rồi chuyển dần tới một chế độ tự quản của nhân dân. Muốn vậy,
trước mắt phải thực hiện chế độ dân chủ mà nội dung cơ bản là quyền bầu cử,

quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền bãi miễn, quyền thẩm tra giám sát
hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ công chức nhà nước của nhân dân.
Về pháp luật, V.I.Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế
trong quản lý xã hội mới, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh, thống
nhất trên phạm vi toàn quốc, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh
Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền thể
hiện trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với
việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân
loại, vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Có thể khái quát trên những nội dung cơ bản sau đây:
- Giai cấp vô sản phải lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giành
chính quyền về tay nhân dân.
- Nhà nước XHCN là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, bảo
đảm nền dân chủ thực sự.
- Phải xây dựng Hiến pháp dân chủ để bảo đảm quyền tự do dân chủ
của nhân dân.

8


- Nhà nước XHCN là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý
xã hội theo pháp luật và kết hợp chặt chẽ với giáo dục đạo đức.
- Pháp luật trong nhà nước XNCN là pháp luật dân chủ, thể hiện được ý
chí và lợi ích của nhân dân.
- Nhà nước XHCN là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm
trước nhân dân, cơng dân phải làm trịn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội.
- Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân là nhà nước trong sạch;
ngăn chặn, loại trừ được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng

tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước. Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước là những “công bộc của dân”.
- Nhà nước XHCN phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của
bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước [26, tr.57].
Có thể nói, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành trong
cuộc cách mạng giải phóng nhân loại khỏi chế độ phong kiến chuyên chế,
nhưng những tư tưởng ban đầu của nó đã bắt nguồn từ thời cổ đại. Tư tưởng
về nhà nước pháp quyền ra đời gắn liền với sự khẳng định chủ quyền của
nhân dân, nhân dân là gốc của quyền lực, gắn liền với sự tự do của nhân dân
được bảo đảm, với sự tuân thủ pháp luật của nhà nước, sự phụ thuộc của nhà
nước vào xã hội.
Xu thế chung của các quốc gia trên thế giới là hướng tới xây dựng nhà
nước pháp quyền và do đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền lại tiếp tục được
bổ sung và hoàn thiện.
1.1.2. Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”, về cơ bản được hình thành vào thời
Khai sáng. Hai tác phẩm đặt nền móng tư tưởng nhà nước pháp quyền là
“Tinh thần pháp luật” của Montesquiue và “Khế ước xã hội” của Rousseau,
trong đó các tác giả đã đề cao quyền cơng dân và vai trị pháp luật, coi pháp
luật như phương tiện quản lý xã hội. Thuật ngữ nhà nước pháp quyền được ba

9


nhà tư tưởng là Carl Theodor Welcker (1790-1869), Johann Christopher
Freiher (1772-1824) và Robert von Mohl (1799-1875) chính thức vận dụng
vào thực tế nước Đức đầu thế kỷ XIX với nghĩa Nhà nước coi trọng tính tối
cao của pháp luật, khơng ai có quyền đứng trên, đứng ngồi vịng pháp luật.
Hiện nay, trong lý luận cịn có các quan điểm khác nhau về khái niệm
và các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền (tính tối cao của pháp luật,

nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của nhà nước, nguyên tắc phân công quyền lực
lập pháp, hành pháp, tư pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền tự do cơ bản
của cơng dân; chủ quyền nhân dân…). Có quan điểm cho rằng, nhà nước
pháp quyền là nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (không ngoại trừ nhà nước)
đều tuân thủ nghiêm chỉnh, phục tùng pháp luật - một pháp luật có tính pháp
lý cao, phù hợp với lí trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội,
của con người. Quan điểm khác cho rằng: Nhà nước pháp quyền địi hỏi phải
có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ
chức quyền lực chính trị; đó là hai yếu tố khơng thể thiếu khi nói đến nhà
nước pháp quyền. Quan điểm khác nữa lại định nghĩa về nhà nước pháp quyền
dựa trên các đặc trưng của nó, theo đó, nhà nước pháp quyền là nhà nước dựa
trên các nguyên tắc như tính tối cao của luật; chủ quyền của nhân dân; phân
cơng quyền lực; tính vững chắc của các quyền tự do của con người…
Tuy có nhấn mạnh về các khía cạnh khác nhau trong nội dung nhà nước
pháp quyền, nhưng quan điểm chung đều cho rằng, nhà nước pháp quyền
không phải là một kiểu nhà nước mới. Trong lịch sử lồi người chỉ có 4 kiểu
nhà nước là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà
nước XHCN. Nhà nước pháp quyền là hình thức phân cơng và tổ chức quyền
lực nhà nước, nó có những đặc trưng riêng: đó là nhà nước mà hiến pháp và
các đạo luật phải giữ vị trí tối cao; quyền lực nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc phân công quyền lực; con người là giá trị cao quý và mục tiêu cao
nhất; bảo đảm chủ quyền của nhân dân. Như vậy, Nhà nước pháp quyền là vị

10


thế pháp lí hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người đều phải phục tùng và tôn
trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền. Nhà nước
pháp quyền liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy phạm,
tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Nhà nước

pháp quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách thông qua
phiếu bầu phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ đặt ra.
1.1.3. Đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền
Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm
tư tưởng rất phức tạp, phong phú và có các cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy,
nghiên cứu tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử có thể khái quát
những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau:
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp
và pháp luật, đảm bảo tính tối cao và vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp
luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Đây là một trong những
đặc trưng quan trọng của nhà nước pháp quyền. Tính tối cao của pháp luật
được thể hiện trên hai phương diện: một là, đảm bảo sự thống trị của pháp
luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, tính bắt buộc của pháp luật
đối với bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là
tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Muốn vậy,
hệ thống pháp luật phải hồn thiện, có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo vai trò tối
thượng của các đạo luật. Tất cả các đạo luật phải phù hợp với Hiến pháp và
các văn bản cao nhất của cơ quan lập pháp. Những văn bản dưới luật phải phù
hợp với luật, quá trình áp dụng pháp luật, các hoạt động cá nhân đều phải tuân
thủ theo luật và các văn bản dưới luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó các quyền tự do, dân
chủ của công dân được nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Mọi hành vi vi phạm
pháp đều phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Mục tiêu
cao nhất của nhà nước pháp quyền là đảm bảo quyền tự do, dân chủ của con

11


người. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tun bố các quyền tự
do của cơng dân mà cịn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi

chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì pháp luật khơng
cấm trong khn khổ không xâm phạm đến tự do của người khác. Pháp luật
chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là
phương tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con
người, đồng thời cũng qui định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và
trừng trị những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm chịu trách nhiệm trước cơng
dân về những hoạt động của mình, cịn cơng dân phải thực hiện các nghĩa vụ với
nhà nước. Nhà nước coi quyền của công dân là nghĩa vụ của mình và cơng dân
cũng xem quyền của nhà nước là nghĩa vụ của mình. Khi vi phạm pháp luật thì
cả hai bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau, khơng có ngoại lệ.
Để đảm bảo u cầu đó trong nhà nước pháp quyền phải có hình thức
tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp
luật, xử lý các vi phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
Theo đó, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân định rõ
ràng, rành mạch cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân
bằng, đối trọng, chế ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống
nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp
mạnh, đủ năng lực xây dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thơng qua cơ
chế làm luật, năng lực tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp
phải độc lập và bảo đảm công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc
này cũng đặt ra yêu cầu mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức
và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, khơng ai có thể lạm dụng quyền lực,
và vì lẽ đó, cần phải sắp xếp quyền lực sao cho khơng có sự lạm quyền.
Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp
quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ

12



chức của đại đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp
quyền đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của
của Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia, Hiến
pháp là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng
nhất. Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc
hình thành cơ chế bảo vệ và bảm đảm thực thi Hiến pháp là không thể thiếu,
đặc biệt là trong nhà nước pháp quyền, nơi Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí
thượng tơn. Để đảm bảo sự tn thủ pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi vi
phạm pháp luật phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án và tính chất dân chủ,
minh bạch của pháp luật.
Có thể nói, những đúc kết cơ bản trên về nhà nước pháp quyền của các
triết gia, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng vĩ đại cho thấy, nhà nước pháp
quyền là một hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước trong
một “xã hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”. Giá trị của lý luận về nhà
nước pháp quyền trong lịch sử được thể hiện ở chỗ: coi nhà nước là tổ chức
công quyền chịu sự ràng buộc của pháp luật và thống nhất quản lý xã hội
bằng pháp luật, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và sự tùy tiện trong bộ
máy nhà nước và nhân viên của nó; coi cơng dân là chủ thể của “xã hội công
dân”, công dân là đối tượng phục vụ của nhà nước, nhà nước có trách nhiệm
với công dân và bảo đảm tự do của công dân trong khuôn khổ pháp luật, ngăn
ngừa sự xâm hại tự do của người khác và lợi ích của xã hội.
Các đặc điểm, tiêu chí của nhà nước pháp quyền có những mức độ thể
hiện khác nhau ở các quốc gia tùy thuộc và điều kiện cụ thể của mỗi đất nước.
Có thể nói về nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước, một trong những tiêu
chí quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền tư sản thì các nước cũng có
cách áp dụng khác nhau, khơng theo một khn mẫu chung. Có những nhà
nước tư sản áp dụng việc phân quyền một cách mềm dẻo (ở các nước theo
chính thể đại nghị, giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự phối hợp với nhau

13



và hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp); có những nhà nước áp
dụng phân quyền một cách cứng rắn (ở các nhà nước theo chính thể cộng hịa
tổng thống có sự độc lập của các cơ quan quyền lực, hành pháp không chịu
trách nhiệm trước lập pháp).
Như vậy, có thể thấy rằng khơng có một khn mẫu nhất định về nhà
nước pháp quyền để áp dụng cho mọi nhà nước tư sản với các hình thức nhà
nước khác nhau và càng khơng thể có một khn mẫu chung về nhà nước
pháp quyền áp dụng cho mọi nhà nước với những chế độ chính trị khác nhau.
1.2. Khái niệm, đặc trƣng và nội dung xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam
1.2.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được nguyên Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười nêu ra tại Hội nghị tư pháp toàn quốc năm
1989: “Hiện nay trên thế giới đang trở lại khái niệm nhà nước pháp quyền mà
nội dung quan trọng của nó là thừa nhận sự thống trị của pháp luật đối với xã
hội. Ở nước ta, có dùng khái niệm đó hay khơng thì tuỳ, các nhà khoa học nên
nghiên cứu” [36, tr.83]. Tiếp sau đó, tại Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành
Trung Ương Đảng khóa VII (1991), khái niệm nhà nước pháp quyền một lần
nữa được nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đề cập đến. Vậy nhà nước pháp
quyền là gì? Theo cách hiểu của các nhà lý luận Việt Nam, nhà nước pháp
quyền có những đặc trưng cơ bản nào?
Trong cuốn “Từ điển xã hội học” do Nguyễn Khắc Viện chủ biên viết:
“Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở dân chủ, đối lập với nhà nước độc
tài, chun chế tồn trị….Nhà nước pháp quyền khơng đồng nghĩa với nhà
nước cai trị bằng pháp luật….Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở “xã
hội công dân”... pháp luật là thước đo của tự do” [35, tr.135]. Đây là cách
hiểu bao quát, dễ hiểu về khái niệm nhà nước pháp quyền. Quan niệm này
đưa ra sự đối lập giữa nhà nước pháp quyền với nhà nước độc tài, chuyên chế


14


tồn trị mà điển hình là nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến,
một kiểu nhà nước mà quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều nằm trong tay
một hoặc một nhóm người. Tuy nhiên, cách hiểu này còn nặng về phương
diện xã hội học mà chưa quan tâm đến phương diện luật học, trong đó nhấn
mạnh hai điểm cơ bản là đảm bảo dân chủ và tự do mà chưa phản ánh được
tính tối thượng của pháp luật và vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề nhà nước pháp quyền thu hút sự tham gia
đông đảo của các nhà lý luận. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau
về khái niệm nhà nước pháp quyền.
GS.VS. Nguyễn Duy Quý cho rằng, một nhà nước được công nhận là
nhà nước pháp quyền khi đạt các tiêu chí: 1.Tơn trọng tính tối cao của luật; 2.
Lập pháp, hành pháp, tư pháp phân định rõ rệt nhằm kiểm sốt, kiềm chế
nhau; 3. Bảo đảm quyền cơng dân; 4. Thực hiện các cam kết quốc tế.
Nhóm tác giả cơng trình KX.04.01 đưa ra quan điểm “Nhà nước pháp
quyền khơng phải là một kiểu nhà nước. Đó là một nhà nước tồn tại, phát triển
và vận hành trong môi trường pháp luật, coi pháp luật là tối thượng” [24, tr.89].
GS.TSKH. Đào Trí Úc viết trong cuốn Mơ hình tổ chức và hoạt động
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước pháp quyền
là một khái niệm có thể được hiểu ở hai mức độ, với tính cách là học thuyết,
là tư tưởng và với tính cách là thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước,
thực thi dân chủ.... Chủ điểm của các tư tưởng, quan niệm, quan điểm về nhà
nước pháp quyền đều là vấn đề giá trị của pháp luật được thừa nhận đến đâu
trong xã hội” [31, tr.33-34]. Ở đây, tác giả đã nêu ra việc phân định hai cấp độ
lý luận và thực tiễn trong quan niệm về nhà nước pháp quyền, trong đó nhấn
mạnh khía cạnh giá trị xã hội của pháp luật, tức bản chất của nhà nước pháp

quyền được quy định bởi nội dung của hệ thống pháp luật mà trên đó nó được
xây dựng.

15


Trên cơ sở kế thừa tư tưởng các học giả trong và ngồi nước nhóm tác
giả Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Sĩ Dũng, Bùi Ngọc Sơn trong cuốn Quốc
hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền đã đưa ra nhận định: “Nhà nước
pháp quyền chỉ là một xã hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các quyền
tự nhiên, mọi chủ thể trong đó có cả nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật…
Nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước được phân tích trong mối
tương quan giữa nhà nước và pháp luật” [3, tr.26, 28].
Những nhận định trên tuy có những điểm khác biệt, song đều thống
nhất ở điểm cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước
(với ý nghĩa như cách phân loại của lý luận xã hội chủ nghĩa về 4 kiểu nhà
nước trong lịch sử) mà nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước, một
phương thức tổ chức quyền lực nhà nước tiến bộ mà bất kì nhà nước nào, thể
chế chính trị nào muốn đạt đến trình độ văn minh đều phải hướng tới. Giá trị
lịch sử của nhà nước pháp quyền là ở tính nhân văn, tôn trọng tự do và những
quyền cơ bản của con người. Bản chất của nhà nước pháp quyền được quy
định bởi hệ thống pháp luật và Hiến pháp.
Từ những quan điểm trên có thể hiểu Nhà nước pháp quyền Việt Nam
là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được tổ chức theo nguyên
tắc quyền lực là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát việc thực
hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp; nhà nước đề cao
vai trị của Hiến pháp và pháp luật; tơn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam
Nhà nước pháp quyền với tính cách là học thuyết về tổ chức và thực

hiện quyền lực nhà nước, là một giá trị, là tinh hoa của nhân loại có nguồn
gốc xa xưa, từ thời cổ đại có thể được áp dụng ở các nước trên cơ sở những
nét đặc trưng về văn hóa, chính trị, tư tưởng - pháp lý, truyền thống dân tộc.
Chính vì vậy việc áp dụng học thuyết nhà nước pháp quyền vào nước ta hiện

16


nay với những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là điều hồn tồn có thể được.
Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra được những đặc trưng cơ bản của nhà
nước pháp quyền Việt Nam với bản sắc dân tộc, truyền thống, văn hóa và
những điều kiện riêng của Việt Nam.
Từ thực tiễn xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, những đặc trưng cơ
bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân ngày càng
được định hình, có thể nêu lên một số đặc trưng cơ bản sau đây:
1.2.2.1. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Hơn nửa thế kỷ nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành năm bản Hiến
pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến
pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số
51/2001/QH10, ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X), Hiến pháp
năm 2013. Cả năm bản Hiến pháp trên đều khẳng định quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, mọi chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đều hướng tới mục đích phục vụ
nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân, như đã nói từ
trước đến nay vẫn cịn nhiều điều đáng bàn. Vì trong thực tế, có một bộ phận
khơng nhỏ cán bộ, công chức nhà nước đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để
xâm phạm quyền công dân, tham ơ, lãng phí. Vì nhiều lý do khác nhau, nhân
dân vẫn chưa được hưởng nhiều quyền lợi một cách trọn vẹn, chính sách xã

hội mà cụ thể là vấn đề bình đẳng, cơng bằng xã hội cịn bất cập, gây bất bình
trong dư luận xã hội.
Mặc dầu ở các nước phương Tây, phản biện xã hội đã trở thành hiện
thực, người dân có quyền biểu tình phản đối các chính sách của nhà nước nếu
các chính sách đó khơng phù hợp với nguyện vọng của họ. Những cuộc biểu
tình phản đối nhà nước như vậy được coi là hợp Hiến, được tổ chức chặt chẽ

17


và có sự tham gia của các tổ chức xã hội, sự bảo vệ của cảnh sát. Nhưng ở
Việt Nam, vấn đề vận động hành lang, trưng cầu dân ý, phản biện xã hội là
vấn đề chưa được đem ra bàn luận cơng khai mang tính pháp lý.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam chỉ trở thành nhà nước của dân, do
dân, vì dân khi: 1) Nhân dân trở thành chủ thể quyền lực nhà nước, họ có thể
tham gia vào các công việc lập pháp, hành pháp, tư pháp. 2) Nhân dân là chủ
thể các hoạt động bầu cử, ứng cử, tranh cử. Việc bầu cử, ứng cử là nhu cầu tự
thân của hoạt động quần chúng, là một phong trào chính trị diễn ra cơng khai,
minh bạch, tính chất bầu cử phải là hình thức phổ thơng đầu phiếu trực tiếp,
chứ không phải thông qua đại diện, đại biểu. 3) Nhân dân phải được chính
quyền đề cử một cách luân phiên giữ các chức danh bồi thẩm đoàn trong các
phiên xét xử của tòa án. Các vụ án phải được xét xử lưu động trong cộng
đồng dân cư với sự tham gia đông đảo của nhân dân và giới báo chí trong,
ngồi nước, chứ khơng phải nơi cơng đường nhà nước với sự bảo vệ một cách
nghiêm ngặt của cảnh sát. 4) Nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà
nước. Mọi chủ trương chính sách nhà nước phải được triển khai và thực hiện
theo nguyên tắc: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. 5) Các hoạt động
của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp phải diễn ra công khai thông qua
các phương tiện thơng tin đại chúng để nhân dân có thể theo dõi và bình luận
trực tiếp.

1.2.2.2. Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời
sống xã hội
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật,
đảm bảo tính tối cao, vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Đây là một đặc trưng nổi bật của nhà
nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói
riêng. Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính
trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến

18


pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo sự ổn
định của xã hội và sự an toàn của người dân.
Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước được tổ chức và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, các đạo luật có vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ và cơng dân
đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Khơng một ai đứng trên hoặc đứng ngồi pháp luật, đi ngược lại ý chí và lợi
ích của nhân dân. Khác với nhà nước cực quyền hay nhà nước pháp trị, việc
quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước pháp quyền dựa trên cơ sở một hệ
thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có giá trị pháp lý cao, phản ánh
nguyện vọng và ý chí của nhân dân, là chuẩn mực của dân chủ, tự do, công
bằng và nhân đạo.
Ở Việt Nam, xây dựng và hồn thiện Hiến pháp ln ln là phương
hướng quan trọng để thực hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của
nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội.
1.2.2.3. Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con
người, tất cả vì hạnh phúc của con người

Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Mọi hoạt động của nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và bảo
đảm quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của
mình theo đúng các qui định của luật pháp.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, do vậy, tư
tưởng “trọng dân” phải được quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động
của Nhà nước. Tư tưởng “trọng dân” hồn tồn khơng mâu thuẫn với đặc
trưng “trọng pháp”, “thượng tôn pháp luật” của nhà nước pháp quyền, trái lại
đây chính là nguyên lý dân chủ - pháp quyền tiến bộ đã được các nhà tư tưởng
pháp quyền như Rút xô, Môngtekiơ…xác định.

19


Có thể nói, quyền cơng dân là sự thể hiện cụ thể quyền con người.
“Quyền công dân là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ
xã hội - chính trị nhất định với một nền pháp luật cụ thể do nhà nước đó thừa
nhận, qui định” [14, tr.27]. Lịch sử đấu tranh cho quyền con người bắt đầu từ
lịch sử hình thành giai cấp, nhà nước và pháp luật. Chính vì vậy, cùng với sự
phát triển của xã hội, việc bảo đảm quyền con người, cụ thể hơn nữa là quyền
công dân ngày càng được coi trọng. Nó trở thành một đặc trưng của một xã hội
hồn thiện, nơi quyền con người, quyền cơng dân được bảo đảm đầy đủ.
Xuất phát từ mục tiêu trên, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân đã được đề cập ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Đây
không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các bản Hiến pháp
nước ta từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013
mà còn được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
ta từ trung ương tới địa phương.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về
phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mơ hình quan hệ giữa Nhà

nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước
chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ
những điều luật cấm.
1.2.2.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Ở Việt Nam, với một nền chính trị nhất nguyên, kể từ khi ra đời đến
nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam ln giữ vai trị lãnh đạo đất nước trong cơng
cuộc đấu tranh giành chính quyền, trong sự nghiệp đổi mới cũng như trong
việc xây dựng Nhà nước phâp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vai trò lãnh
đạo đất nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam được khẳng định trong Điều 4
Hiến pháp năm 2013: “Đảng Cộng Sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật”. Trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

20


×