Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Những nhận thức mới về công tác dân vận theo tinh thần nghị quyết đại hội XIII của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.1 KB, 14 trang )

1

Thứ nhất, khẳng định sâu sắc hơn tầm quan trọng
và yêu cầu cao hơn về mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng và nhân dân; về vai trò của nhân dân đối với
công tác xây dựng Đảng
Đại hội XIII của Đảng xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ là:
“Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” (1). Yêu cầu
này đã thể hiện nhận thức mới ở những điểm sau:
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ hữu
cơ, tất yếu được Điều lệ Đảng xác lập và Hiến pháp ghi nhận,
được thể hiện trên một số yếu tố cơ bản:
1- Chủ trương của Đảng hợp với nguyện vọng, ý chí,
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
2- Chính quyền các cấp cụ thể hóa chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tổ chức
thực hiện kịp thời, đúng đắn, có trách nhiệm phục vụ nhân
dân, vì đời sống của nhân dân;
3- Có sự tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đưa chủ trương,
chính sách đến với nhân dân, vận động nhân dân thực hiện;
4- Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức gương mẫu,
trách nhiệm trong thực thi công vụ và gần dân, giải quyết
các vấn đề bức xúc của nhân dân.
5- Nhân dân được tôn trọng, phát huy vai trị của mình
trong tham gia xây dựng, thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tham gia
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch,
vững mạnh. Những việc làm đó được thực hiện tốt sẽ góp
phần củng cố và gắn bó chặt chẽ hơn nữa quan hệ giữa


Đảng với nhân dân,...
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, “thắt chặt” mối quan hệ là
yêu cầu cao hơn, thể hiện mối quan hệ không chỉ bền chắc,


2

mà cịn gần gũi, khăng khít hơn. Đây là một nhận thức mới
hết sức đúng đắn, sâu sắc và hợp với quy luật phát triển.
Theo đó, để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy
đảng, hệ thống chính trị về cơng tác dân vận; có cơ chế phát
huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới. Đổi mới
nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, sử dụng có
hiệu quả các phương tiện thơng tin đại chúng, mạng xã hội
theo hướng thiết thực, tăng cường đồng thuận, củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa”(2) và “Phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân
trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên
cơ sở bảo đảm hài hịa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp
và nhân dân, giữa các vùng, địa phương; quan tâm đến các
đối tượng yếu thế trong xã hội...” (3); “Tiếp tục hoàn thiện và
thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác dân
vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu... Phê phán, xử lý
nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô
cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền,

nhũng nhiễu dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; sâu
sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng
nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng hợp pháp,
chính đáng của nhân dân”(4).
Hai là, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đưa cụm từ “Dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng” vào trong một đầu mục
(mục XIV.8), thể hiện nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trị
của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng trong tình
hình mới. Điều lệ Đảng (được thông qua tại Đại hội lần thứ XI


3

của Đảng) đã nêu yêu cầu “Dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng” và thực tế của quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là
thời kỳ đổi mới, Đảng ta ln xác định và thực hiện tốt phát
huy vai trị nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền; thơng qua một số nghị quyết, chỉ thị, quy định cụ thể
để nhân dân giám sát, như Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-21998, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở”; các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa
VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày
12-12-2013, của Bộ Chính trị, “Về việc Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”,... Điều đó cho
thấy sự nhận thức sâu sắc hơn, khẳng định ý nghĩa và đặt ra
yêu cầu cao hơn đối với việc phát huy vai trò của nhân dân
trong tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, tiếp tục khẳng định vai trò của nhân dân
và đề cao hơn nữa việc phát huy dân chủ xã hội chủ

nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân
Qua tổng kết lý luận và thực tiễn, Đại hội XIII xác định,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân với những điểm mới sau:
Quan điểm “dân là gốc”, “dân là chủ” và “dân làm
chủ” đã được Đảng ta quán triệt, vận dụng trong thực tiễn
cách mạng. Qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn đặt nhân dân là
chủ thể của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và coi
trọng vai trò của nhân dân. Đến Đại hội XIII của Đảng, do yêu
cầu phát triển đất nước ngày càng cao và trước bối cảnh
mới, vai trò của nhân dân cần được đề cao hơn; tư tưởng về
phát huy quyền làm chủ của nhân dân được hoàn thiện thêm
một bước mới. Nếu phát huy tốt vai trò giám sát của nhân
dân thì sẽ ngăn ngừa được từ sớm, từ xa những tiêu cực


4

trong xã hội. Nhân dân là người trực tiếp làm ra của cải vật
chất, tinh thần, thì nhân dân phải là chủ thể được thụ hưởng;
sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo là của nhân dân thì
người dân phải được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đó.
Đó là bản chất của chế độ ta và cũng là động lực để thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Việc bổ sung này cũng là bước
tiếp tục cụ thể hóa thực hành dân chủ theo tinh thần Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước cũng như mọi lợi ích đều
thuộc về nhân dân.
Hai là, đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân

dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong tồn bộ q
trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng đã
bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn
lực con người: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con
người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và
mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt
Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh
thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà
nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần và hạnh phúc của nhân dân”(6).
Ba là, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”.
Thứ ba, tiếp tục khẳng định tầm quan trọng và yêu
cầu mới, cao hơn về chiến lược “phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc”
Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục xác định, “phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”, trong đó bổ sung nhiều
điểm mới:


5

Một là, ở chủ đề Đại hội XII của Đảng, thành tố thứ hai
của chủ đề là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”; đến chủ đề
Đại hội XIII của Đảng, thành tố thứ hai được bổ sung và yêu
cầu cao hơn là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát
huy ý chí, sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc, kết hợp với
sức mạnh thời đại”. Rõ ràng, đây là một nhận thức mới, hết

sức quan trọng, đúng đắn, mang tính dân tộc và thời đại, là
yêu cầu rất cao, để tiếp tục đáp ứng được đòi hỏi của sự
nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng trong tình hình
mới.
Hai là, về tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết
toàn dân tộc, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định đây là
một quan điểm, chủ trương lớn và bổ sung trong quan điểm
về động lực phát triển; qua đó, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con
người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực để phát triển.
Ba là, đối với các tầng lớp nhân dân, Đảng đã khái quát,
khẳng định quan điểm chung nhất, mọi hoạt động của hệ
thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức
phải phục vụ lợi ích của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giải
quyết hài hịa các quan hệ lợi ích xã hội.
Bốn là, về lãnh đạo đối với từng giai cấp, tầng lớp, căn cứ
yêu cầu của tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung
những quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp trong điều kiện mới,
như:


6

1- Giai cấp công nhân. Đổi mới tổ chức và hoạt động của

tổ chức cơng đồn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu,
nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế...
Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức
của công nhân tại doanh nghiệp ngồi tổ chức cơng đồn
hiện nay.
2- Giai cấp nông dân. Huy động và phát huy mọi nguồn
lực từ nông dân, nông thôn cùng với các nguồn lực khác để
thực hiện thành cơng mơ hình nơng nghiệp sinh thái, nông
thôn hiện đại và nông dân văn minh;
3- Đội ngũ trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với
nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình
độ chun mơn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các
nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì
các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng;
4- Đội ngũ doanh nhân. Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn
mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho
dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ
quản trị, kinh doanh giỏi;
5- Thế hệ trẻ. Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lịng u
nước, tự hào dân tộc, ni dưỡng ước mơ, hoài bão, khát
vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất
nước, xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao
động, giải trí, rèn luyện để thế hệ trẻ phát triển lành mạnh,
toàn diện, hài hịa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ;
6- Tầng lớp phụ nữ. Phát huy truyền thống, tiềm năng,
thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các
tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại
mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế;



7

7- Đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo đảm các dân tộc bình
đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Huy
động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để
đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn
hóa, xã hội ở vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số,... Có
cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng
bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
giảm nghèo đa chiều, bền vững;
8- Đồng bào theo tôn giáo. Vận động, đồn kết, tập hợp
các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp
đạo”,... Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và
các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất
nước;
9- Người Việt Nam ở nước ngoài. Tạo điều kiện để đồng
bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao
lịng tự hào, tự tơn dân tộc. Làm tốt cơng tác thơng tin tình
hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức

Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu trọng
tâm thứ nhất về phát triển đất nước là tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, đưa ra giải pháp: “Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung
và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ

chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ
sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện
xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đồn viên, hội viên và nhân dân, làm cầu nối quan trọng giữa
Đảng và nhân dân. Củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó


8

của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa”(7).
Trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: “Tăng cường vai trò nịng cốt chính trị,
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp,
vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh”; thực hành dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội... Xây dựng thế trận lịng dân, phát
huy sức mạnh đồn kết, đồng thuận của nhân dân trong và
ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8).
Thứ tư, khẳng định rõ hơn và đề cao hơn trách
nhiệm với nhân dân và hiệu quả thực hiện cơng tác
dân vận của các cơ quan hành chính nhà nước
Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động; “lấy quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm
trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát
triển nhanh, bền vững”, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại

biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất,... phát huy dân chủ; tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân;... Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân”(9).
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý
các bộ đa ngành, đa lĩnh vực. “Xây dựng nền hành chính nhà


9

nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên
nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh
bạch”(10). “Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương”(11); tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm
tiến bộ và cơng bằng xã hội, tính bền vững trong các chính
sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh
con người. “Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính
sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững,
hài hòa”(12). Đây là sự tiếp nối nhất quán nhận thức của Đảng
về vai trị, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giải quyết
các vấn đề xã hội, như một nội dung quan trọng vì mục tiêu
phát triển con người. Đó cũng là hạt nhân của định hướng xã
hội chủ nghĩa trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
thể hiện tính ưu việt của chế độ ta là chế độ của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân.
Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chun nghiệp,

hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. “Tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ
nhân dân và sự phát triển của đất nước”... “có cơ chế sàng
lọc, thay thế kịp thời những người khơng hồn thành nhiệm
vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề
nghiệp, bị xử lý kỷ luật, khơng cịn uy tín với nhân dân” (13).
Tiếp tục phát triển quan điểm từ Đại hội XII, đến Đại hội XIII
của Đảng về xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh, nội
dung đã rõ nét hơn, tồn diện hơn. Theo đó, cơng tác dân
vận trong lực lượng vũ trang là nhằm góp phần xây dựng và
phát huy “thế trận lòng dân”, cùng với xây dựng, củng cố
vững chắc thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh
nhân dân.


10

Thứ năm, nhận thức rõ và khẳng định ý nghĩa, tác
dụng của phong trào thi đua “Dân vận khéo”
Lần đầu tiên, một kỳ đại hội của Đảng đã đưa phong trào
thi đua “Dân vận khéo” vào Văn kiện đại hội. Đại hội XIII của
Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực
hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”, tuyên truyền,
biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về cơng tác
dân vận”(14).
Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được Ban Dân vận
Trung ương đề xuất và phát động vào những năm cuối thập
niên thứ nhất của thế kỷ XXI, được các cấp ủy đảng quan
tâm thực hiện và được hệ thống dân vận các cấp triển khai

thực hiện khá hiệu quả, tạo sức lan tỏa sâu rộng tới cả hệ
thống chính trị; với nhiều mơ hình, cách làm hay, thiết thực,
đã tạo ra hàng nghìn điển hình tiên tiến mỗi năm, đóng góp
tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thơn mới;
bảo đảm quốc phịng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền
ở cơ quan, địa phương, đơn vị. Từ năm 2013, thực hiện Nghị
quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã
chính thức đưa phong trào thi đua “Dân vận khéo” thành
nhiệm vụ, giải pháp để các cấp ủy đảng lãnh đạo và hệ
thống chính trị tổ chức thực hiện.
Có thể khẳng định rằng, việc Đại hội XIII của Đảng bổ
sung khá phong phú, toàn diện nhận thức mới, nội dung mới
về công tác dân vận của Đảng là hết sức đúng đắn, sâu sắc,
phù hợp. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng với những nhận thức mới về công tác dân vận, cần cụ
thể hóa thành chương trình, kế hoạch, nhất là cụ thể hóa
những nội dung mới để thực hiện có hiệu quả, góp phần


11

quan trọng đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân; thắt chặt mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy cao độ nguồn lực, sức
mạnh của nhân dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới,
tiếp tục xây dựng đất nước phát triển, xã hội phồn vinh, hạnh

phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa./.
--------------(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
t.
I,
tr.
191,
191
(3), (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Sđd, t.
I,
tr.
191
192,
192
193
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn
phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 167
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I,
tr.
215
216
(7), (8), (9), (10), (11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 43, 172, 175 - 176, 176, 287,
148
(13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Sđd, t. I, tr. 178 - 179, 193
Tuy nhiên, cơng tác dân vận có nơi, có lúc kết quả cịn
hạn chế; cơng tác vận động, tuyên truyền chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có nơi hiệu
quả thực hiện chưa cao; việc nắm bắt, đánh giá, dự báo tình
hình ở một số địa phương, cơ sở chưa sâu sát; chưa kịp thời
giải quyết những bức xúc và các nguyện vọng hợp pháp,
chính đáng của nhân dân; từ đó, làm ảnh hưởng đến lòng tin
và mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng. Bên cạnh đó, vẫn
cịn một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thối về tư


12

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng, làm
ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và gây bức xúc trong quần
chúng nhân dân. Công tác xây dựng Đảng tuy đạt được
nhiều kết quả quan trọng, nhưng một số nơi vẫn chưa thực
sự phát huy hết vai trò của nhân dân, chưa tạo cơ chế để
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, nên hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ “then chốt” ở những nơi này còn thấp.
Trong các giai đoạn cách mạng, do cả nguyên nhân chủ
quan và khách quan, có chủ trương chậm được thể chế hóa
và khi thực hiện cịn sai sót, chậm đến được với nhân dân;
một số cán bộ, đảng viên còn biểu hiện quan liêu, tiêu cực,
xa dân,... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Nhưng có thể khẳng định
một cách chắc chắn rằng, trong q trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta ln quan tâm gìn giữ và tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Điều đó được thể
hiện qua nghị quyết của các kỳ đại hội và nhiều nghị quyết
chuyên đề, chỉ thị, quy định,... về vấn đề này. Thực tế, qua
từng thời kỳ cách mạng, mối quan hệ này đã không ngừng

được tăng cường, củng cố và ngày càng bền chắc. Song,
cũng phải thấy rằng, khoảng cách giữa Đảng với nhân nhân
dân cần phải được rút ngắn hơn nữa, gần nhau hơn nữa, để
đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất
nước, hội nhập quốc tế sâu rộng.
Từ khẳng định của Đại hội XII của Đảng: “Quyền làm chủ
của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện,
nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế” (5) cho thấy, quyền
làm chủ của nhân dân đã được phát huy cao hơn trong việc
tham gia quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất
nước. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân
được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. Tuy nhiên, dân chủ hóa


13

trong một số lĩnh vực còn chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ và
chưa theo kịp yêu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế
sâu rộng. Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về dân
chủ chưa đúng mức; việc tổ chức thực hiện còn hạn chế, có
lúc, có nơi cịn hình thức; ở một số nơi, quyền làm chủ của
nhân dân còn bị vi phạm; ngược lại, có nơi cịn hiện tượng lợi
dụng dân chủ để vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Điều này đòi hỏi
phải tiếp tục hồn thiện quan điểm, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ, cũng như
cần đẩy mạnh đổi mới việc tổ chức thực hành dân chủ trong
thời gian tới.
Nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đã phát huy tốt sức mạnh
khối đại đoàn kết tồn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai

cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức do
Đảng lãnh đạo. Hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện ngày càng tốt hơn vai
trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tập hợp, vận động đơng
đảo nhân dân vào khối đại đồn kết, đẩy mạnh các phong
trào thi đua yêu nước; huy động các nguồn lực, tiềm năng,
sự sáng tạo trong nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, còn một số vấn đề bức xúc về đời sống, việc
làm, môi trường, thiên tai, dịch bệnh, nhất là một số vụ việc
phức tạp chậm được giải quyết, gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự xã hội; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chậm
được đẩy lùi,... đã tác động khơng tốt đến tư tưởng, lịng tin
của một bộ phận nhân dân, làm ảnh hưởng đến việc phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, tuy đã có
nhiều đổi mới, tích cực là cơ bản, song tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã


14

hội vẫn còn những hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới. Ở một số nơi còn chưa kịp thời nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức xúc của
nhân dân; việc tuyên truyền, tập hợp, thu hút nhân dân
tham gia một số phong trào, cuộc vận động chưa thực sự đi
vào chiều sâu; công tác giám sát, phản biện xã hội và góp ý
xây dựng Đảng, chính quyền có kết quả còn hạn chế; một số

vụ việc phức tạp chậm được giải quyết, làm ảnh hưởng đến
trật tự, an toàn xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.



×