Tải bản đầy đủ (.pdf) (253 trang)

(Luận án tiến sĩ) Quản lý Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới ở Việt Nam theo Công ước Di sản Thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 253 trang )

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
********

NGUYỄN VIẾT CƯỜNG

QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI
Ở VIỆT NAM THEO CÔNG ƯỚC DI SẢN THẾ GIỚI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

HÀ NỘI, 2021


BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
********

NGUYỄN VIẾT CƯỜNG

QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI
Ở VIỆT NAM THEO CÔNG ƯỚC DI SẢN THẾ GIỚI

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 9319042

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đặng Văn Bài
2. PGS.TS. Nguyễn Sỹ Toản


HÀ NỘI, 2021


0
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của bản thân tôi thực
hiện. Các kết quả nghiên cứu và kết luận trong luận án này là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu của ai khác. Việc tham khảo các tài
liệu đã được trích dẫn và ghi nguồn theo đúng quy định.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về những cam đoan nói trên.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Viết Cường


1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ....................................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. 2
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ ....................................................................... 3
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HĨA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI THEO CƠNG ƯỚC
DI SẢN THẾ GIỚI VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC DI SẢN THẾ GIỚI Ở VIỆT NAM ... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 9
1.2. Cơ sở lý luận ....................................................................................................... 19
1.3. Khái quát về các Di sản Thế giới ở Việt Nam .................................................... 34
Tiểu kết ....................................................................................................................... 45

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN
THẾ GIỚI Ở VIỆT NAM THEO CÔNG ƯỚC DI SẢN THẾ GIỚI ..................... 47
2.1. Chủ thể quản lý và cơ chế quản lý ...................................................................... 47
2.2. Các hoạt động quản lý ......................................................................................... 54
2.3. Đánh giá .............................................................................................................. 89
Tiểu kết ..................................................................................................................... 106
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ DI SẢN
VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI Ở VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI CÔNG
ƯỚC DI SẢN THẾ GIỚI .......................................................................................... 108
3.1. Những định hướng trong công tác quản lý Di sản Thế giới.............................. 108
3.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý Di sản Thế giới ......................... 111
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Di sản Thế giới ở Việt Nam .................. 124
Tiểu kết ..................................................................................................................... 141
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 143
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................ 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 150
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 165


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BQL

Ban quản lý/Trung tâm quản lý


DSTG

Di sản Thế giới

DSTNTG

Di sản Thiên nhiên Thế giới

DSVH

Di sản văn hóa

DSVHTG

Di sản Văn hóa Thế giới

DSVHTNTG

Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới

GS

Giáo sư

ICCROM

Trung tâm nghiên cứu quốc tế về bảo tồn và trùng tu các di
sản văn hóa


ICOMOS

Hội đồng quốc tế về Di tích và Di chỉ

IUCN

Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới

Nxb

Nhà xuất bản

NCS

Nghiên cứu sinh

PTBV

Phát triển bền vững

TS

Tiến sĩ

Tr

Trang

UBND


Ủy ban nhân dân

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc

VHTTDL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch

VHTT

Văn hóa và Thể thao

WHC

Trung tâm Di sản Thế giới UNESCO


3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1. Chín thành phần của một hệ thống quản lý di sản .............................. 23
Sơ đồ 2.1. Tổ chức bộ máy quản lý Di sản Thế giới ở Việt Nam ........................ 53
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Các khóa đào tạo, chương trình tập huấn huấn, bồi dưỡng cho nguồn
nhân lực tại các Di sản Thế giới (giai đoạn 2011 - 2020) .................................... 58
Bảng 2.2. So sánh quy định của UNESCO và Việt Nam trong quản lý Di sản Thế

giới ........................................................................................................................ 65
Bảng 2.3. Tình trạng xây dựng và thực thi Kế hoạch quản lý của các Di sản Thế
giới ở Việt Nam .................................................................................................... 68
Bảng 2.4. Tình trạng thực thi Quy hoạch của các Di sản Thế giới ở Việt Nam .. 71
Bảng 2.5. Số lượng đề tài, chương trình, dự án nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại
các Di sản Thế giới ở Việt Nam (giai đoạn 2011 - 2020) .................................... 78
Bảng 2.6. Bảng đánh giá SWOT về hiệu quả quản lý Di sản Thế giới ở Việt Nam .. 95
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Số lượng phịng/ban chun mơn, đơn vị trực thuộc của các Ban
quản lý Di sản Thế giới ở Việt Nam .................................................................... 56
Biểu đồ 2.2. Nguồn nhân lực tại các Ban quản lý Di sản Thế giới ở Việt Nam .. 57
Biểu đồ 2.3. Nguồn nhân lực tại các Ban quản lý Di sản Thế giới ở Việt Nam
theo trình độ đào tạo ............................................................................................. 58
Biểu đồ 2.4. Tần suất ban hành văn bản quy phạm pháp luật về di tích, danh
thắng, Di sản Thế giới do Trung ương ban hành (từ năm 1945 đến nay) ............ 61
Biểu đồ 2.5. Các văn bản pháp luật ở địa phương về Di sản Thế giới................. 64
Biểu đồ 2.6. Kinh phí sử dụng của các Di sản Thế giới ở Việt Nam giai đoạn
2016 - 2020 ........................................................................................................... 72
Biểu đồ 2.7. Tổng kinh phí sử dụng của các Di sản Thế giới ở Việt Nam giai
đoạn 2016 - 2020 .................................................................................................. 75
Biểu đồ 2.8. Các khuyến nghị của UNESCO và việc thực hiện của các Di sản
Thế giới ở Việt Nam ............................................................................................. 86
Biểu đồ 2.9. Khách du lịch tại các Di sản Thế giới ở Việt Nam (giai đoạn 2016 2020) ................................................................................................................... 101
Biểu đồ 2.10. Doanh thu từ bán vé tham quan, dịch vụ tại các Di sản Thế giới ở
Việt Nam (giai đoạn 2016 - 2020)...................................................................... 102


4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) được
thành lập năm 1945 với một trong những lĩnh vực hoạt động trọng tâm là bảo vệ các
DSVH và thiên nhiên trên thế giới. Các DSTG được UNESCO công nhận đều mang
trong mình “giá trị nổi bật tồn cầu”, những giá trị mà các quốc gia đều nhận thức, chia
sẻ và là một trong những nền tảng phát triển của nhân loại, con đường đưa các dân tộc
và quốc gia xích lại gần nhau hơn.
Năm 1972, một văn bản quan trọng về DSVH được UNESCO thơng qua, đó là
Cơng ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới (Công ước Di sản Thế
giới/Công ước). Đây là Công ước duy nhất kết hợp giữa việc bảo vệ DSVH và di sản
thiên nhiên, có ảnh hưởng sâu rộng nhất, được các quốc gia thành viên nghiên cứu áp
dụng trong việc bảo vệ và quản lý DSTG ở nước mình. Từ khi ra đời cho đến nay, tuy
nội dung Công ước không thay đổi nhưng Hướng dẫn thực hiện Công ước Di sản Thế
giới (Hướng dẫn thực hiện Công ước) lại thường xuyên được sửa đổi, bổ sung để cập
nhật những quan điểm mới của UNESCO và chi tiết, cụ thể hóa những quan điểm đó,
nhằm hỗ trợ các quốc gia thực hiện Công ước. Đến năm 2020, đã có 194 quốc gia phê
chuẩn và trở thành thành viên của Cơng ước này. Việt Nam chính thức phê chuẩn tham
gia Công ước năm 1987.
Từ khi tham gia Công nước đến nay, Việt Nam đã có 08 DSVH, thiên nhiên và
hỗn hợp được ghi vào Danh mục DSTG. Cũng từ sau thời điểm 1987, chúng ta đã có
nhiều thay đổi về nhận thức, lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực này, thể hiện qua hệ
thống pháp luật về DSVH được xây dựng dần tiệm cận với tinh thần của Công ước,
như các quy định về DSVH, di sản thiên nhiên, cảnh quan văn hóa, tính tồn vẹn, tính
xác thực của DSVH...; công tác quản lý DSTG của Việt Nam cũng đã chịu những tác
động tích cực từ Cơng ước về chính sách, tổ chức bộ máy, nhân sự, nguồn lực đầu tư
để bảo vệ di sản... Đặc biệt, từ sau khi di sản đầu tiên được ghi vào Danh mục DSTG
(năm 1993), công tác bảo vệ, quản lý DSTG đã có nhiều chuyển biến tích cực: Hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật dần được hoàn thiện, bộ máy quản lý DSTG từ
trung ương đến địa phương đang được củng cố, các nguồn lực để bảo vệ DSTG được
ưu tiên, huy động tối đa so với các di sản khác. Chúng ta cũng luôn tranh thủ sự hỗ trợ



5
quốc tế để bảo vệ DSTG... Vì thế, tính tồn vẹn, tính xác thực tạo nên giá trị nổi bật
tồn cầu của các DSTG vẫn được bảo vệ; các giá trị của di sản đang được phát huy khá
hiệu quả. Tuy vậy, việc quản lý DSTG ở Việt Nam còn bộc lộ những mặt hạn chế, bất
cập ở các khía cạnh khác nhau cần phải khắc phục.
Trong thời gian qua việc nghiên cứu về DSTG nói chung, quản lý DSTG ở Việt
Nam nói riêng đã được nhiều học giả quan tâm và đã có một số cơng trình nghiên cứu
đề cập đến quản lý, bảo tồn những DSTG cụ thể. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình
nào tiếp cận, nghiên cứu công tác quản lý DSTG ở Việt Nam theo quy định của Công
ước một cách tổng thể. Bởi vậy, việc nghiên cứu, nhận diện và bổ sung, chỉnh sửa để
việc quản lý DSTG ở nước ta ngày một tốt hơn, theo tinh thần của Công ước, Hướng
dẫn thực hiện Cơng ước và Chính sách về việc lồng ghép quan điểm PTBV vào các
quy trình của Cơng ước Di sản Thế giới (UNESCO, 2015), (Chính sách về DSTG và
PTBV của UNESCO) là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Từ những lý do trên, NCS chọn đề tài “Quản lý Di sản Văn hóa và Thiên
nhiên Thế giới ở Việt Nam theo Công ước Di sản Thế giới” làm đề tài luận án tiến sĩ
chuyên ngành Quản lý văn hóa.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý DSTG ở Việt Nam tiếp
sát/phù hợp với nội dung của Công ước, Hướng dẫn thực hiện Cơng ước và Chính sách
về DSTG và PTBV của UNESCO.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề liên quan đến quản lý DSTG, Công ước, Hướng
dẫn thực hiện Cơng ước, Chính sách về DSTG và PTBV của UNESCO để hình thành
cơ sở lý luận cho luận án.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý DSTG ở Việt Nam theo Công ước Di

sản Thế giới.
- Nghiên cứu định hướng của UNESCO và của Việt Nam, kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới về quản lý DSTG.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý DSTG ở Việt Nam theo
Công ước hướng tới mục tiêu PTBV của UNESCO trong thời gian tới.


6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu quản lý DSTG ở Việt Nam theo tinh thần của Công
ước, Hướng dẫn thực hiện Cơng ước và Chính sách về DSTG và PTBV của UNESCO.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
Tập trung nghiên cứu tại 08 DSTG ở Việt Nam, gồm: Quần thể di tích Cố đơ
Huế (Thừa Thiên Huế), Khu phố cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn (Quảng Nam),
Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội (Hà Nội), Thành Nhà Hồ (Thanh
Hóa), Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), VQG Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình),
Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) và cả các chủ thể ở trung ương, địa
phương và các đơn vị phối hợp. Ngồi ra luận án cịn khảo sát, tìm hiểu về công tác
quản lý DSTG ở các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế liên quan.
- Về thời gian:
Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý DSTG ở Việt Nam
theo Công ước Di sản Thế giới từ năm 1993 đến nay. Năm 1993 là năm Việt Nam có
DSVH đầu tiên được ghi vào Danh mục DSTG - Quần thể di tích Cố đơ Huế. Trong
một vài trường hợp, để so sánh luận án có thể đề cập đến những hoạt động ở các mốc
thời gian sớm hơn.
4. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
4.1. Giả thuyết nghiên cứu
- Quản lý DSTG ở Việt Nam thời gian qua chưa hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu

bảo vệ DSTG được nêu trong Công ước và Hướng dẫn thực hiện Công ước, nhất là
theo quan điểm PTBV của UNESCO.
- Chúng ta có cơ sở để nâng cao hiệu quả quản lý DSTG ở Việt Nam trong thời
gian tới.
4.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Các nội dung hoạt động quản lý DSTG ở Việt Nam theo Công ước Di sản Thế
giới hiện nay như thế nào, đã đảm bảo chưa?
- Các hoạt động quản lý DSTG ở Việt Nam đã đóng góp vào PTBV theo quan
điểm của UNESCO như thế nào?
- Giải pháp nào để cải thiện, nâng cao việc quản lý DSTG ở Việt Nam?


7
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này không chỉ được NCS sử
dụng để xử lý các nội dung của Công ước và Hướng dẫn thực hiện Cơng ước, Chính
sách về DSTG và PTBV của UNESCO và quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý
DSTG, mà còn dùng trong tổng hợp và phân tích các cơng trình nghiên cứu liên quan,
các số liệu thứ cấp cũng như trong suốt quá trình triển khai luận án.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh nội dung quản lý DSTG theo
Công ước, Hướng dẫn thực hiện Công ước và quan điểm PTBV mà UNESCO đã đặt ra
với những quy định của pháp luật về DSVH của Việt Nam, so sánh giữa các di sản với
nhau, qua đó tìm hiểu những điểm giống và khác nhau để làm cơ sở bổ sung, hoàn
thiện nhằm áp dụng vào thực tiễn quản lý DSTG ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Phương pháp khảo sát thực địa: NCS tiến hành nhiều đợt khảo sát thực địa tại
các DSTG ở Việt Nam thuộc địa bàn nghiên cứu. Ở các địa bàn nghiên cứu, NCS thực
hiện quan sát, ghi chép, chụp hình, điều tra nhằm tìm hiểu thực trạng cơng tác quản lý
DSTG. Bên cạnh đó, các tài liệu, văn bản khác có liên quan tại địa bàn nghiên cứu

cũng được NCS chú trọng thu thập.
- Phỏng vấn sâu: Trong quá trình thực hiện luận án, NCS đã tiến hành được
hàng chục cuộc phỏng vấn sâu với các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý trong
nước và quốc tế về quản lý DSTG ở Việt Nam để tìm hiểu về những quy định của
Cơng ước và việc áp dụng vào thực tiễn gắn với quan điểm PTBV của UNESCO ở các
khu DSTG.
- Phương pháp mơ hình hóa: được sử dụng để nghiên cứu sơ đồ bộ máy quản lý
DSTG ở Việt Nam, qua đó xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý,
các tổ chức, cá nhân có liên quan làm cơ sở đề xuất mơ hình bộ máy quản lý DSTG
phù hợp với thực tiễn.
6. Đóng góp mới của Luận án
Về lý luận
Luận án cung cấp các quan điểm, nội dung quản lý DSTG của Công ước và so
sánh với pháp luật về DSVH hiện hành, góp phần làm đầy đủ và phong phú hơn các
quy định về bảo vệ, quản lý DSTG ở Việt Nam.


8
Về thực tiễn
- Là cơng trình đầu tiên chỉ ra đầy đủ những bất cập, hạn chế trong quản lý
DSTG ở Việt Nam theo Công ước Di sản Thế giới.
- Đưa ra các giải pháp cần thiết, phù hợp và khả thi để khắc phục những bất cập,
hạn chế, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý DSTG hướng đến mục tiêu PTBV.
- Là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, nhà thực hành, hoạch định chính
sách trong quá trình điều chỉnh chính sách, chiến lược quản lý DSTG ở Việt Nam tiếp
sát với Công ước, Hướng dẫn thực hiện Công ước và quan điểm về PTBV của
UNESCO trong quản lý DSTG.
7. Bố cục của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu
thành 03 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận về quản lý Di sản Văn
hóa và Thiên nhiên Thế giới theo Cơng ước Di sản Thế giới và khái quát về các Di sản
Thế giới ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng quản lý Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới ở Việt
Nam theo Công ước Di sản Thế giới.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Di sản Văn hóa và
Thiên nhiên Thế giới ở Việt Nam phù hợp với Công ước Di sản Thế giới.


9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI
THEO CÔNG ƯỚC DI SẢN THẾ GIỚI VÀ KHÁI QUÁT
VỀ CÁC DI SẢN THẾ GIỚI Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu về chính sách, nguyên tắc, định hướng quản lý Di sản
Thế giới
Một trong những nội dung quan trọng của quản lý, nhất là quản lý nhà nước các
ngành, lĩnh vực nói chung, lĩnh vực DSVH nói riêng là các văn bản pháp quy, hệ thống
chính sách và nguyên tắc thực hiện. Các văn bản này ít tồn tại dưới dạng cơng trình
khoa học, cơng trình nghiên cứu của các cá nhân, mà là những văn bản quy phạm pháp
luật, quy định, tài liệu hướng dẫn… của nhà nước, các tổ chức, đơn vị, cá nhân có chức
năng, nhiệm vụ phù hợp. Điểm lại những tài liệu liên quan, ta có thể thấy rõ điều đó:
Với nội dung trên, có thể kể đến những tài liệu nghiên cứu, định hướng về quản lý
DSTG của các tổ chức quốc tế như UNESCO, WHC, ICOMOS, IUCN, ICCROM gồm:
“Quản lý Di sản Thiên nhiên Thế giới” [136], “Quản lý Di sản Văn hóa Thế giới” [103],
“Hướng dẫn đánh giá tác động di sản cho Di sản Văn hóa Thế giới” [104], “Tài liệu tư
vấn Di sản Thế giới: Đánh giá môi trường” [106], “Quản lý rủi ro thiên tai cho Di sản
Thế giới” [102], “Sổ tay hướng dẫn xây dựng Tuyên bố giá trị nổi bật toàn cầu đối với

các Di sản Thế giới” [131], “Chuẩn bị các đề cử Di sản Thế giới” [105]. Những nghiên
cứu, tài liệu trên đã thiết lập và hệ thống hóa các chính sách, ngun tắc căn bản, định
hướng hoặc đề xuất các thực hành để hỗ trợ các quốc gia thành viên quản lý DSTG theo
Cơng ước, trong đó nhấn mạnh các nội dung liên quan đến: khuôn khổ pháp lý; kế hoạch
quản lý; các nhân tố ảnh hưởng/mối đe dọa đến di sản; nguồn lực tài chính; đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực; các bên liên quan; sử dụng bền vững và chia sẻ lợi ích; hoạt
động nghiên cứu, giám sát và báo cáo trong công tác quản lý DSTG.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu của các tổ chức quốc tế nêu trên, cịn có
các cơng trình nghiên cứu của một số tổ chức và cá nhân tiêu biểu như sau:
Cuốn “Quản lý Du lịch tại các khu Di sản Thế giới: Sổ tay thực hành cho các
nhà quản lý Di sản Thế giới” [123] của tác giả Arthur Pederson xuất bản năm 2002 đã
đưa ra một số nội dung chính cho thấy du lịch có những lợi thế như: lệ phí du khách


10
vào thăm, tiền miễn giảm thuế và các khoản đóng góp cung cấp ngân quỹ cho các nỗ
lực tu bổ và bảo vệ di sản... nhưng du lịch cũng đưa lại nhiều vấn đề đòi hỏi phải được
thường xuyên giám sát, đánh giá tác động của nó đối với mơi trường cùng những thủ
tục giảm thiểu những tác động đó.
Bài tham luận “Nâng cấp hoạt động Giám sát để bảo tồn Di sản Thế giới” tại
Hội nghị “Giám sát Di sản Thế giới” [96] của tác giả Giovanni Boccardi đã đề cập đến
cách thức giám sát DSTG trong khuôn khổ Công ước, nhấn mạnh sự cần thiết phải
phân biệt giữa giám sát trong bối cảnh của cơ quan trực tiếp quản lý di sản (được thực
hiện bởi nhân viên ở địa phương một cách liên tục) với giám sát như là một phần của
“Báo cáo định kỳ” thực hiện theo Công ước. Theo tác giả, hoạt động giám sát nên xem
xét các thay đổi ở một DSTG trong một khoảng thời gian nhất định, dựa trên các chỉ số
cụ thể cho chúng ta biết mức độ di sản đã được bảo tồn những giá trị ban đầu của nó
như thế nào.
Bài viết “Quản lý Di sản Thế giới - Kinh nghiệm thế giới và kiến nghị đối với
Việt Nam” của Li Hong [53] cho thấy, bên cạnh các tổ chức do UNESCO trực tiếp

thành lập, hiện nay trên thế giới đang tồn tại 09 Trung tâm hạng hai của UNESCO do
các quốc gia thành viên thành lập. Đặc biệt, tác giả cũng chỉ ra các mối đe dọa chính có
ảnh hưởng tới DSTG và trách nhiệm của những người quản lý di sản là cần đảm bảo
giảm thiểu được những mối đe dọa đó để DSTG được bảo vệ bền vững.
Cơng trình “Di sản văn hóa và các vấn đề liên quan - Thuật ngữ và định nghĩa
chung” của Cục Di sản văn hóa [16] đưa ra tiêu chuẩn quy định thuật ngữ và định
nghĩa trong lĩnh vực DSVH và các vấn đề liên quan giúp cho công tác quản lý DSVH
được thuận tiện và theo quy chuẩn.
Trong bài viết “Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long - Nhìn từ góc độ
quản lý nhà nước” [3] tác giả Đặng Văn Bài đề cập tới việc với những giá trị nổi bật
toàn cầu mà Vịnh Hạ Long đạt được, tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều cố gắng thực hiện
các quy định của Luật DSVH và Công ước trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa bảo tồn và phát triển, sự phối hợp liên ngành trong quá trình giải quyết những vấn
đề liên quan tới bảo tồn và phát huy giá trị Vịnh Hạ Long. Tác giả Đặng Văn Bài còn
đề cập đến bản chất và những trách nhiệm mà các quốc gia thành viên có DSTG phải
thực hiện các quy định của Công ước trong bài viết “Bàn luận về danh hiệu Di sản Văn
hóa và Thiên nhiên Thế giới của UNESCO” [4]. Tác giả Nguyễn Quốc Hùng bàn luận


11
đến các tiêu chí xác định giá trị nổi bật toàn cầu và sự thay đổi, điều chỉnh của các tiêu
chí xác định từ trước đến nay trong Cơng ước ở bài viết “Mấy vấn đề về giá trị tổi bật
tồn cầu của Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới” [36].
1.1.2. Nghiên cứu về bộ máy, nguồn nhân lực bảo vệ di sản
Luận án tiến sĩ “Quản lý Di sản Thế giới ở Việt Nam (qua trường hợp Cố đô Huế
và Đô thị cổ Hội An)” [14] của tác giả Trịnh Ngọc Chung đã đề cập đến thực trạng và
những bất cập trong công tác quản lý, cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quá
trình hoạt động của cơ quan quản lý Quần thể di tích Cố đơ Huế và Khu phố cổ Hội An,
đồng thời phác họa mơ hình quản lý DSTG, định hướng cho việc kiện toàn, nâng cao hiệu
quả quản lý DSTG ở Việt Nam thời gian tới.

Luận án tiến sĩ “Quản lý khu di sản Thành Nhà Hồ, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hóa” [54] của tác giả Nguyễn Bá Linh đã đề cập đến thực trạng của công tác quản lý,
chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao công
tác quản lý tại khu di sản Thành Nhà Hồ thời gian tới. Đặc biệt, trong Luận án bàn luận
sâu đến hai nội dung là hoạt động quản lý khu di sản tiếp cận từ quản lý nhà nước và
quản lý khu di sản tiếp cận từ quản lý cộng đồng sau khi Thành Nhà Hồ được UNESCO
công nhận là DSVHTG, việc quản lý phải tuân thủ nghiêm ngặt những hướng dẫn và
khuyến nghị của UNESCO tại Công ước Di sản Thế giới và thực hiện công tác quản lý
nhà nước về DSVH trên cơ sở văn bản pháp luật của Việt Nam.
Trong bài “Vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa” [2]
tác giả Đặng Văn Bài cho rằng: Quản lý nhà nước bằng văn bản pháp quy (bao gồm
các văn bản về bảo vệ, phát huy giá trị DSVH); quyết định về cơ chế, tổ chức quy
hoạch và kế hoạch phát triển; quyết định phân cấp quản lý... Việc phân cấp quản lý di
tích, hệ thống tổ chức ngành bảo tồn, bảo tàng và đầu tư ngân sách cho các cơ quan
quản lý di tích - là yếu tố có tính chất quyết định nhằm tăng cường hiệu quả quản lý; và
bài “Quản lý vùng đệm khu Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long trong q trình
đơ thị hóa thành phố Hạ Long” [6] tác giả lưu ý rằng BQL Vịnh Hạ Long cần khắc
phục tình trạng thiếu vắng bộ phận nghiên cứu khoa học chuyên sâu, cũng như khắc
phục vấn đề về thực quyền hay sức mạnh quản lý.
Tác giả Lưu Trần Tiêu đã đặt ra vấn đề về tổ chức bộ máy quản lý di tích nói
riêng, DSTG nói chung và đề nghị Nhà nước nâng cấp Cục Di sản văn hóa thành Tổng
Cục Di sản văn hóa trực thuộc Bộ VHTTDL để đảm bảo việc thường xuyên giám sát,


12
kiểm tra, thanh tra các hoạt động bảo tồn di tích, kịp thời phát hiện và có giải pháp
khắc phục những sai phạm trong việc tu bổ, tôn tạo di tích trong bài “Mấy vấn đề về
nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa” [76].
Tác giả Lê Thị Thu Hiền nhấn mạnh trong xu thế tồn cầu hóa với những thành
tựu của cuộc cách mạng 4.0 hiện nay để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ, phát huy giá trị

DSVH dân tộc cần phải xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành DSVH.
Để làm được điều đó, cần phải thực hiện các giải pháp như: Xây dựng chiến lược đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; Cập nhật khung kiến thức theo nhu cầu thực tế; Đa
dạng hình thức chuyển giao kiến thức; Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào
tạo trong bài “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực di sản văn hóa ở
Việt Nam” [33].
1.1.3. Nghiên cứu về thực trạng quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Thế
giới ở Việt Nam
Về nội dung này có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu sau: Bài “Mấy vấn đề về
hoạt động tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hóa” [75] của tác giả Lưu Trần Tiêu cho
rằng hoạt động bảo tồn di tích thể hiện ở 3 mặt cụ thể là: Bảo vệ di tích về mặt pháp lý
và khoa học, bảo vệ di tích về mặt vật chất, kỹ thuật; sử dụng di tích phục vụ nhu cầu
của xã hội. Bài “Di sản văn hóa Hội An - Nhìn lại hơn một phần tư thế kỷ bảo tồn
trong phát triển đơ thị” [50] của tác giả Hồng Đạo Kính cho thấy từ năm 1982, Tiểu
ban Ba Lan - Việt Nam về trùng tu di tích kiến trúc Chăm đã tiến hành nghiên cứu sự
hình thành và tiến hóa của đô thị - cảng Hội An. Qua nhiều chục năm sau đó, các cơ
quan và tổ chức khoa học khác từ trung ương đến địa phương đã dành nhiều công sức
cho công cuộc nghiên cứu Hội An, đã nhất quán theo đuổi những định hướng cơ bản
sau: bảo tồn địa bàn tự nhiên - sinh thái lịch sử - nhân văn của Hội An; bảo tồn các di
tích, trùng tu các di tích đơn lẻ; giữ nguyên vẹn khu phố cổ như là một di tích phố thị;
gắn liền bảo tồn di sản với quyền lợi của người dân, đảm bảo cho họ những điều kiện
sống ngày càng cải thiện, để họ được hưởng thành quả từ khai thác du lịch; bảo tồn
DSVH vật thể với bảo tồn DSVH phi vật thể; coi DSVH là tài nguyên đặc trưng, là
động lực phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hội An. Bài“Bảo tồn di sản văn hoá
vật thể Thăng Long - Hà Nội, những vấn đề phương pháp luận” [8] của tác giả Nguyễn
Chí Bền đề cập đến công cuộc bảo tồn DSVH vật thể của Thăng Long - Hà Nội những
năm qua đã đạt được nhiều kết quả to lớn, nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan


13

tâm, qua đó đã đề xuất việc cần thiết phải tổng kiểm kê di tích, khai thác DSVH vật thể
để phát triển du lịch nhưng phải có chính sách tái đầu tư cho công tác bảo tồn, phân cấp
quản lý DSVH rõ ràng. Bài “Bảo tồn toàn diện và bền vững di sản văn hóa Huế” [43]
của tác giả Nguyễn Thế Hùng nhấn mạnh những thành tựu đạt được trong 20 năm bảo
tồn và phát huy giá trị DSVH Huế từ khi được UNESCO công nhận, đồng thời đề cập
tới sự mong mỏi và kỳ vọng về việc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đơ Huế sẽ đóng một
vai trò to lớn hơn ở khu vực miền Trung với tư cách là một trung tâm nghiên cứu khoa
học về bảo tồn. Bài “Vài suy nghĩ về công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế” [60] của
tác giả Phùng Phu đã đánh giá một cách tổng quan về công cuộc bảo tồn DSVH Huế kể
từ sau lời kêu gọi cứu vãn DSVH Huế của Ngài M’Bow - Tổng Giám đốc UNESCO
lúc đó vào năm 1981 đến năm 2010. Thơng qua các hoạt động cụ thể về bảo tồn di tích,
bảo vệ DSVH phi vật thể, tơn tạo cảnh quan môi trường di sản, hợp tác quốc tế, phát
huy giá trị di sản, để đúc rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn áp dụng cho công
cuộc bảo tồn và phát huy giá trị DSTG. Bài “Về công tác bảo tồn di sản văn hóa Huế”
[30] của tác giả Phan Thanh Hải cho thấy DSVH Huế sau hai cuộc chiến tranh kéo dài
suốt 30 năm (1945 - 1975) đã bị tàn phá nghiêm trọng. Những năm qua, các hoạt động
tu bổ, bảo tồn cảnh quan, mơi trường di tích, DSVH phi vật thể, hợp tác quốc tế, ứng
dụng thành tựu khoa học bảo tồn, đào tạo nguồn nhân lực, phát huy giá trị di sản… đã
được triển khai mạnh mẽ, nhờ đó, DSVH Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn
cấp và đang từng bước hồi sinh diện mạo ban đầu của một Cố đô lịch sử. Bài “Thực
trạng và định hướng nghiên cứu, ứng dụng khoa học và cơng nghệ góp phần bảo tồn di
sản Cố đơ Huế” [31] của tác giả Phan Thanh Hải cho thấy nghiên cứu khoa học và
công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý, bảo tồn DSVH một cách bền vững có
hệ thống được Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đơ Huế áp dụng, góp phần quan trọng cho
công tác bảo tàng, trưng bày triển lãm, tham quan du lịch văn hóa, giáo dục tại Khu di
tích Cố đơ Huế. Tác giả Trương Quốc Bình với bài “Xã hội hóa các hoạt động bảo vệ
và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa ở Việt Nam” [9] cho thấy xã hội hóa các
hoạt động bảo tồn DSVH là vận động và tổ chức các tổ chức xã hội và nhân dân, xây
dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân với các cơ quan nhà nước, sự
mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong

xã hội tham gia vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy DSVH.
Những nghiên cứu về giá trị và đóng góp của di sản có thể kể đến các cơng trình
tiêu biểu sau: Tác giả Nguyễn Thế Hùng có 02 bài viết và đề tài: bài “Phát huy giá trị di


14
tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước” [42] đã chỉ ra vai trò
của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh có giá trị to lớn và là nguồn
tài nguyên vô giá của đất nước, trên cơ sở đánh giá kết quả đạt được và những thiếu sót,
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích, danh
thắng. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2013 về “Bảo vệ di sản văn hóa trong
q trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [44] do tác giả làm chủ nhiệm
đã đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị
DSVH như: tăng cường công tác quản lý nhà nước, củng cố hoàn thiện bộ máy ngành,
tăng cường đầu tư, xã hội hóa, đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường hợp tác quốc tế…
Tác giả Nguyễn Quốc Hùng có 03 bài viết: bài “Vai trị của di sản văn hóa trong sự phát
triển ở nước ta hiện nay” [38] cho thấy DSVH đóng góp ngày càng tích cực vào sự
nghiệp phát triển của đất nước; bài “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa và thiên
nhiên trong q trình hội nhập” [40] cho rằng quá trình hội nhập và phát triển đã tạo
điều kiện cho DSVH và thiên nhiên của đất nước tăng thêm vị thế và có sức lan tỏa
mạnh mẽ, để chúng ta có thêm nguồn lực bảo vệ và phát huy giá trị DSVH, cũng như
đóng góp hơn nữa vào sự phát triển và hội nhập của đất nước; bài “Bảo tồn, phát huy giá
trị các Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới phục vụ phát triển ở nước ta” [35] chỉ ra
rằng, kể từ khi các di sản trở thành DSTG đã nhận được sự quan tâm đầu tư nhiều hơn từ
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế trên nhiều mặt trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị, đồng thời DSTG cũng đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã
hội, du lịch của đất nước. Hai tác giả Phan Hồng Giang và Bùi Hồi Sơn trong cơng trình
“Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế” [28] đã đưa ra
kinh nghiệm quản lý DSVH của một số nước trên thế giới làm bài học kinh nghiệm đối
với Việt Nam trên cơ sở so sánh một số điểm tương đồng. Tác giả Phạm Sanh Châu với

bài “Sức sống cho sự tồn tại của di sản Việt Nam” [11] cho thấy danh hiệu DSTG đã
góp phần khẳng định sự tồn tại, nâng cao ý thức bảo vệ, tạo nguồn lực để bảo tồn di sản.
Những nghiên cứu về bảo tồn, phát huy gắn với phát triển du lịch tại các khu di
sản, có các cơng trình tiêu biểu sau:
Luận án tiến sĩ “Khai thác hợp lý các Di sản Văn hóa Thế giới nhằm phát triển
du lịch miền Trung Việt Nam” [58] của tác giả Nguyễn Thị Thống Nhất chỉ ra rằng: để
khai thác hợp lý các DSVHTG cần phải khai thác đầy đủ giá trị di sản, việc khai thác
phải luôn đi đôi với việc tu bổ, tôn tạo và bảo vệ di sản, bảo vệ mơi trường và có vốn đầu
tư cho quá trình khai thác và bảo vệ DSVHTG.


15
Theo hướng tiếp cận địa lý học trong việc phát triển du lịch dựa vào cộng đồng như
một giải pháp quản lý và sử dụng tài nguyên bền vững tại DSTG ở Việt Nam, luận án tiến
sĩ “Cơ sở địa lý cho phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại các Di sản Thế giới ở Việt
Nam (nghiên cứu trường hợp Vịnh Hạ Long và Đô thị cổ Hội An) [47] của Chu Thành
Huy đã chỉ ra rằng: phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại các DSTG là giải pháp phù
hợp nhằm cân bằng mục tiêu phát triển kinh tế, an sinh xã hội với bảo tồn di sản.
Luận án Tiến sĩ “Quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch ở Đơ thị cổ Hội An,
tỉnh Quảng Nam” [29] của Nguyễn Thị Thu Hà cho thấy tồn tại một mối quan hệ năng
động với 4 trạng thái khác nhau giữa quản lý di sản và phát triển du lịch ở Hội An, bao
gồm: hợp tác, hợp tác khiên cưỡng, cùng tồn tại và chưa hài lòng, các trạng thái này chịu
sự tác động của 3 yếu tố ảnh hưởng gồm: tính đa dạng loại hình di sản, sự đa dạng của
các bên liên quan, định hướng quản lý và phát triển của chính quyền địa phương.
Nghiên cứu về quy hoạch phát triển du lịch, luận án tiến sĩ của Tạ Duy Thịnh với
đề tài “Mơ hình tổ chức khơng gian quy hoạch kiến trúc vùng du lịch sinh thái biển (Lấy
ví dụ vùng Hạ Long - Quảng Ninh 2000 - 2010)” [63] đề xuất 6 tuyến du lịch mới với
nội dung chủ yếu: tuyến nghiên cứu khoa học thực vật cổ, tuyến du lịch sinh thái, tuyến
du lịch hoang dã, đồng thời tại các khu vực này hình thành các trung tâm, điểm du lịch
chính trên vùng vịnh như cơng viên hang động, cơng viên văn hóa lịch sử.

Tác giả Nguyễn Quốc Hùng có bài “Đôi điều về việc bảo tồn và phát triển du
lịch tại các di sản ở Việt Nam hiện nay” [37], nhấn mạnh cần phải quan tâm xây dựng
hoàn thiện quy hoạch bảo tồn gắn với phát triển du lịch. Các quy hoạch phải hài hịa hỗ
trợ cho nhau, khơng mâu thuẫn nhau, các dự án thành phần phải tuân thủ quy hoạch đã
được phê duyệt.
1.1.4. Nghiên cứu về bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển bền vững
Tác giả Nguyễn Thế Hùng khi bàn về “Bảo tồn di sản văn hóa với sự phát triển
bền vững” [45] đã chỉ ra rằng, để bảo tồn DSVH, trong thời gian tới, cần tiếp tục tập
trung vào những nội dung sau: 1/ Hoàn thiện hệ thống pháp luật; 2/ Nâng cao nhận thức
của toàn xã hội về DSVH; 3/ Nhận thức việc bảo tồn DSVH và PTBV có mối quan hệ
chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau; 4/ Gắn bảo tồn với phát huy và khai thác thông qua phát
triển du lịch bền vững; 5/ Chú trọng công tác đào tạo cán bộ quản lý văn hóa; 6/ Bảo vệ
DSVH phải gắn liền với bảo vệ môi trường.


16
Tác giả Nguyễn Quốc Hùng đã nêu lên vai trò quan trọng của DSVH nói chung,
DSTG nói riêng ở Việt Nam đóng góp vào sự PTBV trên nhiều lĩnh vực khác nhau và là
cầu nối vững chắc gắn kết ba cột trụ chính của sự PTBV (phát triển kinh tế, công bằng xã
hội và cân bằng môi trường) và tương hỗ với các cột trụ đó. Để có thể bảo vệ và phát huy
các DSVH luôn phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của văn bản quy phạm pháp luật
về DSVH trong nước cũng như các điều ước, văn bản quốc tế mà Việt Nam đã tham gia,
trong đó có Cơng ước Di sản Thế giới qua bài “Di sản văn hóa, nhân tố quan trọng trong
phát triển bền vững” [41].
Tác giả Đặng Văn Bài khi bàn về “Huế với những nỗ lực thiết lập, duy trì sự hài
hịa/cân bằng động giữa bảo tồn và phát triển bền vững theo tinh thần Công ước của
UNESCO” [5] đã đề cập một số quan điểm, nguyên tắc của UNESCO trong việc bảo
vệ những giá trị nổi bật tồn cầu, tính tồn vẹn, tính xác thực của DSTG, từ đó áp dụng
vào việc thực thi để đảm bảo sự phát triển hài hịa giữa các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã
hội liên quan đến di sản.

Cuốn “Di sản Thế giới và phát triển bền vững - Định hướng mới trong quản lý
di sản thế giới” [117] do William Logan và Peter Bille Larsen chủ biên, tập hợp bài
viết của các nhà nghiên cứu tiếp cận từ Chính sách về DSTG và PTBV của UNESCO
dưới các khía cạnh khác nhau. Theo đó, các tác giả William Logan và Peter Bille
Larsen [118], Boccardi và Scott [97], Labadi [110] bàn về bối cảnh lịch sử, lý thuyết và
q trình dẫn đến việc thơng qua Chính sách lồng ghép quan điểm PTBV trong Cơng
ước Di sản Thế giới. Trong khi đó các tác giả Hosagrahar [101], Ost [122], Labadi
[111], Disko và Ooft [99], Larsen [112], Logan [116], Osipova, Badman và Larsen
[121] bàn về bốn khía cạnh chính sách PTBV về mơi trường, phát triển xã hội bao
trùm, phát triển kinh tế bao trùm và thúc đẩy hịa bình và an ninh. Bên cạnh đó, các tác
giả Marco, Denyer, Durighello và Ege Yildirim [120], Thompson và Wijesuriya [124]
trình bày quan điểm của IUCN, ICOMOS và ICCROM về các ngun tắc của Chính
sách. Ngồi ra, các tác giả Bakhoum [95], Londono và Silva [119], Juma [109], Jian
[108] đưa ra bàn luận đến các “nghiên cứu điển hình” về ý nghĩa thực tiễn của Chính
sách về DSTG và PTBV của UNESCO, nổi bật trong đó có bài “Áp dụng cách tiếp cận
phát triển bền vững cho Di sản Thế giới “Thị trấn Bamberg (Cộng hòa liên bang
Đức)” của Patricia Alberth [94] đã cung cấp một nghiên cứu trường hợp điển hình của
Châu Âu, có thể là bài học kinh nghiệm cho các DSTG tham khảo trong việc giải quyết


17
hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản và việc lồng ghép mục tiêu
PTBV của UNESCO, gắn với bốn nhóm yếu tố chủ yếu: sự bền vững về môi trường,
phát triển xã hội bền vững, phát triển kinh tế bền vững, hịa bình và an ninh.
Các tác giả Dương Bích Hạnh, Trần Thị Thu Thủy, Phạm Thị Thanh Hường và
Nguyễn Viết Cường trong bài “Di sản Thế giới và phát triển bền vững ở Việt Nam”
[100] cho thấy bên cạnh việc môi trường pháp lý và thể chế về bảo tồn DSTG ở Việt
Nam đã tương đối đầy đủ, vẫn cần có những quy định cụ thể hơn nữa nhằm tăng cường
thẩm quyền và năng lực cho các BQL DSTG trong việc xử lý những tình huống phức
tạp diễn ra hàng ngày tại di sản; tăng cường sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp

tư nhân trong các hoạt động khai thác, phát triển du lịch, dịch vụ dựa trên giá trị của
các khu DSTG.
Bài “Di sản Thế giới và phát triển bền vững: Nhìn từ khung chính sách quốc tế”
[115] của tác giả William Logan cho rằng việc thơng qua Chính sách về DSTG và
PTBV vào tháng 11 năm 2015 là một thành công và là bước tiến quan trọng đối với
UNESCO và Chương trình DSTG trong việc thiết lập khung nguyên tắc chung và các
mục tiêu khát vọng đối với các phương diện tiêu biểu của PTBV, nhưng một công việc
mấu chốt trong thực thi Chính sách này là phải thơng qua điều chỉnh Hướng dẫn thực
hiện Công ước; đồng thời tác giả William Logan cũng cho rằng Việt Nam hoàn tồn có
thể trở thành một thành viên trong nhóm các quốc gia tiên phong thực hiện Chính sách
này. William Logan cịn nhấn mạnh vai trị, tầm quan trọng của cơng tác bồi dưỡng,
nâng cao hiểu biết, nhận thức của giới trẻ, đặc biệt là thiếu nhi và thanh niên, những thế
hệ tiếp theo của nhân loại, về giá trị nổi bật của các DSVHTNTG, DSVH phi vật thể,
qua đó tiếp tục duy trì, đẩy mạnh cơng tác bảo tồn, gìn giữ các di sản này, sau khi thế
hệ trẻ này trở thành những người trưởng thành trong xã hội qua tham luận “UNESCO,
di sản văn hóa, thiếu nhi và thanh niên” [114].
Các tác giả Larsen và Buckley cho rằng vấn đề quyền con người và các q
trình DSTG có sự liên hệ chặt chẽ, đã được các nhà khoa học quan tâm, tìm hiểu từ
lâu. Trên cơ sở tổng hợp một số nghiên cứu trước đây, phân tích tình huống tại một
số kỳ họp Ủy ban DSTG, các tác giả khẳng định, đồng thời kiến nghị các cộng đồng
liên quan đến di sản, có quyền được tham vấn và tham gia trực tiếp vào quá trình bảo
tồn, bảo vệ giá trị của di sản, có quyền được đảm bảo đời sống, sinh kế, phát triển
trong các quá trình liên quan đến di sản, trong đó chú trọng đến các dân tộc thiểu số


18
và dân tộc ít người, trong bài “Tiếp cận về quyền con người tại Ủy ban Di sản Thế
giới: Nắm bắt qua các trao đổi, sự phức tạp và tích cực trong các q trình Di sản
Thế giới” [113].
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trên, cịn có nhiều bài viết tại các hội thảo,

hội nghị, các bài viết trên các tạp chí, báo chí trong và ngồi nước với số lượng rất lớn
mà trong khuôn khổ luận án không thể đưa vào hết được. Những cơng trình này là tài
liệu tham khảo hữu ích cho NCS trong q trình chắt lọc, lựa chọn những vấn đề liên
quan tới đề tài nghiên cứu của mình.
1.1.5. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu
Qua phần tổng thuật và tóm lược nội dung của các tài liệu nghiên cứu trong nước
và quốc tế liên quan đến đề tài luận án, NCS có một số nhận xét như sau:
- Các nghiên cứu của các tổ chức quốc tế: UNESCO, ICOMOS, IUCN,
ICCROM và học giả quốc tế với một số tài liệu nghiên cứu liên quan đã đề cập đến
cách thức quản lý DSTG nhằm cung cấp kiến thức và hỗ trợ chỉ dẫn có trọng tâm về
việc thực hiện Công ước; đề xuất các chính sách về việc lồng ghép quan điểm PTBV
của UNESCO vào các quy trình của Cơng ước Di sản Thế giới; kinh nghiệm về quản lý
du lịch, quản lý rủi ro, thiên tai tại các DSTG.
- Các nghiên cứu về quản lý DSTG ở Việt Nam được công bố ở nhiều cấp độ và
tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau: từ các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, các đề
tài, luận án, bàn về tầm quan trọng của DSVH nói chung, DSTG nói riêng; vấn đề bảo vệ
và PTBV các giá trị DSVH, khai thác hợp lý các giá trị của DSTG; mối quan hệ giữa
quản lý DSVH và DSTG với phát triển du lịch, phát triển du lịch cộng đồng; định hướng
cho việc kiện toàn, nâng cao hiệu quả quản lý, nâng cao vai trò của các BQL DSTG ở
Việt Nam; hoàn thiện khung pháp lý và các công cụ quản lý DSVH, DSTG (Quy chế,
Quy hoạch, Kế hoạch quản lý).
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên còn chưa bao quát được một số vấn đề về thực
trạng quản lý DSTG của Việt Nam theo Công ước, thể hiện ở một số khía cạnh sau:
- Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước và quốc tế chưa có sự so sánh, đối
chiếu giữa quy định của Cơng ước và Hướng dẫn thực hiện Công ước với các quy định
pháp luật về DSVH và pháp luật khác có liên quan của Việt Nam hiện hành để nhận
diện mức độ tác động của Công ước đến hệ thống văn bản của Việt Nam. Các nghiên


19

cứu trên cũng chưa có sự đánh giá việc áp dụng Công ước vào thực tiễn quản lý DSTG
ở Việt Nam nhằm cung cấp một hệ thống nghiên cứu đầy đủ về công tác quản lý DSTG
ở Việt Nam trên cơ sở tiếp cận với quy định của Công ước. Do đó, cần phải có một
cơng trình nghiên cứu chun sâu, đặt Công ước như một đối tượng nghiên cứu chính
để áp dụng vào thực tiễn quản lý DSTG ở Việt Nam.
- Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước chưa xem xét DSTG trong một quy
trình quản lý tổng thể từ việc xây dựng và thực thi Kế hoạch quản lý và giám sát các
hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị DSTG; cịn ít chú ý tới việc nhận diện các nguy cơ
ảnh hưởng đến di sản để từ đó đưa ra cơ chế, chính sách, giải pháp, hành động cụ thể
nhằm bảo vệ các yếu tố gốc tạo nên giá trị nổi bật tồn cầu, tính tồn vẹn, tính xác thực
của DSTG; cịn chưa đưa ra đầy đủ nội dung quản lý DSTG ở Việt Nam theo quan

điểm phát PTBV của UNESCO tại Chính sách về DSTG và PTBV năm 2015.
Có thể nói, những khoảng trống mà các nghiên cứu đi trước còn bỏ ngỏ sẽ là
vấn đề đặt ra cho luận án này và NCS coi đó là nhiệm vụ, là cơ hội để tiếp tục tìm hiểu,
nghiên cứu và bàn luận. Và các cơng trình nghiên cứu đi trước là nguồn tư liệu quan
trọng để NCS tham khảo, kế thừa phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số khái niệm
- Di sản văn hóa
Trong Luật DSVH năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) [61], DSVH
được quy định như sau:
DSVH bao gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể, là sản phẩm tinh thần,
vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này
qua thế hệ khác (Điều 1).
DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật
thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức khác (Khoản 1, Điều 4).



20
DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hố, khoa học, bao
gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia (Khoản 2, Điều 4).
- Di sản Thế giới
Điều 1 của Công ước Di sản Thế giới [126] định nghĩa những đối tượng sau đây
được coi là DSVH:
Các di tích: Các cơng trình kiến trúc, các cơng trình điêu khắc và hội họa,
các yếu tố hoặc các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, các dấu khắc, các nơi
cư trú hang động và tổ hợp các đặc điểm, có giá trị nổi bật tồn cầu xét theo
quan điểm lịch sử, nghệ thuật hay khoa học.
Các nhóm cơng trình xây dựng: Các nhóm cơng trình riêng lẻ hoặc liên hồn
mà do kiến trúc, tính đồng nhất hoặc vị trí của chúng trong cảnh quan có giá
trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hay khoa học.
Các di chỉ: Các công trình của con người hoặc cơng trình kết hợp giữa con
người và thiên nhiên, và các khu vực gồm có các di chỉ khảo cổ có giá trị
nổi bật tồn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hay nhân
học.
Tại Điều 2 của Công ước Di sản Thế giới [126] định nghĩa những đối tượng sau
đây được coi là di sản thiên nhiên:
Các đặc điểm thiên nhiên bao gồm các kiến tạo vật lý hoặc sinh học hay các
nhóm kiến tạo như thế có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm thẩm
mỹ hoặc khoa học.
Các kiến tạo địa chất và địa lý thiên nhiên và các khu vực được phân định
rạch ròi là mơi trường sống của các lồi động vật và thực vật bị đe dọa có
giá trị nổi bật tồn cầu xét theo quan điểm khoa học, bảo tồn.
Các di chỉ thiên nhiên hoặc các khu vực thiên nhiên được phân định rạch rịi
có giá trị nổi bật tồn cầu xét theo quan điểm khoa học, bảo tồn hay vẻ đẹp

thiên nhiên.


21
Các di sản được xem là “DSVH và thiên nhiên hỗn hợp” nếu chúng đáp ứng
một phần hay toàn bộ các định nghĩa của DSVH và thiên nhiên được đưa ra trong các
Điều 1 và 2 của Công ước.
Trong Nghị định số 109/2017/NĐ-CP (Nghị định quy định về bảo vệ và quản lý
Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam có hiệu lực từ ngày 10 tháng 11 năm
2017) [12] cũng quy định một số khái niệm về: DSVHTNTG; DSVHTG; DSTNTG;
DSVHTNTG hỗn hợp. Cụ thể là:
DSVHTNTG là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt
Nam có giá trị nổi bật tồn cầu về văn hóa và thiên nhiên, được UNESCO ghi vào
Danh mục DSTG (Khoản 1, Điều 3).
DSVHTG là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt
Nam có giá trị nổi bật tồn cầu về văn hóa được UNESCO ghi vào Danh mục DSTG
(Khoản 2, Điều 3).
DSTNTG là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu của Việt
Nam có giá trị nổi bật tồn cầu về thiên nhiên được UNESCO ghi vào Danh mục
DSTG (Khoản 3, Điều 3).
DSVHTNTG hỗn hợp là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh tiêu biểu
của Việt Nam đáp ứng được tiêu chí của cả DSVHTG và DSTNTG, được UNESCO
ghi vào Danh mục DSTG (Khoản 4, Điều 3).
- Giá trị nổi bật tồn cầu
Theo Hướng dẫn thực hiện Cơng ước Di sản Thế giới [130], giá trị nổi bật tồn
cầu được hiểu là ý nghĩa văn hóa và/hoặc thiên nhiên đặc biệt đến mức vượt qua các
biên giới quốc gia và có thể có tầm quan trọng chung cho các thế hệ hiện tại và tương
lai của toàn nhân loại (Điều 49).
Theo Nghị định số 109/2017/NĐ-CP [12], giá trị nổi bật toàn cầu là sự biểu hiện
những ý nghĩa văn hóa và thiên nhiên đặc biệt của DSVHTNTG, có tầm quan trọng

quốc gia và quốc tế đối với các thế hệ hiện tại và tương lai (Khoản 5, Điều 3).
- Tính tồn vẹn
Theo Hướng dẫn thực hiện Cơng ước Di sản Thế giới [130], tính tồn vẹn được
hiểu là:


22
Một thước đo của sự toàn thể và sự nguyên vẹn của DSVH và/hoặc thiên
nhiên và các đặc tính của nó. Việc đánh giá các điều kiện về tính tồn vẹn
do đó địi hỏi việc xem xét mức độ mà di sản: a) bao gồm tất cả các yếu tố
cần thiết để biểu đạt giá trị nổi bật toàn cầu của nó; b) có qui mơ phù hợp để
bảo đảm rằng các đặc điểm và các quá trình truyền tải ý nghĩa của di sản
được đại diện một cách đầy đủ; c) chịu những tác động tiêu cực của sự phát
triển và/hoặc thiếu quan tâm (Điều 88).
Theo Nghị định số 109/2017/NĐ-CP [12], tính tồn vẹn được hiểu là “sự biểu
hiện một cách đầy đủ các yếu tố gốc cấu thành giá trị nổi bật toàn cầu của DSTG”
(Khoản 7, Điều 3).
- Tính xác thực
Theo Hướng dẫn thực hiện Cơng ước Di sản Thế giới [130], tính xác thực được
hiểu là:
Khả năng hiểu biết về giá trị gắn với di sản phụ thuộc vào mức độ tin cậy và
trung thực của các nguồn thông tin về giá trị này. Kiến thức và sự hiểu biết về
các nguồn thông tin này trong mối liên hệ với các đặc điểm gốc hay hệ quả của
DSVH và ý nghĩa của chúng là cơ sở khơng thể thiếu để đánh giá tất cả các
khía cạnh của tính xác thực (Điều 80).
Trong Nghị định số 109/2017/NĐ-CP [12] nêu rõ tính xác thực là “sự biểu hiện
một cách trung thực và đáng tin cậy của yếu tố gốc tạo nên giá trị nổi bật toàn cầu về
văn hóa của DSTG, giúp nhận biết được bản chất, đặc tính, ý nghĩa và lịch sử của DSTG
đó” (Khoản 8, Điều 3).
- Kế hoạch quản lý DSTG: Theo Nghị định số 109/2017/NĐ-CP [12], Kế hoạch

quản lý DSTG là “văn bản tổng hợp các biện pháp bảo tồn giá trị nổi bật tồn cầu của
DSTG, bao gồm cả việc phân cơng trách nhiệm cụ thể đến mọi đối tượng liên quan tới
việc thực hiện các biện pháp bảo tồn đó” (Khoản 12, Điều 3).
- Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích: Theo Nghị định số
166/2018/NĐ-CP [13], Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích là “việc xác định
nội dung và biện pháp bảo quản, tu bổ, phục hồi các yếu tố gốc của di tích, định hướng


×