Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.73 KB, 24 trang )

111Equation Chapter 1 Section 1TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
----------✪

----------

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN CÁCH MẠNG
VIỆT NAM

Lớp học phần

:

2334HCMI0111

Nhóm

:

03

Giảng viên hướng dẫn :

Ngơ Thị Minh Nguyệt

Hà Nội, tháng 4 năm 2023



1


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM 3

STT

Họ và tên

Cơng việc được giao

Đánh gia mức độ
tham gia

21

Nguyễn Tiến Đạt

Nhóm trưởng, làm đề cương, tổng
hợp nội dung

22

Nơng Xn Đức

Thuyết trình

23


Nguyễn Hương Giang

Phần 3

24

Nguyễn Quỳnh Giang

Phần 1

25

Phạm Thị Thu Hà

Phần 2

26

Phùng Thu Hà

Mở đầu

27

Phùng Thị Hải

Thư kí, word, powerpoint

28


Vũ Ngọc Thúy Hằng

Phần 4

29

Nguyễn Thị Thảo Hiền

Phần 4

30

Nguyễn Thị Thu Hiền

Phần 5

2


MỤC LỤC

A/ LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ………………………………………………………………
2. Mục đích nghiên cứu ………………………………...…………………………….….
3. Đối tượng nghiên cứu ………….……………………………………………………...
B/ NỘI DUNG
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vơ
sản
2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi phải do
Đảng Cộng sản lãnh đạo ……………………………………………………………...….

3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy
liên minh công nông làm nền tảng ……………………………………………………….
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc ….……………………………………………….
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách
mạng ………………………………………………………………………………….…
C/ KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


4


A/ LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, là người
thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của người là “nguồn sáng dẫn đường”, là
tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta. Cùng với chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng
Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 có một ý nghĩa lịch sử sâu sắc, không chỉ
mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam mà còn khởi nguồn các cuộc đấu tranh
giải phóng khỏi ách thống trị thực dân của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Và khi
nhắc tới thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam khơng thể khơng nhắc
tới vai trị lãnh đạo to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính thắng lợi của cuộc cách
mạng đó đã chứng minh một cách sinh động những tư tưởng đặc sắc, mẫu mực của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.


1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải phóng dân tộc được hiểu là cuộc đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc và bảo
vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa trong thời kỳ bị các nước tư bản xâm chiếm.
Giải phóng dân tộc chính là tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội và mục đích cuối cùng
của giải phóng dân tộc chính là vì con người, do con người.
Chúng ta có thể thấy trong tư tưởng giải phóng của Bác Hồ, Người ln tâm niệm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và bao trùm lên tất cả là
chủ nghĩa nhân văn cao cả, thấm đậm tình thương yêu đồng bào, đồng chí và nhân loại bị
áp bức, bóc lột. Chính vì vậy, mục đích cao nhất trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Bác là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Với Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Mục tiêu cao nhất và cuối cùng của cách mạng giải phóng
dân tộc chính là giải phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
Trong bối cảnh hiện nay, cách mạng giải phóng dân tộc chính là bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, tiến hành thắng lợi sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác

5


chính là tiến tới hiện thực hố quan điểm xây dựng đất nước với phương châm dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng. Đây chính là vấn đề cấp
thiết đặt ra với chúng ta ngày nay.
Nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc trong
thời đại mới đối với thanh niên, đảng viên, nhóm chúng em đã nghiên cứu về Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc để đưa ra những liên hệ với thực tiễn với
cách mạng Việt Nam.


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc khơng những
có ý nghĩa lịch sử mà còn giúp chúng ta nhận thức được bản chất khoa học, cách mạng và
những sáng tạo về độc lập dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, nắm được tính quy
luật của cách mạng Việt Nam, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, người nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc sẽ có khả năng nhận diện và phản bác các luận điểm xuyên tạc tư tưởng của Bác
về độc lập dân tộc, đồng thời nuôi dưỡng thêm niềm tự hào về sức mạnh của dân tộc, tin
tưởng sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ
đạo.

3. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
và q trình “hiện thực hóa” hệ thống quan điểm đó trong q trình giải phóng dân tộc ta
và trong những điều kiện mới.

6


B/ NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ
LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vơ sản.
• Khái niệm và đặc điểm cách mạng vô sản.
- Khái niệm: Cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội trong đó giai cấp
cơng nhân cố gắng lật đổ giai cấp tư sản. Các cuộc cách mạng vô sản nói chung được
những người theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và hầu hết những người vô chính
phủ ủng hộ.

- Đặc điểm:
+ Cách mạng vơ sản khác hẳn với những cuộc cách mạng trước đó, những cuộc
cách mạng trước đây chỉ thay thế chế độ sở hữu tư nhân, chế độ người bóc lột người này
bằng một chế độ người bóc lột người khác, trong khi đó cách mạng vô sản nhờ thiết lập
một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất tạo ra cơ sở để giải phóng tồn thể xã hội, xóa bỏ
giai cấp, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, biến tất cả những người lao động thành
người chủ xã hội thật sự.
+ Cách mạng vô sản là theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, chính là con
đẻ của tư tưởng Lênin, là sự vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác đã mở ra
hướng đi đúng đắn cho nước Nga và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, bao gồm cả Việt
Nam.

• Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường của
cách mạng vơ sản được hình thành như thế nào?
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị nước ta, vấn đề sống
còn của dân tộc được đặt ra là phải đấu tranh để giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân đế
quốc. Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc dù đã
diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng dậy", nhưng
rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào "tình hình đen tối
tưởng như khơng có đường ra". Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở
Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu
nước mới.

7


Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân
phải chịu cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông
cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước,
rước beo cửa sau": Con đường của Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì "xin giặc rủ lịng

thương"; con đường của Hồng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng
cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ
Chí Minh khơng tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường
mới. Người đã nói: “Tơi muốn đi ra nước ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau
khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Nhưng qua tìm
hiểu thực tế sau đó, Người quyết định khơng chọn con đường cách mạng tư sản vì cho
rằng: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn
phải mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức”.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ
Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người cho rằng:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và
bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam…Nói tóm lại là
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”
Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản.
Luận cương của V.I. Lênin như luồng ánh sáng chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn
của Hồ Chí Minh, đem đến cho Người một nhãn quan chính trị mới. Nhà lãnh đạo Đảng,
nhà lý luận chính trị Trường Chinh từng nhận xét: “Luận cương về những vấn đề dân tộc
và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu
biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”. Từ đó, Người hồn tồn tin theo
V.I. Lênin và quyết đi con đường cách mạng vô sản mà V.I. Lênin đã vạch ra.

• Lý do vì sao cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng
vô sản?


8


Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga khơng chỉ là một cuộc cách
mạng vơ sản, mà cịn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng
về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Thực tiễn thành công của cách mạng Tháng
Mười Nga cho thấy: tính ưu việt của chế độ mới theo lý tưởng của Cách mạng Tháng
Mười được hiện thực hóa: xóa bỏ tận gốc ách bóc lột người lao động, thực hiện quyền
bình đẳng nam nữ, thực hiện giáo dục, chữa bệnh không phải trả tiền, người già cô đơn
được chăm sóc, ni dưỡng. Sự ra đời và phát triển của Liên Xô là tấm gương sáng, để
nhân dân các nước trên thế giới noi theo giành độc lập dân tộc và đi theo con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong bài Con
đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất
cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta”. Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Hồ Chí Minh cũng xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vơ sản ở chính quốc có chung 1 kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc thực dân. Người
nhận định rằng: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vịi, một vịi bám vào chính
quốc, một vịi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao động cả hai nơi. Muốn đánh
thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả hai vịi của nó đi, tức là phải thực hiện
phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vơ sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa”.
=> Do chủ nghĩa cách mạng vơ sản là con đường duy nhất có thể giải phóng
người vơ sản nói chung và người nơng dân nói riêng và cũng do Người đã tiếp thu và

thấy rằng chủ nghĩa vô sản trực tiếp là cách mạng vơ sản mới có thể giải phóng người
Việt Nam khỏi áp bức bóc lột, giành độc lập dân tộc, vậy nên đây là con đường cách
mạng duy nhất có khả năng giải phóng dân tộc Việt Nam.

• Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.

9


Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 là một minh chứng hùng hồn nhất cho
quan điểm Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám đã
lôi kéo hàng chục triệu nông dân - dù lúc bấy giờ chưa được chia lại ruộng đất của địa
chủ - vẫn hăng hái tiến bước cùng giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm
nên cuộc cách mạng long trời lở đất, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Từ đó dẫn tới sự
ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945). Trong Tuyên ngôn độc lập đọc
trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.
Với Tuyên ngơn độc lập, Hồ Chí Minh đã tun bố với toàn thế giới về quyền độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc
Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền
đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con
người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở
ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nơ lệ”, “khơng có gì q hơn độc lập, tự do”;
Trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân, đế quốc,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người

dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền
vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc
tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại.

2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
• Tầm quan trọng của tổ chức Đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác Lênin.
Học thuyết Mác – Lênin đã chỉ ra rằng: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để
giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp cơng nhân phải tổ
chức ra chính đảng, đảng đó phải thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng,
huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu lý
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và rất chú trọng đến việc thành lập Đảng Cộng sản,

10


khẳng định vai trò to lớn của Đảng đối với cách mạng là giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (năm 1927), Người đặt
vấn đề: Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong
thì vận động dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản khắp mọi
nơi. Đản có vững cách mệnh mới thành cơng.
Trong hồn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa phong kiến, Bác cho rằng: Đảng
Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội tiên phong của nhân
dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm phụng sự Tổ quốc.
Đó cịn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Trong “Báo cáo chính trị” tại Đại hội II của
Đảng (năm 1951), Người viết: “Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.

• Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã quy tụ được các giai cấp và các tầng lớp yêu

nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân –
phong kiến. Trải qua 15 năm gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng ta tiến
hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành cơng, đập tan xiềng xích nơ lệ
của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại trong gần một
thế kỷ.
Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới với mục tiêu giành độc lập tự do, từng bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội, thế nhưng nhà nước non trẻ ngay lập tức phải đối mặt với ba
loại giặc: Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hồnh hành đã làm cho hơn 2
triệu đồng bào chết đói; hơn 95% người dân mù chữ. Trong lúc ấy, ở miền Bắc có hơn 20
vạn quân Tưởng, miền Nam trên 15 vạn quân Pháp lăm le xâm lược nước ta.
Trước tình hình ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng ta kịp thời đề ra những
chủ trương và quyết sách đúng đắn, tồn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội,
an ninh, quốc phòng. Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người
như một, vượt qua mn vàn khó khăn, nguy hiểm tưởng như khơng qua được, củng cố,
giữ vững chính quyền cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho
cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Bất chấp nguyện vọng của nhân dân ta và mặc dù chúng ta đã nhân nhượng,
nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Lịch sử đã đặt dân
tộc ta trước một thử thách gay go mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.

11


Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, với
những từ ngữ đanh thép: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mạnh là
chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó
khăn giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, làm nên
trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.

Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý, trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân
tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh
đạo của chính đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo
đúng đắn của giai cấp cơng nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại
quân thù và giành tự do, độc lập.
Giành chiến thắng vang dội trước thực dân Pháp, nhưng hai miền đất nước vẫn bị
chia cắt bởi đế quốc Mỹ đã lợi dụng thời cơ xâm chiếm miền Nam. Trong hoàn cảnh cam
go ấy, Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc
thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
- Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế
quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong tình hình ấy, miền Bắc giữ vai trị quyết định, làm hậu phương vững chắc để
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong cuộc kháng chiến kéo dài 21 năm ấy,
đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh
khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình
của Đảng với tinh thần “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, “đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy nhào”, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu kiên cường,
từng bước giành thắng lợi oanh liệt bằng cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.
Thắng lợi lịch sử ấy đã kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30
năm trời rịng rã và mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam u chuộng hịa bình.

3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân
tộc, lấy liên minh công nông làm nền tảng.

12



Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn
kết tồn dân, trên cơ sở liên minh cơng - nơng làm nịng cốt”. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, đại đồn kết tồn dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất quán xuyên suốt cách mạng
Việt Nam; đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức thì nhân dân phải tự cứu mình
bằng cách mạng vô sản. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể điều chỉnh
chính sách và phương pháp, lực lượng phù hợp cho từng đối tượng khác nhau, nhưng đại
đồn kết dân tộc ln được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
Dựa vào cả mặt lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết tồn dân”. Về mặt thực tiễn, Người đã kế thừa tư
tưởng “trọng dân”, “thân dân” của ông cha ta. Về mặt lý luận, Người cũng đã kế thừa tư
tưởng của nhà lý luận kinh điển Mác - Lênin.
Tư tưởng “thân dân” được hình thành từ các triều đại phong kiến, tiêu biểu như
Nguyễn Trãi đã viết: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát,
đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”. Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước,
thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Sớm nhận thức và tiếp thu được vai trò của
truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đồn kết dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta
có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”.
Các nhà lý luận Mác - Lênin cũng khẳng định rằng: Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là sự sáng tạo ra lịch sử. V.I. Lênin viết:
“Khơng có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong
của mình, tức là với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản không thể thực hiện được”. Kế
thừa tư tưởng của ông cha ta và các nhà lý luận, Hồ Chí Minh quan niệm rằng: Có dân là
có tất cả, khơng gì q bằng dân, được lịng dân là được tất cả, mất lịng dân thì mất tất
cả. Người khẳng định “cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc
một hai người”. Người lý giải rằng: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là
sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Vậy nên, phải tập hợp và

đoàn kết toàn dân tộc thì cách mạng mới thành cơng.

• Giải thích vì sao lại là liên minh cơng - nơng khơng có tầng lớp tri thức.
13


Năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh cũng xác định lực
lượng cách mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nơng, Thanh niên, Tân Việt, … để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Cịn đối với
phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung…
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là tồn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng:
“Cơng nơng là người chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là
bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Giai cấp cơng nhân xuất thân từ nơng dân, có vị
trí trung tâm trong xã hội bởi là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất,
là giai cấp có sứ mệnh lịch sử thơng qua Đảng. Song để hồn thành sứ mệnh đó, giai cấp
cơng nhân cần lôi kéo, tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động và cả dân tộc
đứng lên làm cách mạng. Cịn giai cấp nơng dân là lực lượng đơng đảo nhất trong xã hội,
được chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công
nhân” và là “quân chủ lực của cách mạng”. Bởi giai cấp nơng dân, trong đó bần nơng và
trung nông là đội quân chủ lực của kháng chiến và của cách mạng dân chủ mới. Là tầng
lớp đông nhất và nghèo khổ nhất, bị địa chủ phong kiến, bọn đế quốc bóc lột tàn tệ, mong
muốn thực hiện chính sách “dân cày có ruộng”, vì vậy, họ là đồng minh chắc chắn nhất
của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người giải thích: giai cấp
cơng nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nên “lịng
cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu
thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln có sự kết hợp hài hịa, quyện chặt và
nhất qn giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đồn kết dân tộc trên cơ sở lấy liên

minh cơng - nông làm gốc, làm nền tảng được tập hợp trong Mặt trận thống nhất đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng, khơng một lúc nào qn đi lợi ích giai cấp song Người cũng có
một tư duy vượt trước khi khẳng định chủ nghĩa dân tộc là 1 động lực lớn của cách mạng
Việt Nam.

• Vai trị của liên minh cơng - nơng trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, liên minh cơng - nông là sự đảm bảo chắc
chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh cơng - nơng do giai cấp
cơng nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để để đánh đổ các thế lực phản cách

14


mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của cách mạng dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Việc nghiên cứu những tư tưởng của Hồ Chí Minh về liên minh cơng - nơng có ý
nghĩa đối với cách mạng giải phóng dân tộc. Liên minh cơng - nơng là tiêu chí, là mục
đích lâu dài của cách mạng. Khi chưa có chính quyền, liên minh cơng nơng là động lực
của cách mạng, khi đã có chính quyền, liên minh cơng nơng là điều kiện thực hiện q
trình đổi mới. Dù trong điều kiện nào, cách mạng cũng cần đến liên minh công nông,
dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ trở thành sức mạnh tiềm tàng của quần chúng nhân dân.

• Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam (Kháng chiến chống Pháp và Mỹ 1945 - 1975).
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh thiết
tha kêu gọi mọi người khơng phân biệt giai cấp, dân tộc, tơn giáo, đảng phái,… đồn kết
đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(12/1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc.”
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là tồn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng,

khơng được quên “công nông là người chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh”. Có thể thấy
vai trị của khối liên minh cơng nơng được Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng và nêu rõ:
“Trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất
là vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp
công nhân lãnh đạo, và chính quyền nhân dân thực chất là chính quyền của cơng nơng”.
Điều đó đã cho thấy vai trị của giai cấp cơng nhân và nơng dân, trở thành cơ sở cho việc
xây dựng một khối liên minh vững chắc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là cuộc đấu tranh đòi quyền độc
lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc của các nước thuộc địa khi bị các nước tư bản xâm
chiếm vào thế kỷ XX, chủ yếu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945. Hầu hết, sau
cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, đa số các nước kém phát triển trong đó có Việt Nam là
thuộc địa của các nước giàu có. Sự tàn bạo, độc ác của những nước này trong giai đoạn
đó khiến cho cuộc sống của nhân dân vô cùng cơ cực, chúng bóc lột sức lao động, tài
nguyên, gây ra mâu thuẫn gay gắt giữa người dân thuộc địa và chính phủ chính quốc. Vì

15


thế, trong giai đoạn này đã xuất hiện các phong trào đòi quyền độc lập dân tộc, nhưng đa
số bị dập tắt do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Cách mạng vô sản ở chính quốc là một cuộc cách mạng xã hội trong đó giai cấp
cơng nhân cố gắng lật đổ giai cấp tư sản. Các cuộc cách mạng vô sản nói chung được
những người theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và hầu hết những người vơ chính
phủ ủng hộ. Các nhà lý luận Mácxít tin rằng các cuộc cách mạng vơ sản có thể sẽ xảy ra
ở tất cả các nước tư bản, liên quan đến khái niệm cách mạng thế giới.

• So sánh cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vơ sản ở chính quốc.


Về nét tương
đồng

Cuộc cách mạng giải phóng dân Cách mạng vơ sản ở chính quốc
tộc ở thuộc địa
Hai cuộc cách mạng đều có nguồn gốc từ tư sản Pháp và đều mang
tính chất, mục đích chính là đập tan ách thống trị của các đế quốc tư
bản, các nước thuộc địa để thốt khỏi ách đơ hộ và bóc lột tàn ác của
các nước thống trị.

Tính tất yếu
khách quan

Cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa là cuộc cách mạng tất
yếu. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng
nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn
một sức mạnh to lớn mà cách
mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp thiết thân của họ, họ phải
đứng lên tự giải phóng mà khơng
thể dựa vào sự cầu viện của bất cứ
ai.

Lực lượng

Lực lượng của cách mạng giải
phóng dân tộc là sức mạnh của
tồn dân tộc. Cách mạng là sự

nghiệp của dân chúng bị áp bức,
bao gồm lực lượng của cả dân tộc.
Trong lực lượng toàn dân tộc,
Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh
vai trị động lực cách mạng của
cơng nhân và nơng dân, lực lượng
nịng cốt trong khối đại đồn kết
tồn dân tộc.

16

Cách mạng vơ sản ở chính
quốc: phân nhánh Lênin của chủ
nghĩa Mác cho rằng một cuộc
cách mạng vô sản phải được dẫn
dắt bởi một đội tiên phong của
"những người làm cách mạng
chuyên nghiệp", gồm những nam
giới và phụ nữ toàn tâm toàn ý
theo chủ nghĩa cộng sản và trở
thành hạt nhân của phong trào
cách mạng cộng sản.
Đội tiên phong này sẽ lãnh đạo
và tổ chức cho giai cấp công nhân
trước và trong cuộc cách mạng,
nhằm mục đích ngăn chặn chính
phủ cản trở cách mạng thành
công



Quan điểm,
mục tiêu

Mục tiêu cấp thiết của cách
mạng ở thuộc địa chưa phải là
giành quyền lợi riêng biệt của mỗi
giai cấp mà là quyền lợi chung
của tồn dân tộc.
Đó là những mục tiêu của
chiến lược đấu tranh dân tộc, phù
hợp với xu thế của thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc, đáp ứng nguyện
vọng độc lập, tự do của quần
chúng nhân dân.

Quan điểm của họ là cuộc cách
mạng phải là một cuộc cách mạng
xã hội từ dưới lên, tìm cách biến
đổi tất cả các khía cạnh của xã
hội và các cá nhân tạo nên xã hội.
Một số cuộc cách mạng chỉ thay
đổi hình thức chính phủ bằng
cách đưa một bộ cai trị mới thay
thế cho cái cũ.
Đó sẽ là một cuộc cách mạng
“xã hội”. Cách mạng vơ sản ở
chính quốc với mục đích lật đổ
các giai cấp tư sản ở các nước đế
quốc tại thuộc địa, mục đích

chính là giành được độc lập cho
các nước thuộc địa khỏi sự thống
trị của các nước đế quốc.

=> Nhận xét: Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng
thuộc địa nên Quốc tế Cộng sản có lúc xem nhẹ vai trị của cách mạng thuộc địa, cho
rằng cách mạng thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản (năm 1928) đã thông qua “Những luận cương về phong trào cách mạng
trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa” trong đó có đoạn viết: Chỉ có thể thực hiện
hồn tồn cơng cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vơ sản giành được thắng
lợi ở nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân
dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập
dân tộc.

• Tư tưởng của V.I. Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vơ sản ở
chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa.
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vơ sản ở chính quốc. Quan
điểm này vơ hình chung đã làm giảm tính chủ động sáng tạo các phong trào cách mạng ở
thuộc địa.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vơ sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng,
khơng lệ thuộc, khơng phụ thuộc vào nhau. Nhận thức đúng được vị trí, vai trị, chiến

17


lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh của các dân tộc, Đây là một lực điểm sáng tạo
có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một sự cống hiến rất quan trọng của Nguyễn Ái

Quốc vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đã được thắng lợi của phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Và
thực tiễn chúng ta thấy rằng các Đảng cộng sản lúc bấy giờ ở những nước tư bản thì chưa
đánh giá cao vai trị hoặc là chưa nhìn thấy sức mạnh của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc là người sinh ra trong lòng của dân tộc thuộc địa, hiểu rõ về tình
hình ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, hiểu rõ được các giá trị của người phương
Đơng nói chung và người Việt Nam nói riêng. Người đã nhìn thấy được sức mạnh của
các dân tộc thuộc địa và thấy được vai trị, vị trí của cuộc Cách mạng Giải phóng dân tộc
và thuộc địa. Chính vì vậy mà Người cho rằng là: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào giai cấp
vơ sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi.”
Đảng ta đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành được độc lập và sau đó thì chúng ta
biết rằng lãnh đạo của kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ hồn thành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Trong khi đó ở nhiều nước tư bản bản
thân giai cấp công nhân, các Đảng cộng sản của các nước đó ngày hơm nay vẫn chưa
thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình.

• Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.
Do nhận thức được đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, thuộc
địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, đánh giá đúng đắn sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước cách
mạng vơ sản ở chính quốc và tác động thúc đẩy cách mạng vơ sản ở chính quốc. Luận
điểm này của Hồ Chí Minh đã có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất quan trọng. Đó là cơ sở để
Đảng ta tin tưởng và quyết tâm tổ chức lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên làm cách
mạng để tự giải phóng khỏi ách đế quốc xâm lược và khỏi nghèo nàn lạc hậu. Đó cũng
chính là cơ sở của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của nhân dân Việt Nam trong
sự nghiệp cách mạng. Nhờ tinh thần đó mà cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng
lợi to lớn. Với thực tiễn thắng lợi lần lượt vào năm 1945 và 1975 ở Việt Nam cũng như

thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới vào những năm 1960 của thế kỷ

18


XX, trong khi cách mạng vơ sản ở chính quốc chưa nổ ra và thắng lợi càng chứng minh
luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to
lớn.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực cách mạng.
• Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến của
mọi cuộc cách mạng, là bàn đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén trong lòng xã
hội mới. Để giai cấp vô sản lật đổ nhà nước tư sản, giành và giữ vững chính quyền cách
mạng tất yếu phải sử dụng bạo lực. Nhà nước tư bản bị thay thế bởi Nhà nước vô sản
không thể bằng con đường “tiêu vong” được, mà chỉ chỉ có thể theo quy luật chung là
bằng bạo lực cách mạng mà thôi. Song chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định: về lý
luận, cách mạng vẫn có thể xảy ra và giành thắng lợi bằng phương pháp hồ bình, nhưng
nó hết sức hiếm và quý.
C.Mác - Ph. Ăngghen không chỉ khẳng định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp
vô sản, mà cũng đề cập đến con đường, biện pháp, để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh
ấy, là dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, lật đổ chính quyền cũ,
xây dựng chính quyền mới “bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để đánh
thắng và đập tan tành những hình thức chính trị cứng đờ và chết”.
Các ơng cho rằng, bạo lực diễn ra dưới hình thức nào là tuỳ thuộc vào tình hình
thực tiễn và sự vận dụng sáng tạo của những người cộng sản, chứ không có một khn
mẫu để áp dụng ở mọi nơi, mọi thời điểm lịch sử. Dân tộc muốn giành độc lập cho mình
thì khơng được tự giới hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường.
Đặc biệt, C. Mác Ph. Ăngghen đã phân tích một cách cụ thể và sâu sắc bạo lực cách

mạng dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang. Khi tiến hành khởi nghĩa vũ trang phải quán
triệt tư tưởng tiến công, tiến công liên tục và sáng tạo, q trình tiến cơng cũng là q
trình tập hợp lực lượng, cô lập, bao vây kẻ thù, không cho kẻ thù kịp trở tay đối phó với
khởi nghĩa vũ trang. V.I.Lênin cho rằng, khởi nghĩa vũ trang là phương tiện để lật đổ chế
độ chuyên chế và giành thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khi tiến hành khởi
nghĩa vũ trang phải nắm vững thời cơ cách mạng, nghĩa là đội tiên phong và các tầng lớp
nhân dân có một tinh thần triệt để cách mạng, khi mà kẻ thù cũng như lực lượng phản
cách mạng yếu đuối, nửa vời và tỏ ra dao động đến tột đỉnh. Như vậy, một trong những

19


điều kiện để khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi là phát huy sức mạnh to lớn của quần
chúng nhân dân, với tinh thần mọi lực lượng, mọi tài nguyên của đất nước phải được
động viên cho cuộc cách mạng. Lực lượng toàn dân, nhưng phải tổ chức, kết hợp thành
lực lượng chính trị và quân sự, kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự,
giữa chiến tranh du kích và sự nổi dậy của quần chúng để giành chính quyền về tay nhân
dân.

• Sự vận dụng sáng tạo phương pháp bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh với
thực tiễn cách mạng Việt Nam
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phân
tích bản chất của chủ nghĩa thực dân và chỉ rõ tự bản thân nó đã là bạo lực của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu. Vì thế, để giải phóng mình, các dân tộc bị áp bức khơng có con đường
nào khác là con đường cách mạng bạo lực. Hồ Chí Minh cho rằng, bạo lực cách mạng để
đập tan bạo lực phản cách mạng của thực dân Pháp, giành chính quyền về tay nhân dân.
Thắng Pháp là chúng ta đã thắng Mỹ một phần vì khi đó Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhưng
cịn đang giấu mặt. Người đã nhiều lần chỉ rõ bản chất của đế quốc Mỹ là “chết thì chết,
nết khơng chừa”, Cho nên việc tăng cường sức mạnh của bạo lực cách mạng và xây dựng
thực lực của cách mạng là điều rất cần thiết, cấp bách.

Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của
giai cấp, của dân tộc, cần sử dụng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Việc chúng ta sử dụng bạo lực cách mạng
là một đòi hỏi tất yếu để chống lại bạo lực phản cách mạng, hoàn tồn khơng phải là đam
mê hay là sùng bái bạo lực. Thực tế cho thấy, xuất phát từ phía kẻ thù, do đó Chính vì thế
mà nhân dân Việt Nam “phải kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược để tự vệ,
bảo vệ những quyền dân tộc thiêng liêng nhất của mình, đồng thời góp phần giữ gìn hồ
bình ở châu Á và thế giới”.
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh đã xác định rõ bạo lực cách mạng là bạo lực của
quần chúng nhân dân, có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện mục tiêu
giành và giữ chính quyền. Theo đó, những người cách mạng phải tìm các biện pháp phù
hợp để thu hút, tập hợp các lực lượng, tầng lớp nhân dân, quy tụ mọi nguồn lực cho sự
nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

20


Về hình thức của bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuỳ tình hình cụ thể
mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết
hợp các hình thức đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách
mạng”. Như vậy, việc sử dụng bạo lực cách mạng không đơn thuần chỉ là sử dụng lực
lượng quân sự và đấu tranh quân sự mà phải biết kết hợp nó với lực lượng chính trị và
đấu tranh chính trị của quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp mới có thể giành thắng
lợi cho cách mạng.

• Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã sớm
hình thành phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp của bạo lực cách mạng phù hợp với

hoàn cảnh thực tiễn cách mạng Việt Nam, trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm sử dụng
phương pháp bạo lực cách mạng trong cách mạng tháng Tám 1945, và trong kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Trong Cương lĩnh đầu tiên Đảng Cộng sản
Việt Nam ta khẳng định: phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh tổng hợp của quần
chúng để lật đổ ách thống trị của đế quốc tay sai, khi Đảng đề ra được đường lối đúng thì
phương pháp cách mạng giữ vai trị đặc biệt quan trọng, nó là nhân tố quyết định sự
thắng lợi của cách mạng; nhưng vấn đề xác định đúng phương pháp cách mạng có ý
nghĩa to lớn đến việc sử dụng lực lượng thực hiện đúng nhiệm vụ, phương hướng, mục
tiêu cách mạng trong từng thời gian cụ thể, đề ra phương pháp cách mạng cho phù hợp để
lãnh đạo thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đề ra. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước hào hùng của dân tộc nhờ một trong những vấn đề cơ bản là: Nắm vững lý luận về
phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
của đất nước:
- Một là: Những vấn đề cơ bản về phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp của
bạo lực cách mạng, được Đảng ta xác định ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ và
khơng ngừng hồn chỉnh trong thực tiễn chỉ đạo chiến tranh cách mạng giải phóng dân
tộc.
- Hai là, Đảng đã đề ra chủ trương đúng đắn, sáng tạo phản ánh đúng tình hình
thực tế, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang sử dụng phương pháp đấu tranh
là bạo lực cách mạng để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp đảng bộ.

21


- Ba là, Đảng đã độc lập lập, tự chủ, sáng tạo về đường lối và sự phát triển phong
phú bạo lực cách mạng tổng hợp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Bốn là, sử dụng bạo lực cách mạng với sự kết hợp chặt chẽ hai lực lực lượng
chính trị, qn sự và hai hình thức đấu tranh chính trị đấu tranh quân sự là nội dung cơ
bản của phương thức bạo lực cách mạng mà Đảng ta sớm nhận thức và vận dụng nhuần
nhuyễn sáng tạo trong quá trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

- Năm là, nghệ thuật lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành
sức mạnh tổng hợp của bạo lực cách mạng.
Đảng ta từng bước hình thành và phát triển, sử dụng phương pháp bạo lực cách
mạng trong cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian khổ để thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng đảng đã rút ra nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu để vận dụng vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng như
trong công cuộc đổi mới hiện nay.

22


C/ KẾT LUẬN
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một phần khơng
thể thiếu trong lịch sử Việt Nam và Châu Á. Với tầm nhìn chiến lược và triết lý độc đáo,
Hồ Chí Minh đã đưa đất nước Việt Nam đến thành công trong cuộc chiến giành độc lập
và thống nhất. Hồ Chí Minh đã rất thành công trong việc khai thác những điểm mạnh của
cách mạng Marx-Lenin và áp dụng chúng vào hoàn cảnh của Việt Nam. Tư tưởng của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trên nền tảng lịch sử và văn hóa Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã nâng cao nhận thức về tình hình thực tế của đất nước và nhân dân
Việt Nam, và dựa trên những kiến thức này, Hồ Chí Minh đã lên kế hoạch và thực hiện
chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.
Với tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của mình, Hồ Chí Minh đã giúp Việt
Nam giành được độc lập, thống nhất và phát triển. Tư tưởng của Hồ Chí Minh cịn đóng
vai trị quan trọng trong các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam.
Cùng những thành tựu đã đạt được, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc đã trở thành một biểu tượng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và được tơn vinh bởi
nhân dân Việt Nam và các nước trong khu vực. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một di sản
quý giá mà nhân loại cần phải trân trọng và học tập.

23



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

• Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021.
• Nguyễn Xn Mỹ, Những đóng góp của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng vơ
sản, 2021.
• PGS, TS Nguyễn Danh Tiên, Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc và giá trị thời đại, 2021.
• TS Trần Dỗn Tiến, Hồ Chí Minh với việc đi tìm chân lý thời đại: “Muốn cứu
nước khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”, 2021.
• TS Vũ Thị Dun, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thơng tháng 4.2021.
• Nguyễn Quốc Khương, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc,
Tạp chí VHNT số 352, tháng 10-2013.

24



×