Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bảo hiểm rủi ro thiên tai: cơ hội cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.76 KB, 10 trang )

BẢO HIỂM RỦI RO THIÊN TAI: CƠ HỘI CHO VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Lê Hồng Ngọc
Viện Địa lí nhân văn - Viện Hàn lâm Khoa học xã hợi Việt Nam
Tóm tắt
Bảo hiểm rủi ro thiên tai là một cơ chế bảo hiểm chi trả cho các chi phí mà người
được bảo hiểm phải gánh chịu do thiên tai gây ra, được sử dụng rộng rãi để tăng cường khả
năng phục hồi của các đối tượng chịu ảnh hưởng của thiên tai trước các cú sớc bên ngồi và
hỗ trợ khắc phục thiệt hại kinh tế khi thiên tai xảy ra. Là mợt cơng cụ tài chính cho rủi ro
hiệu quả, bảo hiểm rủi ro thiên tai đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho các quốc gia dễ bị tổn
thương trước biến đổi khí hậu (BĐKH) như Việt Nam nhưng chưa thực sự phổ biến ở cấp đợ
q́c gia và tồn cầu. Bài viết này thơng qua việc khái quát các ảnh hưởng của rủi ro thiên
tai đối với Việt Nam và thực trạng triển khai bảo hiểm rủi ro thiên tai tại Việt Nam hiện nay
để làm rõ những cơ hội từ một số cơ chế bảo hiểm rủi ro thiên tai mà Việt Nam tham gia
cũng như gợi mở về cơ hội của việc triển khai bảo hiểm rủi ro thiên tai tại Việt Nam trong
bới cảnh thiên tai và BĐKH.
Từ khóa: Bảo hiểm rủi ro thiên tai, Việt Nam, biến đổi khí hậu
1. Đặt vấn đề
Là một trong số các quốc gia chịu tác động tiêu cực nhất của BĐKH, hàng năm, Việt
Nam đều phải gánh chịu thiệt hại về con người và vật chất do thiên tai, tiêu tốn một phần
không nhỏ ngân sách nhà nước, quỹ dự phòng cũng như cần đến sự hỗ trợ về tài chính, kỹ
thuật của các tổ chức khu vực và quốc tế. Trong phạm vi năng lực của hệ thống tài chính
quốc gia có giới hạn, Việt Nam cần đến những cơ chế hiệu quả dài hạn hơn nhằm ứng phó
với rủi ro thiên tai trong bối cảnh BĐKH ngày càng trở nên phức tạp và khó xác định, gia
tăng về tần suất và quy mô, mức độ nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng của các hiện tượng
thời tiết cực đoan.
Trong bối cảnh đó, bảo hiểm rủi ro thiên tai được xem như một cơng cụ tài chính đặc
biệt hiệu quả trong việc phịng, chống và khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra. Với các cơ
chế và sản phẩm bảo hiểm rủi ro thiên tai khác nhau, người được hưởng lợi bảo hiểm có thể
có được khả năng giảm nhẹ được tổn thất kinh tế do thiên tai gây ra, đặc biệt ở các nước đang
và kém phát triển (ADB, 2015; WB, 2016; Surminski và các cộng sự, 2019). Tuy nhiên, bảo


hiểm rủi ro thiên tai ở cấp độ quốc gia và khu vực vẫn còn chưa được chú trọng khiến cho các
quốc gia như Việt Nam không huy động được một nguồn lực tài chính hiệu quả để bù đắp cho
355


các chi phí khắc phục thiệt hại kinh tế do thiên tai, giải quyết gánh nặng ngân sách và áp lực từ
viện trợ phát triển. Các chuyên gia và kinh nghiệm quốc tế đã đánh giá cao việc sử dụng bảo
hiểm rủi ro thiên tai như một công cụ tài chính cho rủi ro đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho
các quốc gia trong việc chủ động ứng phó với thiên tai và BĐKH.
2. Rủi ro thiên tai trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Trong bài phát biểu của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tại Phiên thảo luận mở của
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về An ninh khí hậu tại New York, Hoa Kỳ, ngày 23/9/2021
và bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị các bên tham gia Công ước
khung của Liên hợp quốc về BĐKH lần thứ 26 diễn ra tại Glasgow, Vương quốc Anh ngày
01/11/2021, Việt Nam đã nhấn mạnh rằng, BĐKH là thách thức lớn nhất đối với nhân loại và
định hình tương lai của thế giới, tạo ra các tác động tiêu cực đe dọa sự tồn tại và phát triển
của các cộng đồng và quốc gia.
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi BĐKH. Theo
kịch bản BĐKH cập nhật mới nhất, nhiệt độ trung bình năm có xu thế tăng 0,890C trong giai
đoạn 1958 - 2018, nhiệt độ tối cao tăng với nhiều kỷ lục cao của nhiệt độ được ghi nhận, số
ngày nắng nóng (có nhiệt độ tối cao từ 350C trở lên) có xu thế tăng trung bình từ 10 - 40 ngày
trong cả giai đoạn trong khi số ngày rét đậm, rét hại (có nhiệt độ trung bình từ 150C trở
xuống) ở các vùng khí hậu phía Bắc (có nhiệt độ trung bình từ 130C trở xuống) giảm từ 5 20 ngày trong cả giai đoạn; lượng mưa trung bình năm tăng 2,1% trong cùng giai đoạn nhưng
có xu thế giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam, số ngày
mưa lớn (có lượng mưa từ 50 mm trở lên) tăng, lượng mưa một ngày lớn nhất có xu thế tăng
phổ biến từ 20% - 60% và lượng mưa năm ngày lớn nhất có xu thế tăng từ 5% - 40%, số
tháng hạn có xu thế tăng ở các khu vực phía Bắc, giảm ở Trung Bộ và khu vực phía Nam,
lượng mưa cực trị giảm nhiều ở Bắc Bộ và tăng nhiều ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên; số
cơn bão mạnh và xoáy thuận nhiệt đới trên Biển Đơng có xu thế tăng, thời gian hoạt động
muộn hơn với hướng di chuyển và đổ bộ lệch dần về phía Nam, đồng thời khả năng tác động

của El Nino và Dao động Nam đến khí hậu có xu hướng tăng; mực nước biển tại hầu hết các
trạm quan trắc tăng với xu hướng 2,7 mm/năm và mực nước trung bình tồn Biển Đơng có
xu thế tăng 4,1 mm/năm khiến cho mực nước trung bình ven biển Việt Nam có xu thế tăng
3,6 mm/năm (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2020). Cũng theo các kịch bản BĐKH cho Việt
Nam, nhiệt độ trung bình năm, lượng mưa năm, số lượng bão mạnh đến rất mạnh, số ngày
nắng và nắng nóng gay gắt, số tháng hạn trong mùa khơ và mực nước biển đều có xu hướng
tăng kèm theo các hiện tượng thời tiết cực đoan trên phần lớn lãnh thổ Việt Nam vào cuối
thế kỷ 21.
BĐKH đã tạo ra các tác động đa chiều và phức tạp đến khơng chỉ thiên tai khí tượng
thủy văn, tài ngun, mơi trường và hệ sinh thái mà cịn các hoạt động kinh tế - xã hội
(Nguyễn Văn Thắng và các cộng sự, 2021). Theo đánh giá của Cơ quan Phát triển Quốc tế
Hoa Kỳ (USAID), các tác động của BĐKH đối với Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực nông
356


nghiệp (gây thiệt hại mùa màng, làm mất đất canh tác, chuyển đổi các vùng sản xuất...), thủy sản
(thay đổi phân bố của các loài thủy sản, phá hủy và suy thối mơi trường sống của các lồi,
mất sinh kế của ngư dân, gia tăng di cư môi trường...), tài nguyên nước (suy giảm chất lượng
tài nguyên nước, suy giảm dòng chảy và mực nước ngầm, phá hủy cơ sở hạ tầng nước...), hệ
sinh thái biển (suy giảm và phá hủy mơi trường sống của các lồi), cơ sở hạ tầng (phá hủy cơ
sở hạ tầng, cản trở sự lưu thơng của hàng hóa và dịch vụ...), năng lượng (suy giảm tiềm năng
sản xuất năng lượng, gián đoạn cung cấp năng lượng...) (USAID, 2017).
Đặc biệt, khu vực ven biển là nơi có dân số đơng, mật độ dân số cao, lực lượng lao
động dồi dào, tập trung phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng của Việt Nam và
đã thực sự trở thành động lực phát triển của cả nước, nhưng đồng thời cũng là khu vực dễ bị
tổn thương nhất, hứng chịu rủi ro thiên tai và ảnh hưởng trực tiếp của BĐKH và nước biển
dâng (Phạm Thị Trầm và các cộng sự, 2021). Thiệt hại do thiên tai và BĐKH gây ra ở khu
vực này cũng rất nghiêm trọng. Theo ước tính, rủi ro thiên tai ở các tỉnh ven biển của Việt
Nam gây ra ảnh hưởng trực tiếp 11,8 triệu người dân, 35% khu dân cư ven biển và 42% số
khách sạn ven biển nằm trong vùng có rủi ro sạt lở, 1 triệu đô-la GDP nông nghiệp và 1,5

triệu nông dân, 1,1 triệu tấn thủy sản tương đương 935 triệu USD giá trị xuất khẩu, một nửa
các khu công nghiệp bị ảnh hưởng, 22% trường học và 26% cơ sở y tế bị ảnh hưởng của lũ
lớn, thiệt hại vận tải hàng ngày trung bình lên đến 324 triệu USD khi có bão với tốc độ gió
lớn, 36% đường dây truyền tải điện bị ảnh hưởng và 52/63 tỉnh, thành gặp phải vấn đề cạn
kiệt nguồn nước ở các lưu vực sông (Rentschler và các cộng sự, 2020). Thiệt hại tài sản hàng
năm do thiên tai tại Việt Nam vào khoảng 2,7 triệu USD và thiệt hại thực tế hàng năm của
Việt Nam ước tính vào khoảng 11 tỷ USD (Hallegatte và các cộng sự, 2017). Bên cạnh đó,
giá trị kinh tế trung bình hàng năm bị ảnh hưởng bởi lũ ven biển tại Việt Nam đối với một số
lĩnh vực là sản xuất nông nghiệp 47,3 triệu USD, du lịch 179,2 triệu USD, công nghiệp 77,6
triệu USD, giao thông 25,5 triệu USD và năng lượng 63 triệu USD (Rentschler và các cộng
sự, 2020).
Tuy nhiên, ở mặt tích cực, BĐKH tạo ra cơ hội cho các cộng đồng và quốc gia trong
việc triển khai các biện pháp ứng phó với BĐKH từ các nguồn lực tài chính cho các hoạt
động thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, đem lại tác động kinh tế - xã hội tương đối tích
cực và góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (Nguyễn Văn Thắng và các cộng
sự, 2021).
3. Bảo hiểm rủi ro thiên tai – cơ hội cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu
3.1. Thực trạng triển khai bảo hiểm rủi ro thiên tai tại Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh đó, các nguồn tài chính khí hậu đóng vai trị quan trọng và là điều kiện
tiên quyết cho các hoạt động ứng phó với thiên tai do BĐKH. Điều này đã được khẳng định
trong Hiệp ước Khí hậu Glasgow tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên
hợp quốc về BĐKH lần thứ 26 năm 2021 khi tài chính là một trong bốn lĩnh vực hành động
của các quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc huy động nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ các
357


nước kém phát triển hơn cắt giảm khí thải hướng tới mục tiêu phát thải rịng tồn cầu bằng 0
(UNFCCC, 2021). Việt Nam cũng là một trong số các quốc gia được hưởng lợi từ nguồn tài
chính khí hậu khu vực và tồn cầu nhờ có sự hợp tác và hỗ trợ về tài chính của cộng đồng
quốc tế làm “địn bẩy” cho hoạt động ứng phó với BĐKH. Điển hình như Việt Nam đã được

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cung cấp tài chính khí hậu dưới dạng đầu tư và viện trợ
chính thức với tổng giá trị 13,2 triệu USD tài chính thích ứng biến đổi khí hậu và 276,8 triệu
USD tài chính giảm nhẹ BĐKH tính đến hết năm 2021 (ADB, 2022). Ngoài ra, Việt Nam có
thể tiếp cận rất nhiều quỹ tài chính khí hậu sẵn có khác trong nước (Quỹ Thúc đẩy năng
lượng bền vững, Quỹ Bảo vệ mơi trường Việt Nam...) và ngồi nước (Quỹ Khí hậu xanh,
Quỹ Mơi trường tồn cầu, Quỹ Cơng nghệ sạch, Quỹ Khí hậu quốc tế của Vương quốc Anh,
Cơ chế Phát triển sạch, Cơ chế Tín chỉ chung...) chủ yếu tập trung vào giảm nhẹ BĐKH (Lê
Đình Cầu, 2016). Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước từ các cấp bộ và tỉnh cũng vẫn là một
nguồn tài chính khí hậu quan trọng, chủ yếu tập trung vào thích ứng với BĐKH (UNDP,
2022) cùng với một phần tài chính đến từ nguồn đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá
nhân khác nhằm khắc phục hậu quả của thiên tai do BĐKH.
Bên cạnh tài chính khí hậu, bảo hiểm rủi ro thiên tai cũng là một giải pháp tài chính
cho rủi ro thiên tai hiệu quả với các sản phẩm bảo hiểm thường được thiết kế đơn giản và phù
hợp với từng mối hiểm họa thiên tai chính tương ứng với đặc điểm và điều kiện của từng địa
phương và khu vực cụ thể, có nhiều lợi thế như: tiến độ chi trả bồi thường nhanh và khơng bị
ràng buộc về mục đích chi tiêu khoản bồi thường, đặc biệt là phần bảo hiểm chi trả có thể
đóng vai trị hiệu quả nhất khi thiên tai gây ra thiệt hại lớn nhất (ADB, 2015). Theo nhận
định của Ngân hàng Phát triển châu Á – ADB (2015), thị trường bảo hiểm tại Việt Nam đã
phát triển nhanh chóng nhưng phần lớn chỉ tập trung vào bảo hiểm tài sản thương mại và bảo
hiểm nhân thọ mà chưa đánh giá cao bảo hiểm rủi ro thiên tai như một nguồn tài chính để
tăng cường quản lý rủi ro thiên tai tại các địa phương.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã bắt đầu xem xét bảo hiểm rủi ro thiên tai như một hình
thức quản lý rủi ro thiên tai. Luật Phòng, chống thiên tai số 33/2013/QH13 đã được Quốc hội
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày 19/6/2013
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2014 đã nêu rõ một trong những chính sách của Nhà
nước trong phịng, chống thiên tai bao gồm việc ưu đãi và khuyến khích doanh nghiệp bảo
hiểm kinh doanh bảo hiểm rủi ro thiên tai (khoản 5, Điều 5, Chương I), đồng thời cũng quy
định trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có
thẩm quyền ban hành và chỉ đạo thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về tài chính cho
phịng, chống thiên tai và chính sách bảo hiểm rủi ro thiên tai.

Tiêu biểu nhất trong lĩnh vực nơng nghiệp, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm
nơng nghiệp giai đoạn 2011 - 2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành
Thông tư số 47/2011/TT-BNNPTNT ngày 29/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
358


triển nơng thơn về việc hướng dẫn thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp trong trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi thủy sản theo Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng
Chính phủ, sau đó được sửa đổi và bổ sung trong Thông tư số 43/2012/TT-BNNPTNT ngày
23/8/2012 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Thông tư số 47/2011/TT-BNNPTNT ngày 29/6/2011 hướng dẫn thực hiện
thí điểm bảo hiểm nông nghiệp trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi thủy sản theo Quyết định số
315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
Sau ba năm triển khai thí điểm tại 20 tỉnh, thành phố, cả nước có hơn 304 nghìn hộ
nơng dân và tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia bảo hiểm nông nghiệp với tổng giá trị
được bảo hiểm là hơn 7,7 nghìn tỷ đồng; tổng doanh thu phí bảo hiểm nông nghiệp là 394 tỷ
đồng; tổng số tiền đã giải quyết bồi thường bảo hiểm đến giữa năm 2014 là 701,8 tỷ đồng,
trong đó: 76,8% số hộ tham gia là hộ nghèo và 15,5% số hộ tham gia là hộ cận nghèo, 77,8%
số hộ tham gia bảo hiểm cây lúa, 19,8% số hộ tham gia bảo hiểm vật nuôi và 2,5% số hộ
tham gia bảo hiểm thủy sản (Bộ Tài chính, 2014). Theo đánh giá, đây là loại hình bảo hiểm
mới và lần đầu được đưa vào thí điểm, Việt Nam chưa có kinh nghiệm triển khai nên việc
thực hiện bảo hiểm nông nghiệp trong giai đoạn này chưa thể đáp ứng được nhu cầu và đặc
trưng riêng của từng địa phương, bảo hiểm bị lỗ, chất lượng nhân lực bảo hiểm chưa đáp ứng
yêu cầu triển khai, hiệu quả kiểm tra và giám sát rủi ro thấp, khả năng ước tính phạm vi và
mức độ thiệt hại về tài chính vượt quá năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, nhận
thức và thái độ của người nông dân về bảo hiểm nơng nghiệp cịn thấp... Sau thời gian thí
điểm, bảo hiểm nơng nghiệp vẫn chưa được triển khai tiếp.
Trên cơ sở đó, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày
18/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ về bảo hiểm nông nghiệp, Quyết định số 22/2019/QĐTTg ngày 26/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm

nơng nghiệp và Quyết định số 03/2021/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ
về việc sửa đổi và bổ sung một số điều của Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg ngày 26/6/2019
của Thủ tướng Chính phủ... nhằm thực hiện hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp tạo điều kiện phát
triển bảo hiểm nông nghiệp trong bối cảnh nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thiên tai.
Trong cơ chế chính sách về bảo hiểm nơng nghiệp nêu trên, rủi ro thiên tai được bảo
hiểm hỗ trợ bao gồm: bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất
do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún đất do mưa lũ hoặc động chảy, nắng nóng, hạn hán, rét
hại, mưa đá, sương muối, động đất, sóng thần và phải được cơng bố hoặc xác nhận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời cũng chỉ được áp dụng tại một số địa bàn được quy
định. Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ có nông nghiệp là lĩnh vực được thực hiện bảo hiểm
rủi ro thiên tai (Surminski và các cộng sự, 2019) và nhóm các sản phẩm bảo hiểm trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam chưa có sản phẩm bảo hiểm rủi ro thiên tai riêng biệt. Trong khi
đó, thực tiễn thiên tai và biến đổi khí hậu ở Việt Nam những năm qua cho thấy rằng, thiên tai
và biến đổi khí hậu có tác động rất phức tạp và ảnh hưởng đến một phạm vi rộng lớn các địa
phương và ngành nghề. Do đó, việc mở rộng phạm vi được hỗ trợ bởi bảo hiểm rủi ro thiên
tai là rất cần thiết.
359


3.2. Cơ hội từ một số cơ chế bảo hiểm rủi ro thiên tai mà Việt Nam tham gia
Nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm rủi ro thiên tai, Việt Nam cũng đã tích
cực và chủ động tham gia một số cơ chế của khu vực và thế giới về bảo hiểm rủi ro thiên tai.
Ở quy mô toàn cầu, năm 2021, Việt Nam là một trong 10 quốc gia đầu tiên tham gia
Cơ chế Bảo hiểm và tài chính cho rủi ro mới của Chương trình Phát triển của Liên hợp
quốc nhằm cung cấp và phát triển các sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm sáng tạo hướng tới
các cộng đồng và quốc gia dễ bị tổn thương, đồng thời hỗ trợ chuyển đổi thị trường bảo
hiểm về dài hạn cho các quốc gia thông qua hợp tác với các đối tác để cung cấp các công
cụ chính sách và biện pháp để thúc đẩy sự phục hồi của các cộng đồng và quốc gia trước
các cú sốc về khí hậu, kinh tế và xã hội (UNDP IRFF, 2021a). Theo sáng kiến cam kết
của cơ chế này, Việt Nam nằm trong số các quốc gia dễ bị tổn thương do khí hậu được

nhận hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc, Bộ Hợp
tác và Phát triển kinh tế của Liên bang Đức, Diễn đàn Phát triển Bảo hiểm, 10 doanh
nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm lớn nhất thế giới nhằm xây dựng các giải pháp tài chính
rủi ro khí hậu và bao trùm trên nhiều lĩnh vực như: nông nghiệp, cơ sở hạ tầng giáo dục,
giao thông, cơ sở vật chất y tế... trong phạm vi tổng giá trị vốn rủi ro lên đến 5 tỷ USD
(UNDP IRFF, 2021b).
Bên cạnh nguồn lực tài chính, cơ chế này cũng cung cấp nguồn lực kỹ thuật cho Việt
Nam trong 05 lĩnh vực chính thơng qua việc tích hợp bảo hiểm và tài chính cho rủi ro vào
q trình phát triển hướng đến việc chuyển đổi cách thức quản lý rủi ro tài chính và hành
động khí hậu của quốc gia, cụ thể:
- Lồng ghép bảo hiểm vào phát triển, tập trung vào sự tích hợp thơng tin về rủi ro và
khả năng phân tích rủi ro vào các hoạt động bảo hiểm thơng qua các hoạt động tích hợp các
kịch bản và mơ hình rủi ro vào q trình quyết định ngân sách của Chính phủ và các cam kết
quốc gia về thích ứng và giảm nhẹ thiên tai;
- Bảo hiểm bao trùm, tập trung vào việc bảo vệ cộng đồng và mở rộng khả năng bao
trùm tài chính thơng qua các hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính và ngân hàng dựa trên
các nền tảng kỹ thuật số để cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ thiết yếu từ xa của cộng đồng;
- Tài trợ rủi ro cho Chính phủ, tập trung vào sự hợp tác giữa Chính phủ và các bên liên
quan nhằm cung cấp các biện pháp tài trợ rủi ro trong các bối cảnh phục hồi và phát triển
thông qua các hoạt động hỗ trợ xây dựng mơ hình ứng phó rủi ro quốc gia, cải cách thể chế
và chính sách nhằm nâng cao năng lực ứng phó với rủi ro, tăng cường hợp tác công - tư để
tạo ra các biện pháp tài chính rủi ro dài hạn;
- Bảo hiểm vốn tự nhiên, tập trung vào các giá trị bảo tồn tự nhiên và đầu tư vào thích
ứng với rủi ro để đảm bảo tài sản và sinh kế của các cộng đồng dễ bị tổn thương thông qua
các hoạt động lập bản đồ vốn tự nhiên và biện pháp rủi ro ở quy mơ quốc gia, khu vực, tồn
cầu và thí điểm các sáng kiến bảo hiểm bảo tồn giá trị tự nhiên;
360


- Bảo hiểm và đầu tư, tập trung vào việc tạo ra các cơ hội cho nhà đầu tư bảo hiểm để tài

trợ tài chính cho nhiều hơn các dự án phát triển bền vững ở các nước đang phát triển và kết hợp
bảo hiểm - đầu tư trong triển khai thí điểm các phương thức đầu tư có khả năng thích ứng tốt
thơng qua các hoạt động cải cách thể chế và mở rộng ưu đãi đầu tư vào cơ sở hạ tầng bền
vững, tạo thuận lợi cho đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm cho cơ sở hạ tầng các-bon thấp và thích
ứng với khí hậu, phát triển các cơng cụ tài chính có khả năng thích ứng và triển khai bảo hiểm
như một công cụ giảm thiểu rủi ro.
Ở quy mô khu vực, năm 2022, Việt Nam cũng trở thành thành viên thứ 8 của Cơ chế
bảo hiểm rủi ro thiên tai Đông Nam Á thuộc Sáng kiến ASEAN+3 (các quốc gia thuộc Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) hợp tác với Ngân
hàng Thế giới (WB) – là cơ chế tài trợ rủi ro ở cấp độ khu vực đầu tiên ở châu Á, nhằm tạo ra
một diễn đàn chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, thúc đẩy đầu tư vào khu vực công để nâng
cao nhận thức về rủi ro và duy trì động lực chính trị thúc đẩy sự tham gia và tiến bộ trong
hoạt động quản lý các cú sốc khí hậu và thiên tai của các quốc gia Đơng Nam Á (SEADRIF,
2018). Theo đó, Cơ chế này cung cấp các khoản tài trợ cứu trợ thiên tai và giảm sự phụ thuộc
vào việc phân bổ ngân sách và viện trợ nhân đạo trong trường hợp thiên tai xảy ra, cải thiện
khả năng tiếp cận tái bảo hiểm quốc tế và thị trường vốn thông qua sự chịu chung rủi ro ở cấp
độ khu vực và tiếp cận tập thể đối với các thị trường, cấp quyền tiếp cận hàng hóa cơng dành
cho các quốc gia Đông Nam Á dựa trên quy tắc cho phép Chính phủ lập kế hoạch viện trợ và
thu hút tài trợ quốc tế trước khi thiên tai xảy ra.
Bên cạnh đó, một trong những ưu điểm của cơ chế này là khơng giống như hình thức
bảo hiểm bồi thường truyền thống, các quốc gia tham gia Cơ chế sẽ xác định mức phí bảo
hiểm mà quốc gia có thể chi trả và Công ty Bảo hiểm rủi ro thiên tai Đơng Nam Á sẽ tính
tốn mức độ bảo hiểm tương ứng mà Cơng ty có thể cung cấp; trong đó có tính đến nhiều yếu
tố trong q trình thiết kế sản phẩm bảo hiểm riêng phù hợp với điều kiện của từng quốc gia
như: khả năng chi trả phí bảo hiểm, mức độ phúc tạo của sản phẩm, mức độ sẵn sàng cung
cấp tái bảo hiểm của thị trường quốc tế với khả năng cạnh tranh... Ngoài ra, việc tái bảo hiểm
cũng được thực hiện nhằm đảm bảo rằng, Công ty ln có thể đáp ứng các u cầu bồi
thường đủ điều kiện với các khoản thanh toán kịp thời trong mọi tình huống và cấp độ thiên
tai xảy ra. Việc tái bảo hiểm cũng tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao khả năng
cung ứng của Công ty đối với các giới hạn bảo hiểm cao hơn.

Đồng thời, Cơ chế này chỉ thanh toán trong các trường hợp được xác định là thiên tai ở mức
độ trung bình và nghiêm trọng, do đó để đảm bảo sự cơng bằng, việc tính tốn của Cơng ty đối với
giới hạn bảo hiểm của từng quốc gia sẽ tính đến các điều kiện khí hậu và dân số để điều chỉnh mức
đánh giá độ nghiêm trọng của thiên tai cho từng quốc gia. Trong trường hợp thiên tai xảy ra ở mức
độ được bảo hiểm, quốc gia được bảo hiểm sẽ chỉ phải thông báo, cung cấp bằng chứng thiệt hại
và u cầu thanh tốn. Khi đó, Cơng ty sẽ tự động bắt đầu quy trình và thanh tốn bảo hiểm. Sau
khi thanh tốn, Chính phủ của quốc gia được bảo hiểm sẽ quản lý và phân phối khoản thanh toán
361


thơng qua các hệ thống và quy trình riêng của quốc gia. Mặc dù mới được đưa vào hoạt động và
Công ty mới chỉ triển khai một sản phẩm bảo hiểm rủi ro trong trường hợp xảy ra lũ lụt theo yêu
cầu của Lào, Cơ chế này cũng đã có kế hoạch hợp tác để phát triển thêm các sản phẩm bổ sung
theo nhu cầu của các quốc gia thành viên.
Không chỉ trong khuôn khổ các cơ chế bảo hiểm rủi ro thiên tai mới được thành lập,
Việt Nam cũng đã và đang hưởng lợi từ sự hỗ trợ của các tổ chức khu vực và quốc tế. Như đã
nêu trên, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) là một trong những tổ chức hỗ trợ Việt Nam
trong việc huy động các nguồn lực ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu. Bên cạnh nguồn
tài chính cho rủi ro thiên tai, tổ chức này cũng cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính cho rủi ro, điển hình như khuyến nghị
chính sách về việc xây dựng khung chính sách để quản lý rủi ro thiên tai có sự lồng ghép rủi
ro thiên tai, khn khổ bảo hiểm và tài trợ cho rủi ro thiên tai vào các chiến lược phát triển và
quản lý quốc gia theo quy trình gồm các bước như sau (Sirivunnabood và Alwarritzi, 2020):
- Bước 1: Định lượng rủi ro thiên tai thông qua các chương trình nâng cao năng lực về
xác định, đánh giá và lập bản đồ rủi ro thiên tai nhằm xác định các mục tiêu thích ứng;
- Bước 2: Xây dựng kế hoạch hành động quản lý rủi ro thiên tai bao gồm các hoạt
động giảm thiểu, ngăn chặn và chuyển đổi rủi ro dựa trên phân tích chi phí - lợi ích có sự
tham gia của các cộng đồng địa phương ở những khu vực dễ bị tổn thương và có mức độ rủi
ro thiên tai cao;
- Bước 3: Đánh giá nhu cầu tài chính và xác định yêu cầu tài chính của những đối

tượng chịu rủi ro thiên tai cũng như cách thức và điều kiện sử dụng quỹ tài chính cho rủi ro
thiên tai;
- Bước 4: Lựa chọn cơng cụ bảo hiểm và tài chính cho rủi ro thiên tai phù hợp dựa trên
nhu cầu của đối tượng chịu rủi ro thiên tai và diễn biến của thiên tai bao gồm: các cơng cụ tài
chính giảm thiểu rủi ro (khoản vay, tín dụng vi mơ, trái phiếu, trợ cấp, giảm thuế...), các cơng
cụ tài chính ngăn chặn rủi ro (ngân sách dự phòng, quỹ dự phòng, dịng tín dụng dự phịng...)
và các cơng cụ tài chính chuyển đổi rủi ro (bảo hiểm rủi ro thiên tai, trái phiếu thảm họa do
các công ty bảo hiểm phát hành...);
- Bước 5: Thực hiện phân lớp rủi ro, kết hợp các công cụ nhằm mở rộng phạm vi bảo
hiểm cho những người nắm giữ rủi ro và các bên có liên quan, tập trung vào cách tăng động
cơ để giảm rủi ro, giảm chi phí và cải thiện sự sẵn có của nguồn tài chính để ngăn chặn và
giảm thiểu rủi ro.
4. Kết luận
Các cơng cụ tài chính như: tín dụng, bảo hiểm... bên cạnh ngân sách và quỹ dự phịng
của quốc gia đều là các nguồn tài chính cần thiết để ứng phó với thiên tai và BĐKH. Việc
huy động được nguồn tài chính này từ các khu vực công, tư và quốc tế đều là cơ hội để Việt
Nam có thêm nguồn lực để phát triển trong bối cảnh BĐKH cũng như đạt được những cam
kết, thỏa thuận về khí hậu tồn cầu.
362


Như đã đề cập, việc huy động các nguồn lực tài chính để ứng phó với rủi ro thiên tai là
rất quan trọng, tuy nhiên, quan trọng hơn nữa là việc lựa chọn trong khơng ít các cơng cụ tài
chính phù hợp với điều kiện thiên tai để các quốc gia tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới (WB), từng cấp độ rủi ro thiên tai và điều kiện
đặc thù của quốc gia sẽ có những cơng cụ tài chính phù hợp; theo đó, các cơng cụ tài chính
chuyển đổi rủi ro bao gồm bảo hiểm rủi ro có tham số và trái phiếu thảm họa được khuyến
nghị cho trường hợp rủi ro thiên tai ở phân lớp rủi ro cao (có tần suất thiên tai thấp nhưng
mức độ nghiêm trọng cao) như: lũ lụt lớn, động đất hay xoáy thuận nhiệt đới... trong khi
nguồn ngân sách nhà nước và quỹ dự phòng được khuyến nghị cho trường hợp rủi ro thiên tai

ở phân lớp rủi ro thấp (có tần suất thiên tai cao nhưng mức độ nghiêm trọng thấp) như: lũ cục
bộ, sạt lở đất... và trong trường hợp rủi ro thiên tai ở phân lớp rủi ro trung bình sẽ lựa chọn
loại cơng cụ tài chính phù hợp với tần suất và mức độ nghiêm trọng của thiên tai (WB, 2016).
Tương tự, Cơ chế bảo hiểm rủi ro thiên tai Đông Nam Á cũng chỉ thực hiện cho thiên
tai ở cấp độ trung bình và nghiêm trọng. Điều này cho thấy rằng, bảo hiểm rủi ro thiên tai
được triển khai trong trường hợp quy mô, mức độ nghiêm trọng và thiệt hại do thiên tai gây
ra vượt quá khả năng tài chính của Chính phủ và/hoặc viện trợ, cứu trợ chưa được giải ngân
kịp thời. Đây là cơ hội cho các nước đang và kém phát triển hơn khi ngân sách nhà nước và
các quỹ dự phịng khơng có khả năng bao trùm được tổn thất do thiên tai gây ra, đặc biệt ở
các quốc gia dễ bị tổn thương, có tần suất và mức độ nghiêm trọng của thiên tai cao.
Việc triển khai bảo hiểm rủi ro thiên tai cũng đem lại cơ hội cải cách và đổi mới cách
thức xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển chung của Việt Nam có sự lồng
ghép các vấn đề thiên tai, BĐKH và bảo hiểm, tài chính cho rủi ro trong tất cả các lĩnh vực;
qua đó xây dựng một cơ chế vận hành bảo hiểm rủi ro thiên tai về dài hạn, thành lập quỹ bảo
hiểm rủi ro thiên tai, định hướng và phát triển thị trường bảo hiểm. Đây cũng là cơ hội mở cho
thị trường bảo hiểm của Việt Nam và cho các nhà đầu tư vào thị trường bảo hiểm trong việc
phát triển các sản phẩm bảo hiểm rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu theo các cách thức từ bổ
sung rủi ro thiên tai vào các sản phẩm bảo hiểm hiện có cho đến phát triển bảo hiểm rủi ro
thiên tai riêng biệt, đồng thời tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về bảo hiểm rủi ro thiên
tai. Qua đây, Việt Nam cũng có được cơ hội hồn thiện và nâng cấp môi trường thể chế và
pháp lý về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm rủi ro thiên tai nói riêng, nâng cao hiệu quả quản lý
rủi ro và giám định tổn thất, tăng cường cơ chế chia sẻ rủi ro minh bạch giữa các bên có liên
quan. Bên cạnh đó, Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm quốc tế nhằm áp dụng các tiêu
chuẩn tài chính và cơng nghệ cao hơn trong việc đánh giá và phân loại quy mô, phạm vi, mức
độ nghiêm trọng và thiệt hại do rủi ro thiên tai và BĐKH..., qua đó thay đổi nhận thức, thu hẹp
khoảng cách với tiêu chuẩn quốc tế, dễ dàng tiếp cận với các thị trường tài chính vĩ mơ và các
nguồn lực tài chính đa dạng hơn ở quy mơ lớn hơn. Về tổng thể, Việt Nam sẽ có được các giải
pháp tăng cường tính chống chịu của hệ thống tài chính quốc gia và năng lực ứng phó đối với
các cú sốc thiên tai và BĐKH, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển đã đề ra.
363



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADB (2015), Strengthening city disaster risk financing in Viet Nam, Manila.
2. ADB (2022), Climate change financing at ADB, ADB.
3. Bộ Tài chính (2014), Báo cáo tổng kết Chương trình thí điểm bảo hiểm nơng nghiệp
theo Qút định sớ 315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2013, Hà Nội.
4. Bộ Tài nguyên và Mơi trường (2020), Kịch bản biến đổi khí hậu, NXB Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
5. Lê Đình Cầu (2016), Các nguồn tài chính cho giảm nhẹ biến đổi khí hậu tại Việt Nam,
tham luận trình bày tại Hội thảo tham vấn về Đánh giá công nghệ các-bon thấp ngày
28 tháng 8 tại Hà Nội.
6. Hallagatte S. et al. (2017), Unbreakable: Building the resilience of the poor in the face
of natural disasters, WB.
7. Rentschler J. et al. (2020), Resilient shores: Vietnam’s coastal development between
opportunity and disaster risk, WB.
8. SEADRIF (2018), Southeast Asia Disaster Risk Insurance Facility, SEADRIF.
9. Sirivunnabood P. and Alwarritzi W. (2020), Incorporating a disaster risk financing
and insurance framework into country management and development strategies, ADB
policy brief No.2020-5, ADB Institute.
10. Surminski S. et al. (2019), Disaster insurance in developing Asia: An analysis of
market-based schemes, ADB Economics Working Paper No.590, ADB Institute.
11. Nguyễn Văn Thắng và các cộng sự (2021), Báo cáo đánh giá khí hậu quốc gia, Hà
Nội.
12. Phạm Thị Trầm và các cộng sự (2021), “Đô thị ven biển Việt Nam trong bối cảnh
thiên tai và biến đổi khí hậu”, Kỷ ́u Hợi thảo khoa học quốc tế Quản trị rủi ro và
phát triển đô thị bền vững, trang 477 - 490, NXB Khoa học xã hội.
13. UNDP (2022), Climate public expenditure and investment review of Viet Nam, Hanoi.
14. UNDP IRFF (2021a), UNDP Insurance and Risk Finance Facility: Building
resilience, protecting lives and driving inclusive economic growth, UNDP.

15. UNDP IRFF (2021b), The engagement initiative: A UNDP Insurance and Risk
Finance Facility Programme, UNDP.
16. UNFCCC (2021), COP26 the Glasgow climate pact, UNFCCC.
17. USAID (2017), Climate change risk profile: Vietnam fact sheet, USAID.
18. WB (2016), Fiscal disaster risk assessment and risk financing options, Washington.

364



×