Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thứ trưởng với việc hoạch định chính sách vĩ mô trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.22 KB, 7 trang )

THỨ TRƯỞNG VỚI VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH VĨ MƠ
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
TS. Đỗ Thị Kim Tiên
Học viện Hành chính Quốc gia
Tóm tắt: Hoạch định chính sách vĩ mơ là một trong những chức năng không thể thiếu
trong hoạt động quản lý nhà nước. Theo quy định của pháp luật, có nhiều chủ thể tham gia
vào hoạch định chính sách vĩ mơ. Với tư cách là người lãnh đạo, điều hành và chịu trách
nhiệm trước Bộ trưởng về các nội dung chính sách, Thứ trưởng chính là chủ thể có quyền
hoạch định chính sách, quyết định chính sách, và chịu trách nhiệm về các quyết định xây
dựng chính sách của mình. Trong nghiên cứu này sẽ bàn về nhiệm vụ quyền hạn của Thứ
trưởng trong hoạch định chính sách vĩ mơ; phân tích thực trạng hoạch định chính sách vĩ mơ
tại các Bộ, ngành và chỉ ra những tác động của kinh tế thị trường đến hoạch định chính sách
và những gợi mở cho hoạch định chính sách vĩ mơ của các Thứ trưởng.
1. Thứ trưởng - chủ thể hoạch định chính sách vĩ mơ
Chính sách là khái niệm khơng thống nhất. Trên thế giới có nhiều cách diễn đạt khác
nhau về chính sách và chính sách cơng. Richard C. Remy quan niệm "chính sách là phương
thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp
đi lặp lại [1]. Có những quan điểm lại cho rằng, chính sách liên quan đến những tuyên bố,
hành động mang tính quyền lực nhà nước, dựa trên giả thuyết về nguyên nhân và kết quả,
nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề công, hay thúc đẩy các giá trị ưu tiên1. Các nghiên cứu
về chính sách hầu hết đều gắn với nhà nước và đồng nhất chính sách với chính sách cơng.
Trong thực tế thì, mọi chủ thể xã hội đều có thể có chính sách của mình. Tương ứng với sự
tồn tại của các tổ chức công và tổ chức tư có các chính sách cơng và chính sách của khu vực
tư. Theo Oxford English Dictionary, chính sách công là một đường lối hành động được thông
qua hoặc theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị, chính khách. Chính sách nhà nước bao
gồm hệ thống chính sách của trung ương và địa phương. Các chính sách vĩ mô do cơ quan
quản lý nhà nước ở Trung ương ban hành, có phạm vi tác động đến tồn nền kinh tế - xã hội
và có tính áp dụng chung. Một chính sách như vậy được ra đời thơng qua việc hoạch định
chính sách của các chủ thể có thẩm quyền theo luật định.
Hoạch định chính sách (policy-making) được hiểu là hành động làm ra (ra quyết định)
chính sách hay xây dựng chính sách, hình thành chính sách, hoặc làm chính sách. Hoạch định


chính sách khơng đồng nhất với q trình hoạch định chính sách (policy-making process). Tại
nhiều quốc gia trên thế giới, người làm cơng việc phân tích chính sách chưa chắc là chủ thể
hoạch định chính sách - theo nghĩa trực tiếp ra quyết định thơng qua chính sách, nhưng có thể
1

Tham khảo các định nghĩa phổ biến, như của Lasswell (Xem: Lasswell (1951), The policy orientation, in
Lerner & Lasswell (eds), The Policy Sciences, pp. 3-15, Stanford University Press); Anderson (Anderson (1994),
Public policymaking, Princeton); Considine (Considine (1994), Public policy: A critical approach, Macmillan,
Melbourne), Dye (Dye (1972), Understanding public policy, Prentice-Hall).

18


tham gia vào q trình hoạch định chính sách, góp phần phân tích, thiết kế, hình thành nên các
đề xuất chính sách, trước khi nó được thơng qua [2]. Vì vậy, cũng cần phân biệt giữa chủ thể
hoạch định chính sách với chủ thể tham gia hoạch định chính sách.
Tại Việt Nam, hoạch định chính sách vĩ mơ là khâu đầu tiên của q trình chính sách,
gắn với việc xây dựng vấn đề chính sách và các giải pháp giải quyết vấn đề. Bản chất của hoạt
động này là việc các chủ thể được phân công thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất ra một
chính sách và ban hành chính sách đó. Giai đoạn này sẽ quyết định sự ra đời của chính
sách[3]. Hoạch định chính sách vĩ mơ là một trong những chức năng không thể thiếu trong
hoạt động quản lý nhà nước. Bất luận trong cơ chế kế hoạch hố tập trung hay cơ chế thị
trường thì hoạt động hoạch định chính sách cũng vẫn phải diễn ra, nhằm tạo dựng công cụ,
làm căn cứ quản lý của cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để phúc đáp được yêu cầu của
thực tiễn, ở những nấc thang phát triển khác nhau của kinh tế thị trường, yêu cầu việc hoạch
định chính sách cũng cần thay đổi.
Luật Ban hành văn bản (2015), Luật Tổ chức Chính phủ (2015), Luật Cán bộ, công
chức (2008) và các luật chuyên ngành xác định rõ vai trị xây dựng chính sách của các bộ, cơ
quan ngang bộ. Theo đó, Bộ và cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh

vực trong phạm vi toàn quốc. Bộ trưởng là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu Bộ, lãnh
đạo công tác của Bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ
chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực được giao trong
phạm vi toàn quốc. Bộ trưởng làm việc theo chế độ thủ trưởng và Quy chế làm việc của Chính
phủ, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong phạm vi quyền hạn được giao, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quyết định phân cơng nhiệm vụ cho Thứ trưởng, Phó Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ (gọi chung là Thứ trưởng). Thứ trưởng giúp Bộ trưởng thực hiện một hoặc
một số nhiệm vụ cụ thể do Bộ trưởng phân công và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng, trước
pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Khi Bộ trưởng vắng mặt, một Thứ trưởng được Bộ
trưởng ủy nhiệm thay Bộ trưởng điều hành và giải quyết công việc của Bộ [4].
Để giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với những ngành, lĩnh
vực được giao, Thứ trưởng được Bộ trưởng phân công phụ trách những lĩnh vực chuyên môn,
quản lý, điều hành một số Cục, Vụ, địa phương. Trong phạm vi lĩnh vực được phân công, Thứ
trưởng sẽ lãnh đạo, điều hành các Cục, Vụ chuyên môn thực hiện các hoạt động quản lý nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu là hoạch định chính sách
liên quan lĩnh vực quản lý của Bộ để trình Chính phủ. Khơng chỉ là nhà chun môn, tham
mưu cho Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực nhất định, Thứ trưởng còn là uỷ viên Ban Cán sự
Đảng, thành viên lãnh đạo Bộ, ngành. Do đó, Thứ trưởng cũng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của nhà lãnh đạo, tham gia lãnh đạo thực hiện thể chế, chính sách, chiến lược phát triển của
Bộ, ngành. Với tư cách là người lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về
các nội dung chính sách, Thứ trưởng chính là chủ thể hoạch định chính sách, có quyền quyết
định và chịu trách nhiệm về các quyết định xây dựng chính sách của mình. Hoạch định chính
sách vĩ mơ phải trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực trạng, nghiên cứu khoa học, xây dựng nội
dung chính sách, đánh giá tác động chính sách, tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động
của chính sách, các bộ liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp,...

19


tổng hợp, tiếp thu giải trình trước khi trình Chính phủ. Chính sách được hoạch định để trình

Chính phủ bao gồm nhiều loại, như: các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội; dự án
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính
phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Chính phủ và các nghị
quyết, dự án, đề án theo phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, Bộ
cũng có trách nhiệm trình Chính phủ có ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh do các cơ quan, tổ
chức, đại biểu Quốc hội trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội liên quan đến ngành, lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Ban hành thông tư và các văn bản khác về quản lý nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ [5].
2. Thực trạng hoạch định chính sách vĩ mô tại các Bộ, ngành
Với chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, các chính sách vĩ mơ được hoạch định
trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, giúp Nhà nước kiểm soát được lĩnh
vực trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, đã xuất hiện
những chính sách đáp ứng cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị
trường, có tính ứng phó với những tác động của khủng hoảng kinh tế như: chính sách kích
cầu, chính sách tiền lương, chính sách điều chỉnh lãi suất cho vay ngân hàng, chính sách mang
ngoại tệ, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân,… Tuy nhiên, vẫn có khơng ít chính
sách phản ánh năng lực dự báo yếu, kém hiệu lực, hiệu quả. Thực tế cho thấy, còn nhiều quy
định trong các đạo luật, mà tiền thân là các chính sách do các Bộ, ngành soạn thảo và trình
Chính phủ đã được Quốc hội thông qua, các Nghị định của Chính phủ do các Bộ soạn thảo,
Thơng tư của các Bộ được ban hành chưa đảm bảo chất lượng, cản trở phát triển. Những bất
cập về chính sách có thể đến từ nhiều ngành, lĩnh vực, thậm chí có trách nhiệm của liên Bộ,
ngành. Chẳng hạn như chính sách đầu tư xây dựng theo hình thức BOT. Chính sách này
không phân biệt đâu là các yếu tố nguồn lực, đâu là động lực phát triển kinh tế và đâu là lĩnh
vực sản xuất kinh doanh. Cần thấy rằng, giao thông là điều kiện để phát triển kinh tế nhưng
đang bị biến thành nơi làm kinh tế. Trong ngành giáo dục, chính sách xã hội hố giáo dục đã
biến thành nơi kinh doanh giáo dục, như chính sách cho phép tư nhân thành lập đại học tư
thục để thu lợi nhuận, chia cổ tức. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, chính sách
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng chưa phát huy vai trò hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là hỗ
trợ vốn vay và vấn đề khởi sự doanh nghiệp cơng nghệ. Chính sách về dạy thêm, học thêm;
chính sách về điểm thưởng thi đại học,... của ngành Giáo dục và Đào tạo được quy định giản

đơn, thiếu phân tích, đánh giá tác động mơi trường cũng gây ra nhiều tranh luận về tính khả
thi của nó. Chính sách thu hút đầu tư nước ngồi thiếu đánh giá, chọn lọc, chưa tính tốn được
lợi ích và chi phí, để lại cho nền kinh tế những thiệt hại về mơi trường, về thất thốt nguồn lực
(chuyển giá, trốn thuế,..). Đặc biệt, chính sách khai thác, sử dụng tài nguyên đất, việc xác định
giá đất xa rời thị trường không chỉ làm thiệt hại cho ngân sách mà đang làm sai lệch nghiêm
trọng thị trường.
Trong kinh tế thị trường, với tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ (thời đại cách
mạnh 4.0) làm thay đổi lực lượng sản xuất, đang làm xuất hiện nhiều yếu tố mới, địi hỏi có
luật để quản lý. Tuy nhiên, bên cạnh những chính sách chưa phản ánh được bản chất, yêu cầu
của kinh tế thị trường, Việt Nam cũng còn bỏ trống nhiều lĩnh vực, tạo kẽ hở, gây lúng túng
trong quản lý. Các khoảng trống chính sách chưa được hoạch định là rất lớn, trong đó có thể

20


kể đến như vấn đề về quyền an sinh xã hội đối với lao động di cư (người làm giúp việc gia
đình), vấn đề quản lý thuế (chống chuyển giá, trốn thuế của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi), vấn đề quản lý tài nguyên đất đai với tình trạng hàng loạt công dân Việt Nam đứng tên
cho người Trung Quốc mua đất tại Việt Nam.
Thực tế đó địi hỏi nhà hoạch định chính sách vĩ mơ cần trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ
năng, có bản lĩnh chính trị và đạo đức công vụ để cho ra đời những chính sách hiệu quả, phúc
đáp các yêu cầu thực tiễn, phù hợp với mục tiêu lựa chọn kinh tế thị trường làm động lực thúc
đẩy cạnh tranh, phát triển.
Hộp 1. Suy nghĩ về đại học tư tại Việt Nam - GS. Trần Văn Thọ
Đọc báo mấy ngày hôm nay (đầu tháng 8/2014) tơi lại buồn cho tình hình đại học tư
thục ở Việt Nam.
Theo những gì đọc được trên báo liên quan đến một đại học nổi tiếng mà tơi đã có
dịp đến giảng một buổi trong ngày khai giảng thì đang có sự tranh chấp giữa các cổ đơng
góp vốn xây dựng trường và giữa những người góp vốn với hội đồng quản trị và ban giám
hiệu. Nội tình của đại học này tơi khơng rõ, nhưng có một điểm đã rõ và làm tơi chú ý. Đó

là các cổ đơng có vốn chi phối muốn quy định mức cổ tức là 30%, và mức cổ tức hiện hành
là 20%.
Con số 30% hay 20% đều làm tôi rất ngạc nhiên và đây là động cơ thúc đẩy tôi viết
bài này. Dù là 20%, một tỷ lệ tiền lời cao hơn rất nhiều (gấp khoảng 3 lần lãi suất ngân
hàng) so với lãi suất tiền gửi ở ngân hàng, cũng đủ để nói rằng những người góp vốn cho
đại học khơng phải vì sự nghiệp giáo dục, mà nghiêng về mục đích kinh doanh. Mà kinh
doanh trên giáo dục là chuyện đáng buồn, cần phải tránh nếu muốn đất nước phát triển. Đại
học này là một trong những đại học tư được xã hội đánh giá cao nên ta có thể hình dung
tính chất kinh doanh ở đại học khác cịn mạnh hơn nữa.
Nếu dạy học đàng hồng, cho tốt nghiệp người đủ tiêu chuẩn, ít nhất đủ trình độ
trung bình của của thế giới thì khơng thể nào có lời trong hoạt động đại học, mà ngược lại
hoạt động này bị lỗ nên Nhà nước phải hỗ trợ. Phải như vậy mới thấy vai trò, trách nhiệm
của Nhà nước, của cá nhân hoặc đoàn thể mở đại học tư. Cần nhấn mạnh một điểm nữa là
những người có vốn muốn kinh doanh nên tránh xa lĩnh vực giáo dục và Nhà nước phải có
cơ chế để những người đó khơng kinh doanh được trong giáo dục.
Theo kinh nghiệm trước đây của một nước bây giờ phát triển như Nhật Bản, một
hoạt động tư ra đời và hoạt động để thực hiện sứ mệnh giáo dục phải có những đặc điểm,
điều kiện sau:
Thứ nhất, người sáng lập thường là nhà văn hố, hoặc chính trị gia hay nhà doanh
nghiệp đã về hưu những có hồi bão đóng góp vào sự nghiệp khai dân trí. Họ bỏ tài sản cá
nhân vào sự nghiệp này hoặc vận động xã hội ủng hộ tài chính. Đại học cũng có hạch tốn
kinh doanh để đảm bảo sự bền vững về mạt tài chính cho đại học nhưng khơng chia lời cho
người góp vốn.
Thứ hai, mức học phí ở đại học tư thục cao hơn khu vực cơng nhưng khơng thể có
lời để chia cho người góp vốn. Ngược lại, tổng thu từ học phí khơng đủ trang trải chi tiêu
thường xun nên Nhà nước phải hỗ trợ và lãnh đạo đại học tiếp tục vận động xã hội đóng
góp vơ vụ lợi [6].

21



3. Tác động của kinh tế thị trường đến hoạch định chính sách vĩ mơ và những gợi
mở về hoạch định chính sách vĩ mơ ở Việt Nam
Thị trường là hình thái tổ chức nơi mà người sản xuất và tiêu dùng gặp nhau để trao
đổi. Đặc tính cơ bản của thị trường là cạnh tranh và tự do tham gia. Không chỉ các quy luật
kinh tế cơ bản tác động trực tiếp, mà từ các quy luật này (quy luật cạnh tranh, quy luật cung
cầu, giá cả,..), đã phát sinh những quy luật mới, tạo ra những ngoại ứng tích cực cần được tận
dụng, phát huy, những tiêu cực cần được dự liệu trước, có giải pháp khắc phục. Những đặc
tính về cạnh tranh, tạo động lực phát triển, hay tính linh hoạt, biến đổi nhanh của thị trường,
nhất là trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ,... đều có tính hai mặt, cần được nhận
diện và ứng dụng vào hoạch định chính sách. Ngồi các tình huống nêu trên, những tác động
của kinh tế thị trường có thể cho tạo ra những vấn đề dễ quan sát thấy là:
- Kinh tế thị trường gắn với lợi ích cá nhân, thực dụng, trong đó, các cá nhân ít quan
tâm đến lợi ích dài hạn. Cá nhân tham gia hoạch định chính sách có thể vào tình huống xung
đột lợi ích (lợi ích cơng - tư, tham nhũng,...) có thể làm sai lệch chính sách, chính sách có lợi
cho nhóm lợi ích, sức sống ngắn hạn của chính sách - "chính sách theo nhiệm kỳ".
- Tự do kinh doanh, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh, mạnh, có tiềm lực kinh
tế lớn, thách thức quản lý nhà nước, có thể vượt qua tầm kiểm sốt của Nhà nước.
- Mâu thuẫn giữa phát triển nhanh và phát triển bền vững, có thể đe doạ mơi trường,
việc duy trì bản sắc văn hoá, du nhập các sắc thái văn hố đa chiều cạnh.
- Kinh tế thị trường có tính năng động, được kích hoạt bởi tự do cạnh tranh, thúc đẩy
sáng tạo.
- Kinh tế thị trường làm xuất hiện nhiều lĩnh vực mới với tốc độ nhanh, đa dạng, thách
thức quản lý nhà nước, trong đó cơng tác hoạch định chính sách trong việc đảm bảo cho chính
sách đáp ứng nhanh, kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Không thể phủ nhận về việc đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo về cơ
bản trật tự an tồn xã hội, nhưng nhiều chính sách do các Bộ, ngành hoạch định chưa khả thi,
thiếu tính tiên liệu và ổn định đều bắt nguồn từ những nguyên nhân như:
- Thiếu nền tảng lý luận cho việc hoạch định chính sách vĩ mơ. Khoa học chính sách ở
Việt Nam chưa phát triển, nhiều khái niệm thiếu rõ ràng.

- Thứ hai, sự vận động của các quy luật thị trường tạo ra những yếu tố phái sinh,
những góc khuất của kinh tế thị trường hiện đại chưa được giải thích, làm rõ và tính hết vào
tác động của chính sách.
- Hoạch định chính sách vẫn được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà nước, chưa
coi đó là công việc chung của xã hội, của các doanh nghiệp, người dân và các tổ chức xã hội,
đoàn thể.
- Thiếu vận dụng các kỹ thuật hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách. Chính sách phải
được hoạch định dựa trên bằng chứng. Áp dụng phương pháp kinh tế, tính tốn lợi ích, chi
phí, kiến thức liên ngành khi phân tích đánh giá và lựa chọn chính sách.
- Vận động chính sách (lobby) chưa được chính thức thừa nhận ở phương diện luật
pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm
ảnh hưởng đến tính cơng bằng của chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội.

22


Nhận định và khuyến nghị:
- Thứ nhất, việc tạo ra những chính sách khơng khả thi, kém hiệu quả có mối quan hệ
với nhận thức và giải thích về thực tiễn kinh tế thị trường. Khác với kinh tế kế hoạch, kinh tế
thị trường là phi tập trung, linh hoạt, thực tế và có thể thay đổi được. Do đó hoạch định chính
sách vĩ mơ cần phải hướng tới quản lý theo đầu ra, quản lý phải gắn với có sản phẩm và đo
lường được chất lượng sản phẩm. Vì vậy, hoạch định chính sách y tế, giáo dục, hay tài
nguyên, môi trường,… cần phải dựa trên những bằng chứng, có tính tốn lợi ích và chi phí,
lợi ích phải vượt qua chi phí. Các lợi ích ở đây khơng chỉ là lợi ích vật chất trước mắt, mà bao
gồm cả những lợi ích phi vật chất và phản ánh được mục tiêu phát triển bền vững.
- Thứ hai, kinh tế thị trường mang tính thực tiễn, nhưng nó cũng dựa trên các nguyên
tắc cơ bản của tự do cá nhân. Sự tự do này thể hiện ở quyền tự do, tự chủ kinh doanh, trong cơ
hội lao động, tìm kiếm việc làm, tham gia cơng đồn hay thay đổi chủ sử dụng lao động,...
Điều đó khẳng định về quyền tự do, về những cơ hội và cả những thách thức, rủi ro cho cá
nhân. Do đó, việc hoạch định chính sách vĩ mơ cũng cần chú ý để phát huy thế mạnh của dân

chủ, huy động sự tham gia góp ý kiến, phản biện, thúc đẩy tự do sáng tạo của cá nhân gắn với
thúc đẩy phát triển con người cá nhân.
- Thứ ba, kinh tế thị trường được khẳng định vẫn có bất bình đẳng, bất cơng và lạm
dụng, nhưng thế mạnh của cạnh tranh, dân chủ có thể tạo ra những doanh nghiệp hiện đại, có
ý chí kinh doanh, thúc đẩy phát triển và đem lại sự thịnh vượng cho các cá nhân và xã hội. Do
đó, trong chủ trương về một Chính phủ kiến tạo phát triển, địi hỏi chính sách phải có tính tiên
liệu, sẵn sàng đi trước, đón đầu, khơng đợi doanh nghiệp, người dân và xã hội lên tiếng về
khoảng trống chính sách mới hoạch định. Điều đó chỉ có được ở những nhà hoạch định chính
sách có kiến thức chun mơn (sâu), kiến thức liên ngành (rộng), hiểu rõ bản chất kinh tế thị
trường hiện đại, hiểu rõ cơ chế tác động của kinh tế thị trường và yêu cầu đặt ra cho hoạch
định chính sách trong điều kiện thực tiễn ln biến đổi.
Kết luận
Hoạch định chính sách vĩ mơ trong KTTT là một trong những chức năng quan trọng
nhất của quản lý nhà nước mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải thực hiện. Nghiên cứu về hoạch
định chính sách vĩ mô hiện nay không thể tách rời việc xác định vai trị của Nhà nước trong
nền KTTT. Thực tế, có nhiều nghiên cứu đã đề cập đến vai trò của Nhà nước trong nền
KTTT. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này đều chỉ xem xét vai trò của Nhà nước về kinh
tế trong nền kinh tế thị trường. Điều đó là phiến diện vì quản lý nhà nước dù trong nền kinh tế
kế hoạch hay kinh tế thị trường thì ngồi mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế, Nhà nước còn
phải đảm bảo sự ổn định về an ninh, chính trị, trật tự, an tồn xã hội, phát triển văn hoá, y tế,
giáo dục,… Tức là phải chú ý đến quản lý nhà nước đối với tất cả các ngành, các lĩnh vực
trong kinh tế thị trường. Chính vì thế, nghiên cứu "hoạch định chính sách vĩ mơ trong điều
kiện kinh tế thị trường" phải có cách tiếp cận khác, thể hiện được bản chất, ý nghĩa của nó.
Hoạch định chính sách vĩ mơ trong điều kiện kinh tế thị trường là đặt việc xây dựng chính
sách đối với tất cả các ngành, các lĩnh vực vào bối cảnh, điều kiện kinh tế thị trường để nhận
diện những tác động từ các quy luật kinh tế khách quan, xác định yêu cầu, nhiệm vụ cần thiết
để đưa cuộc sống vào chính sách, đảm bảo chính sách sau khi ra đời đạt được hiệu lực, hiệu
quả. Điều đó cũng có nghĩa, việc hoạch định chính sách vĩ mơ trên tất cả các phương diện, các
ngành, lĩnh vực, từ văn hố, giáo dục, truyền thơng, an ninh, quốc phịng, tài nguyên, môi
trường, đến kinh tế, hay y tế,... đều phải cân nhắc đến những tác động khách quan từ mơi

trường bên ngồi để chính sách phù hợp và phúc đáp được các yêu cầu thực tiễn.

23


Không phải là người đứng đầu một ngành như Bộ trưởng, nhưng Thứ trưởng có chức
năng giúp Bộ trưởng thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng,
trước pháp luật về các nhiệm vụ được phân công. Bộ trưởng thực hiện nhiều nhiệm vụ, trong
đó có việc trình Chính phủ các dự án luật, Nghị quyết, pháp lệnh liên quan đến ngành, lĩnh
vực mà Bộ trưởng được phân cơng quản lý. Do đó, việc phân công nhiệm vụ cho Thứ trưởng
luôn bao gồm hoạt động xây dựng chính sách của ngành, lĩnh vực được Bộ trưởng giao. Việc
giúp Bộ trưởng xây dựng chính sách địi hỏi Thứ trưởng phải là một nhà chun mơn, có năng
lực hoạch định chính sách, để quyết định và chịu trách nhiệm về các nội dung của chính sách
trước Bộ trưởng. Vượt lên trên các vấn đề kỹ thuật hoạch định chính sách, Nhà chun mơn
trong hoạch định chính sách vĩ mơ phải có kiến thức chun ngành (chun mơn sâu) và kiến
thức liên ngành (rộng), có tư duy hệ thống và tầm nhìn chiến lược để cho ra đời chính sách có
chất lượng, ổn định. Vì vậy họ cần có kiến thức và nắm bắt được các quy luật khách quan,
hiểu được bản chất của kinh tế thị trường, những tác động và xu hướng vận động của kinh tế
thị trường, trên cơ sở đó có năng lực phân tích, đánh giá, khái qt hố, tổng kết thực tiễn
trong xây dựng chính sách.
Kiến thức về kinh tế thị trường có thể được học tại các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tuy
nhiên, tiếp cận KTTT vào ứng dụng trong hoạch định chính sách vĩ mơ cần phải có sự những
nghiên cứu làm rõ bản chất, xu hướng vận động, các ngoại ứng và quy luật phái sinh từ các
quy luật thị trường, giúp cho các nhà hoạch định vận dụng để phân tích, đánh giá sâu hơn về
thị trường, làm rõ những góc khuất của kinh tế thị trường còn thiếu vắng trong các lý thuyết
truyền thống. Các chính sách phúc đáp được thực tiễn và hướng tới hiệu lực, hiệu quả để thúc
đẩy phát triển, nhưng đang diễn ra trong thực tiễn, và những tác động của kinh tế thị trường
đến xã hội. Từ đó, các chính sách được đưa ra có tính tiên liệu, dự đốn được những quan hệ
kinh tế xã hội cần quản lý trong hiện tại và còn cần trong tương lai. Để hoạch định ra những
chính sách vĩ mơ hiệu lực, hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, cần đánh giá đúng, làm rõ

bản chất của KTTT và đánh thức những tác động tích cực của kinh tế thị trường vào việc
hoạch định chính sách, đồng thời kiểm sốt được những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường đến quá trình hoạch định chính sách./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Richard C. Remy: United State Government - democracy in action. Glencoe,
McGraw - Hill, 2000.
[2] Nguyễn Anh Phương, “Quy trình chính sách và phân tích chính sách trong hoạt động
lập pháp ở Việt Nam” số 02+03 (306 + 307), 1/2016, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.
[3] PGS. TS. Triệu Văn Cường, Hoạch định chính sách cơng, Nhà xuất bản Lao động Xã
hội, Hà Nội, 2016.
[4] Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ
[5] Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 2016 của Chính phủ
[6] Trần Văn Thọ (Giáo sư kinh tế học, đại học Waseda, Tokyo), Cú sốc thời gian (2015),
Nhà xuất bản Tri thức.

24



×