LUẬN VĂN:
Phương hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về phiên
tòa sơ thẩm
mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hồn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là một nhu cầu khách quan
nhằm đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự đang ngày càng gia
tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Quá trình xây
dựng và hồn thiện pháp luật TTDS nhằm nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, đảm
bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, cơng minh và
đúng pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 ra đời thay thế các Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động (PLTTGQCTCLĐ) 1996 là bước phát triển có tính bước ngoặt đối với ngành luật
TTDS Việt Nam. Bộ luật này quy định khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản
trong TTDS; trình tự thủ tục khởi kiện các vụ án dân sự; trình tự thủ tục giải quyết các
vụ việc dân sự tại Tòa án, thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
các cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia tố tụng. Chương XIV BLTTDS quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ án
dân sự tại phiên tịa sơ thẩm. Đây là chế định có vai trị, vị trí rất quan trọng, quy định
khá cụ thể và toàn diện các vấn đề như: Các quy định chung tại phiên tòa, thủ tục bắt
đầu phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Mặc dù là Bộ luật mới ra đời, có sự kế thừa các quy định trước đó và được
Quốc hội dày công soạn thảo, song một số quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự trong
thực tiễn áp dụng còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập và chưa hợp lý, làm cho q trình
xét xử sơ thẩm gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án cũng
như kéo dài thời gian giải quyết, chưa đáp ứng được tiến trình cải cách tư pháp theo tinh
thần Nghị quyết 08-NQ/TƯ ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08) và Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là
Nghị quyết 49).
Chính vì vậy, chúng tôi thấy việc đi sâu nghiên cứu các quy định này này nhằm
phân tích, đánh giá đúng các điều luật, tạo điều kiện cho việc nhận thức và áp dụng trên
thực tế một cách thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Đồng thời, tìm ra những tồn
tại, bất cập của các quy định trên, đưa ra những giải pháp hữu hiệu đóng góp vào q
trình xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, chưa có một cơng trình khoa học pháp lý nào nghiên cứu một
cách đầy đủ các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự. Hơn nữa BLTTDS 2004 bắt đầu
có hiệu lực kể từ 1/1/2005, nên chưa có một hội nghị tổng kết hay hội thảo khoa học
nhằm nêu ra những tồn tại, vướng mắc trong quá trình áp dụng. Một số cơng trình
nghiên cứu của một số tác giả nhưng đề cập đến các vấn đề khác như: Luận văn thạc sĩ
"Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Hoài Nam;
Luận văn thạc sĩ "Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Lê Thị Hà; Luận
văn thạc sĩ "Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Cơ sở lý luận và thực
tiễn" của Nguyễn Thị Thu Hà...
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu các quy
định về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo quy định của BLTTDS mà không nghiên cứu vấn
đề này đối với việc dân sự. Ngồi ra, đề tài cịn nghiên cứu một số quan điểm trong các
Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp với mục đích làm sáng tỏ trọng tâm
nghiên cứu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân sự theo tinh thần
cải cách tư pháp. Từ đó nhiệm vụ của đề tài là giải quyết về mặt lý luận các khái niệm
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như các vấn đề có liên quan. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, nêu lên thực trạng của việc áp dụng
luật trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự tại phiên tòa sơ thẩm. Trên cơ sở
đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hồn thiện hơn nữa các quy định của pháp
luật TTDS về phiên tịa sơ thẩm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Chương 2: các quy định về phiên tòa sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về phiên tòa sơ thẩm.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận
về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
1.1. Khái niệm phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng dân sự
1.1.1. Vụ án dân sự - cơ sở làm phát sinh phiên tòa sơ thẩm dân sự
Quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) bao gồm các quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Các quan hệ này hết sức đa dạng
và phong phú, diễn ra hàng ngày trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gắn liền với
bất cứ chủ thể nào. Các chủ thể tham gia quan hệ dân sự bao giờ cũng hướng tới những
mục tiêu, lợi ích nhất định. Sự đan xen về mặt lợi ích cũng như tính mn màu muôn vẻ
của các quan hệ dân sự làm phát sinh các tranh chấp dân sự là điều không thể tránh
khỏi. Khi xảy ra tranh chấp dân sự, các chủ thể có quyền u cầu Tịa án - cơ quan xét
xử của Nhà nước giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Trong q trình xảy ra tranh chấp dân sự, các chủ thể có thể thỏa thuận với
nhau để giải quyết tranh chấp. Đó là q trình tự điều chỉnh thơng qua phương pháp
thỏa thuận trong quan hệ pháp luật dân sự mà chưa cần sự can thiệp của một chủ thể thứ
ba. Khi các chủ thể không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và
yêu cầu tòa án giải quyết thì tranh chấp đó được giải quyết thơng qua con đường tịa án
và tranh chấp đó được gọi là vụ án dân sự.
Vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà các chủ thể không tự thỏa
thuận được buộc phải khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết. Việc đương sự khởi kiện yêu
cầu tòa án giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự là sự kiện làm phát sinh tố
tụng phiên tịa. Hay nói cách khác, "tranh chấp dân sự" kết hợp với yếu tố "kiện" của
đương sự là tiền đề để tòa án mở phiên tịa xét xử. Ngồi yếu tố "kiện" là bản chất của
vụ án dân sự, yếu tố chủ thể là nguyên đơn, bị đơn cũng là đặc trưng của loại tố tụng xét
xử sơ thẩm dân sự. Vụ án dân sự được BLTTDS quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 ở
trong các lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
bao gồm:
* Những tranh chấp dân sự truyền thống:
- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ, trừ trường hợp
các bên tranh chấp đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của
pháp luật về đất đai.
- Tranh chấp liên quan đến nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.
- Các tranh chấp về dân sự mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về hơn nhân và gia đình:
- Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
- Các tranh chấp khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhận bao gồm: Mua bán hàng
hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây
dựng; tư vấn kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng khơng, đường
biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá trị khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng;
bảo hiểm; thăm dị, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty.
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Những tranh chấp về lao động:
- Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động
mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà
nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hòa giải không thành hoặc
không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không
nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở:
+ Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về
trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động.
+ Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật lao động.
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao
động.
- Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động
đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết
mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội
đồng trọng tài lao động, bao gồm:
+ Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều
kiện khác.
+ Về thực hiện thỏa ước lao động tập thể.
+ Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động cơng đồn.
- Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Ngồi khái niệm vụ án dân sự, BLTTDS còn phân biệt một loại việc cũng thuộc
thẩm quyền giải quyết của tịa án đó là việc dân sự.
Việc dân sự là các loại việc trong đó các chủ thể khơng có tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ dân sự (theo nghĩa rộng) mà chỉ u cầu tịa án cơng nhận một sự kiện
pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự hay u cầu tịa án cơng nhận cho
mình quyền về dân sự. Do đó, việc dân sự được giải quyết theo một thủ tục tố tụng khác
độc lập mà không làm căn cứ phát sinh hoạt động tố tụng xét xử của tòa án.
Việc dân sự được quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS như sau:
* Những yêu cầu về dân sự:
- Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vị dân sự.
- u cầu thơng báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản
của người đó.
- Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người
mất tích.
- Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của tịa án nước ngồi
hoặc khơng cơng nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định hình sự, hành chính của tịa án nước ngồi mà khơng có u cầu thi hành tại
Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về hơn nhân và gia đình:
- u cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Yêu cầu công nhận thuận tình ly hơn, ni con, chia tài sản khi ly hôn.
- Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi
ly hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về hơn
nhân và gia đình của tịa án nước ngồi hoặc khơng cơng nhận bản án, quyết định về
hơn nhân và gia đình của tịa án nước ngồi mà khơng có u cầu thi hành tại Việt Nam.
- Các u cầu khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại:
- Yêu cầu liên quan đến Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh
chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của tịa án nước ngồi hoặc khơng cơng nhận bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại của tịa án nước ngồi mà khơng có u cầu thi hành tại Việt
Nam.
- u cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài
- Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
* Những yêu cầu về lao động:
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định lao động
của tịa án nước ngồi mà khơng có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động của tịa
án nước ngồi.
- Các u cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định.
Như vậy, vụ án dân sự mới là sự kiện làm phát sinh tố tụng phiên tòa xét xử, do
đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự.
1.1.2. Cơ chế giải quyết vụ án dân sự theo trình tự tố tụng sơ thẩm
Sau khi tịa án thụ lý đơn khởi kiện, có hai cơ chế tố tụng giải quyết vụ án dân
sự có thể thực hiện là: Có thể thơng qua hoạt động hịa giải hoặc phải mở phiên tòa xét
xử.
Hòa giải là một chế định mang tính đặc thù trong TTDS. Xuất phát từ quyền
quyết định và tự định đoạt cũng như yếu tố thỏa thuận trong quan hệ dân sự, các chủ thể
có thể thỏa thuận vào bất cứ thời điểm nào để tự bản thân họ giải quyết tranh chấp. Hòa
giải trong TTDS có nhiều ưu điểm vượt trội, vừa thể hiện tính nhân văn trong hoạt động
tư pháp đồng thời phát huy được các giá trị truyền thống, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ
trong nhân dân. Sau khi thụ lý đơn khởi kiện, tịa án có trách nhiệm tổ chức các phiên
hịa giải để đương sự có điều kiện thỏa thuận với nhau. Khi tiến hành hòa giải, chỉ các
đương sự có quyền quyết định nội dung giải quyết tranh chấp, tòa án chỉ là người hướng
dẫn về mặt pháp luật, khuyến khích các bên thương lượng, đàm phán đồng thời đảm bảo
việc hịa giải khơng bị ép buộc và phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu đương sự
thỏa thuận được với nhau để giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động hòa giải, việc
giải quyết vụ án coi như kết thúc mà khơng cần tịa án tiến hành xét xử. Hịa giải thành
một vụ án dân sự khơng chỉ giải quyết dứt điểm mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn
giảm bớt các thủ tục tốn kém thời gian, công sức của đương sự và cơ quan xét xử.
Tuy nhiên, không phải tranh chấp dân sự nào cũng giải quyết được bằng con
đường hòa giải. Nhiều tranh chấp chỉ được giải quyết thông qua hoạt động xét xử của
tòa án. Đối với những tranh chấp dân sự khởi kiện ra tịa án, sau khi hịa giải khơng
thành, hoặc khơng tiến hành hịa giải được (một số trường hợp pháp luật quy định
khơng được hịa giải) thì tranh chấp đó chỉ có thể giải quyết thơng qua hoạt động xét xử
của tòa án tại phiên tòa sơ thẩm.Việc một vụ án dân sự không thể giải quyết được bằng
con đường hòa giải đồng nghĩa với việc các đương sự không thể tự giải quyết được
tranh chấp của họ, khi đó vai trị giải quyết nội dung tranh chấp thuộc về tịa án thơng
qua việc xét xử. Tại phiên tịa sơ thẩm dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
phụ thuộc vào phán quyết của tòa án dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ, kết quả
của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa cũng như hoạt động áp dụng pháp luật của Hội
đồng xét xử. Nếu trong q trình hịa giải, tịa án chỉ giải quyết những vấn đề thuộc
phạm vi tranh chấp giữa các đương sự thì việc xét xử tại phiên tịa phải xem xét tồn bộ
các vấn đề của vụ án. Ngoài việc xác định nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các
bên đương sự, tòa án còn giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ án.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Theo quyển sổ tay pháp lý thông dụng, thuật ngữ "phiên tịa" có nghĩa là "nơi
diễn ra hoạt động xét xử của tòa án nhân dân" [14, tr. 270]. Theo Từ điển Tiếng Việt
thì "sơ thẩm" có nghĩa là việc "xét xử một vụ án với tư cách là tòa án ở cấp xét xử thấp
nhất" [38, tr. 869], cịn Từ điển Luật học thì định nghĩa "sơ thẩm" là "lần đầu tiên đưa
ra xét xử vụ án tại một tịa án có thẩm quyền" [37, tr. 434]. Các khái niệm trên đã xác
định được một vài đặc trưng của phiên tịa sơ thẩm nói chung cũng như phiên tịa sơ
thẩm dân sự nói riêng, tuy nhiên cịn phiến diện và chưa phản ánh được đầy đủ bản chất
của phiên tòa sơ thẩm dân sự.
Chế định phiên tòa sơ thẩm dân sự bao gồm các quy định về trình tự, thủ tục tại
phiên tịa sơ thẩm. Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết yêu cầu của đương
sự, nếu vụ án buộc phải đưa ra xét xử thì tịa án mở phiên tịa sơ thẩm để giải quyết
tranh chấp giữa các bên. Tại phiên tịa sơ thẩm dân sự có mặt đầy đủ những người tiến
hành tố tụng, các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Mọi hoạt động
tại phiên tòa được tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định. Các chủ thể tham gia phiên
tịa có tư cách tố tụng khác nhau và có các quyền và nghĩa vụ tố tụng độc lập. Hội đồng
xét xử đảm bảo cho việc xét xử diễn ra theo đúng tố tụng đồng thời tiến hành hoạt động
áp dụng pháp luật xác định nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đương sự
cũng như giải quyết triệt để các vấn đề khác của vụ án. Các đương sự thực hiện hoạt
động chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình, thuyết phục Hội đồng xét xử đưa ra
phán quyết có lợi cho họ. Những người tham gia tố tụng khác có trách nhiệm giúp cho
Hội đồng xét xử tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Để có một phán quyết cuối cùng
công bằng và thuyết phục, mọi diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm dân sự phải tuân theo
một trình tự, thủ tục chặt chẽ được quy định trong pháp luật TTDS.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành vào thời gian và tại địa điểm được ghi
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu khơng có căn cứ hỗn phiên tịa hoặc khơng
phải trong trường hợp pháp luật quy định xét xử vắng mặt thì những người tiến hành tố
tụng, đương sự và những người tham gia tố tụng khác (trong trường hợp cần thiết) phải
có mặt đầy đủ tại phiên tịa. Ngồi một số trường hợp tịa án phải xét xử kín, phiên tịa
sơ thẩm dân sự được xét xử cơng khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tịa.
Từ những phân tích trên đây, có khái niệm phiên tịa sơ thẩm dân sự như sau:
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là hình thức tổ chức hoạt động xét xử của tịa án, trong đó vụ
án dân sự được đưa ra xét xử lần đầu, do một tòa án cấp huyện hoặc một tòa án cấp
tỉnh thực hiện theo thẩm quyền trên cơ sở một trình tự, thủ tục nhất định.
Phiên tịa sơ thẩm dân sự là hoạt động của cơ quan xét xử được điều chỉnh bởi
Luật tổ chức tòa án nhân dân (TAND) và pháp luật TTDS. Chính vì vậy, nó cũng có
những đặc điểm của phiên tịa sơ thẩm nói chung như: Thành phần Hội đồng xét xử có
sự tham gia của Hội thẩm nhân dân; trình tự, thủ tục xét xử tuân theo trình tự xét xử sơ
thẩm; đối tượng xét xử thuộc thẩm quyền xem xét lần đầu tiên của tịa án cấp sơ thẩm;
sự có mặt đầy đủ của các bên đương sự và những người có liên quan đến việc giải quyết
vụ án (phiên tịa phúc thẩm chỉ có mặt những người có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị); bản án, quyết định tại phiên tịa sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị…
Ngồi ra, phiên tịa sơ thẩm dân sự có đặc điểm sau:
Phiên tịa sơ thẩm dân sự là nơi diễn ra các hoạt động tố tụng của riêng cơ quan
xét xử trên cơ sở đơn khởi kiện của đương sự yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp dân sự.
Nếu như việc mở phiên tòa sơ thẩm hình sự là kết quả của quá trình điều tra, truy tố thì
việc mở phiên tịa sơ dân sự lại xuất phát từ ý chí của các bên đương sự sau khi vụ án
không giải quyết được thông qua việc hòa giải.
Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, thứ tự hỏi và trình tự phát biểu khi tranh luận đề
cao vai trị, vị trí của các bên đương sự. Kiểm sát viên tham gia phiên tịa dân sự (nếu
có) khơng có vai trị như trong phiên tịa hình sự, họ chỉ tham gia với tư cách là người
giám sát hoạt động xét xử của tịa án mà khơng can thiệp vào nội dung tranh chấp của
các đương sự. Vị trí, vai trò của các đương sự tại phiên tòa thể hiện xu hướng dân chủ
trong hoạt động tư pháp, tôn trọng quyền yêu cầu và tự định đoạt của họ trong q trình
xét xử. ý chí và sự tự nguyện của các đương sự luôn được tôn trọng và xem xét trước
tiên. Quyết định tại phiên tòa là sự phán xét của tịa án nhưng có thể đơn giản là ghi
nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Kết quả của phiên tịa sơ thẩm dân sự khơng nhất thiết phải bằng một bản án
được tuyên tại phiên tòa. Nếu như phiên tịa xét xử vụ án hình sự ln kết thúc bằng bản
án của tòa án kết án một người phạm một tội cụ thể và hình phạt kèm theo (trừ trường
hợp được miễn hình phạt) hoặc tuyên bố người đó vơ tội thì diễn biến và kết quả của
phiên tòa sơ thẩm dân sự còn tùy thuộc vào quyền quyết định và tự định đoạt của đương
sự trong quá trình diễn ra phiên tịa. Phiên tịa sơ thẩm có thể kết thúc bằng một bản án
hoặc cũng có thể kết thúc bằng một quyết định ngay sau khi đương sự rút yêu cầu hoặc
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
1.1.4. Vị trí và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Trong các giai đoạn của TTDS thì xét xử tại phiên tòa sơ thẩm là giai đoạn quan
trọng nhất. Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn kết thúc quá trình giải quyết
vụ án dân sự của một cấp tịa án đó là tịa án cấp sơ thẩm.
Phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi tập trung kết quả các hoạt động của các giai
đoạn tố tụng trước đó. Mọi hoạt động của các giai đoạn thụ lý, hòa giải và chuẩn bị xét
xử nhằm thực hiện các thủ tục cần thiết hoặc chỉ tập trung giải quyết một số vấn đề cơ
bản, làm cơ sở để giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án được tiến hành tại phiên tịa sơ
thẩm. Vị trí của phiên tịa sơ thẩm được thể hiện rõ thơng qua thành phần tham dự phiên
tịa, nội dung cơng việc giải quyết tại phiên tòa cũng như kết quả giải quyết các cơng
việc đó. Tại phiên tịa sơ thẩm dân sự có mặt đầy đủ những người tiến hành tố tụng, các
bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Các chủ thể này "cùng nhau tạo lập
bức tranh toàn cảnh về quan hệ pháp luật dân sự một cách trung thực, khách quan, toàn
diện" [10, tr. 12]. Các tài liệu, chứng cứ được đưa ra xem xét, đánh giá thơng qua phần trình
bày và tranh luận giữa các bên. Thơng qua các hoạt động này tịa án sẽ ra các phán quyết
nhằm giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án, từ việc chấp nhận hay không chấp nhận
yêu cầu của đương sự cho đến vấn đề án phí, các quyết định phải thi hành ngay (nếu có)
và quyền kháng cáo đối với bản án.
Trong mối quan hệ với tồn bộ q trình TTDS, phiên tịa sơ thẩm dân sự được
coi là thời điểm chấm dứt việc giải quyết một vụ án dân sự nếu như các chủ thể không
thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Tại phiên tòa sơ thẩm, nếu các thủ tục tố tụng
được thực hiện đầy đủ, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập đầy đủ và được xem xét, đánh
giá một cách khách quan, phán quyết của tịa án là có căn cứ, cơng bằng và thấu tình đạt
lý, làm cho các bên đương sự "tâm phục khẩu phục" thì vụ án dân sự sẽ khép lại sau khi
kết thúc phiên tịa.
Trong giai đoạn hiện nay, theo tiến trình cải cách tư pháp được đề ra theo tinh
thần Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49, phiên tòa sơ thẩm dân sự đang ngày càng khẳng
định được vai trị của nó trong việc nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Các phán
quyết của tòa án phụ thuộc vào diễn biến tại phiên tịa sơ thẩm, nhất là phần trình bày,
tranh luận, xem xét, đánh giá chứng cứ và quan điểm của các bên đương sự. Dần dần
xóa bỏ tình trạng "án bỏ túi", án được duyệt sẵn, việc phán xét ở phiên tịa bị áp đặt,
khơng khách quan và thiếu sức thuyết phục, làm cho hoạt động xét xử tại phiên tịa sơ
thẩm mất đi vai trị đích thực của nó. Phiên tịa sơ thẩm dân sự phải là "nơi nói lên tiếng
nói của cơng lý, nói lên sự xác nhận của luật pháp đối với vụ án đã xảy ra và thái độ
của luật pháp với việc đã xảy ra như thế nào. Tịa án nói lên những nhận định và quyết
định của mình là nhân danh Nhà nước như chúng ta thường ghi trong bản án" [24]
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân. Nhiệm vụ đó được thực hiện thơng qua hoạt động xét xử
của tịa án, để thực hiện được nhiệm vụ đó "trong cơng tác xử án phải công bằng, liêm
khiết, trong sạch [12, tr. 188]. Phiên tòa sơ thẩm dân sự là "nơi phản ảnh đầy đủ và sâu
sắc nhất bản chất của một nền công lý, biểu hiện tập trung của quyền tư pháp" [20, tr.
3], nó có ý nghĩa cả về mặt pháp luật cũng như về mặt chính trị - xã hội.
Phiên tịa sơ thẩm dân sự trước hết phản ánh rõ chức năng xét xử của tòa án.
Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự là sự thể hiện cụ thể vai trị, nhiệm vụ của tịa án
trong việc duy trì trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giúp cho các quan
hệ dân sự phát triển ổn định và lành mạnh, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân, tổ chức.
Bản án, quyết định tại phiên tịa sơ thẩm khi có hiệu lực pháp luật phải được
mọi chủ thể trong xã hội tơn trọng, các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành phải
nghiêm chỉnh chấp hành. Nội dung bản án, quyết định xác định quyền và nghĩa vụ cho
các bên đương sự và có giá trị pháp lý làm cơ sở cho việc thi hành án, từ đó khơi phục
lại các quyền và lợi ích của các đương sự.
Thơng qua hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, những người tham gia
phiên tịa nói riêng và quần chúng nhân dân nói chung có điều kiện nắm bắt những kiến
thức pháp luật, nhận thức được vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ
dân sự, qua đó giúp cho họ khi tham gia các quan hệ pháp luật có những xử sự phù hợp
với các quy định của pháp luật. Đồng thời, tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, tòa án là người
thực hiện, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là môi trường để
nhân dân thực hành quyền giám sát của mình đối với hoạt động xét xử của tòa án.
Nếu việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm được tiến hành tốt sẽ làm tăng
thêm tác dụng của cơng tác giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật. Ngược lại,
nếu
phiên
tịa
sơ
thẩm
tiến
hành
khơng
tốt
thì kết quả của cơng tác giáo dục sẽ bị hạn chế, gây ảnh hưởng
xấu, làm cho mọi người thiếu tin tưởng vào hoạt động xét xử của tịa án [34,
tr. 266-267].
Ngồi ra, phiên tịa sơ thẩm dân sự là nơi công dân thực hiện quyền tự do dân
chủ nói chung cũng như các quyền và nghĩa vụ trong pháp luật tố tụng nói riêng, thể
hiện sự bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật, quyền được bào chữa, biện hộ,
quyền được dùng chữ viết tiếng nói của dân tộc mình… khẳng định quyền dân chủ của
công dân trong lĩnh vực tư pháp, khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
1.2. Những nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Khi Tòa án mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, mọi vấn đề của vụ án
đều được đưa ra xem xét, đánh giá để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương
sự. Vì vậy, hoạt động tố tụng tại phiên tòa phải đáp ứng các nguyên tắc của pháp luật tố
tụng nói chung cũng như các nguyên tắc của pháp luật TTDS nói riêng.
1.2.1. Những nguyên tắc chung
Nguyên tắc chung là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo có giá trị cho cả phiên tịa
sơ thẩm hình sự và phi hình sự. Việc mở phiên tòa sơ thẩm dân sự trước hết phải đảm
bảo yêu cầu của các nguyên tắc chung sau đây:
1. Nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 129 Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung
năm 2001), Điều 4 Luật tổ chức TAND 2002 và tiếp tục được khẳng định tại Điều 11
BLTTDS 2004. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử
nhằm tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tư pháp, đảm bảo tính khách quan, chính
xác trong hoạt động xét xử của toà án, đồng thời là hình thức nhân dân thực hiện quyền
giám sát của mình đối với hoạt động của cơ quan nhà nước. Khi xét xử, hội thẩm ngang
quyền với thẩm phán quyết định mọi vấn đề thuộc nội dung vụ án, cả về áp dụng luật nội
dung cũng như luật tố tụng.
2. Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
Theo nguyên tắc này, khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập với
các chủ thể khác bên ngoài Hội đồng xét xử cũng như độc lập giữa các thành viên trong
Hội đồng xét xử với nhau. Quá trình kiểm tra, xem xét, đánh giá chứng cứ dựa trên cơ
sở nhận thức của mỗi thành viên Hội đồng xét xử mà khơng bị chi phối bởi yếu tố bên
ngồi. Khi nghị án, hội thẩm biểu quyết trước, thẩm phán là người biểu quyết sau cùng.
3. Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể.
Việc xét xử của tòa án được thực hiện bởi một tập thể bao gồm các thành viên
trong Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử của phiên tòa sơ thẩm bao gồm các thẩm phán
và hội thẩm nhân dân. Việc xét xử tập thể sẽ tập trung trí tuệ của các thành viên Hội
đồng xét xử giúp cho việc nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Các thành viên Hội
đồng xét xử giải quyết từng vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số. Người có
ý kiến thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến của mình trong hồ sơ vụ án.
4. Nguyên tắc xét xử công khai.
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện như sau: Việc xét xử của tịa án
được tiến hành một cách cơng khai. Mọi người đều có quyền tham dự phiên tịa (trừ
trường hợp luật định). Xét xử công khai tạo điều kiện để người dân nâng cao kiến thức
hiểu biết và ý thức pháp luật, phát huy tính dân chủ trong hoạt động tư pháp, đồng thời
nâng cao ý thức, trách nhiệm của cơ quan xét xử trước nhân dân. Trong một số trường
hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, hay cần giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc
hoặc theo u cầu chính đáng của đương sự thì tịa án có thể xử kín nhưng việc tun án
phải tiến hành công khai.
5. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.
Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 52
Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001), Điều 8 Luật tổ chức TAND 2002.
BLTTDS 2004 tiếp tục khẳng định nguyên tắc này tại Điều 8: Bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ trong TTDS. Theo nguyên tắc này, các đương sự khi tham gia tố tụng bình
đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS. Tịa án có trách nhiệm
đảm bảo cho các đương sự thực sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tố tụng đó. Nguyên tắc này là cơ sở để đương sự tiến hành hoạt động chứng
minh cũng như tranh tụng tại phiên tòa.
6. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đây là nguyên tắc có tính chất bao trùm, thể hiện tư tưởng chỉ đạo và có ý nghĩa
đối với mọi quan hệ pháp luật nói chung cũng như quan hệ pháp luật TTDS nói riêng.
Tại phiên tịa sơ thẩm dân sự, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia
tố tụng phải tuân thủ những trình tự, thủ tục và thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng
theo đúng quy định của BLTTDS. Việc vi phạm tố tụng tại phiên tòa ảnh hưởng đến
chất lượng giải quyết vụ án, thậm chí bản án, quyết định tại phiên tịa có thể bị hủy để
xét xử lại từ đầu.
1.2.2. Một số nguyên tắc đặc trưng điều chỉnh riêng biệt hoạt động tố tụng
tại phiên tòa sơ thẩm dân sự
Các nguyên tắc đặc trưng điều chỉnh riêng biệt hoạt động tố tụng tại phiên tòa
dân sự là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, chi phối trực tiếp mọi hoạt động xét xử của
tịa án tại phiên tịa. Ngồi việc đảm bảo các nguyên tắc chung, phiên tòa sơ thẩm dân
sự còn phải tuân thủ các nguyên tắc như sau:
1. Nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: (Điều 4
BLTTDS)
Nguyên tắc này được thể hiện như sau:
Khi đương sự có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và yêu cầu tòa án
giải quyết, tòa án có trách nhiệm xem xét và hướng dẫn họ thực hiện các thủ tục cần
thiết để tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Sau khi tòa án tiến hành hịa giải khơng thành, hay
khơng thể tiến hành hịa giải được hoặc trong một số trường hợp pháp luật không cho
phép hịa giải. Nếu có đương sự tiếp tục u cầu thì tịa án phải mở phiên tịa để xét xử
theo yêu cầu của họ.
Trong quá trình giải quyết vụ án nói chung cũng như tại phiên tịa sơ thẩm nói
riêng, tịa án phải tơn trọng việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu của
đương sự. Tòa án chỉ giải quyết vụ án trong phạm yêu cầu của đương sự. Tại phiên tòa
xét xử, nếu đương sự rút đơn khởi kiện thì tịa án phải đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Ngồi ra, theo ngun tắc này, các đương sự có quyền thuê, nhờ, ủy quyền cho
luật sư hay người khác làm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình trong q
trình giải quyết vụ án.
2. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5
BLTTDS).
Đây là một trong những nguyên tắc đặc trưng của pháp luật TTDS. Đương sự
có quyền quyết định và tự định đoạt đối với yêu cầu của họ trong suốt quá trình giải
quyết vụ án. Bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại có quyền u cầu hoặc khơng
u cầu tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ngay cả sau khi đơn khởi
kiện đã được tịa án thụ lý.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần
hay tồn bộ yêu cầu, Hội đồng xét xử chỉ xét xử trong phạm vi u cầu đó. Nếu tại
phiên tịa các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và sự thỏa
thuận đó là tự nguyện, khơng trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử tôn
trọng sự thỏa thuận của họ và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
3. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự (Điều 10 BLTTDS).
Hòa giải trong TTDS cũng là một trong những nguyên tắc đặc trưng của TTDS.
Theo nguyên tắc này, tại phiên tịa sơ thẩm dân sự, Hội đồng xét xử có phải hỏi các
đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không, Hội đồng xét xử
có trách nhiệm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các đương sự trong q trình hịa giải,
đồng thời đảm bảo cho việc hòa giải dựa trên cơ sở tự nguyện và đúng pháp luật.
4. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS.
Khi đương sự đưa ra yêu cầu, đề nghị để tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình thì đồng thời có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu,
đề nghị của mình là có căn cứ. Bởi vì, việc xảy ra tranh chấp là việc của bản thân các
bên đương sự, mặt khác chỉ các đương sự mới nắm được bản chất của nội dung tranh
chấp. Chính vì vậy, khơng ai ngồi các đương sự thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc phản bác u cầu của phía bên kia. Trường
hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức đưa ra yêu cầu tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác thì họ cũng có trách nhiệm chứng minh cho đương sự. Việc bổ sung
chứng cứ tại phiên tòa tạo điều kiện tối đa để các đương sự chứng minh cho yêu cầu, đề
nghị của mình, đồng thời giúp cho tịa án có cơ sở để xác định chính xác quyền và nghĩa
vụ dân sự cho các bên đương sự.
Nguyên tắc này còn đòi hỏi tòa án phải tôn trọng các tài liệu, chứng cứ do
đương sự cung cấp. Tịa án khơng được tự ý đi thu thập chứng cứ khi đương sự không
yêu cầu. Đương sự cung cấp chứng cứ đến đâu, tòa án xem xét đến đó. Tịa án phải có
trách nhiệm thơng báo và tạo điều kiện cho các đương sự biết và sao chép tài liệu,
chứng cứ của phía bên kia. Các đương sự phải chịu hậu quả của việc không giao nộp
hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ.
1.3. một số nét khái quát về phiên tòa sơ thẩm dân sự trong lịch sử phát triển
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
Cách mạng Tháng tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ngày 2/9/1945 đã mở ra trang sử mới cho lịch sử dân tộc ta. Quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam gắn liền với những biến cố lịch sử
của dân tộc cũng như các giai đoạn phát triển, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.
1.3.1. Giai đoạn 1945 - 1959
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chính của cách mạng nước ta là thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất
nước nhà. Vì vậy, Nhà nước khơng có điều kiện xây dựng hệ thống văn bản pháp luật
mới mà chủ yếu tiếp tục sử dụng các văn bản pháp luật của chế độ cũ phù hợp với lợi
ích của chính quyền cách mạng và nhân dân lao động. Tuy nhiên, trong giai đoạn này đã
có một số văn bản pháp luật ra đời đánh dấu sự xuất hiện các quy định về phiên tòa sơ
thẩm dân sự:
Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán.
Theo TS. Định Ngọc Hiện: "Lịch sử tố tụng dân sự tại tòa bắt đầu từ ngày 24/1/1946"
[40]. Đây được coi là văn bản đầu tiên chứa đựng các quy phạm TTDS của nước ta. Về
phiên tòa sơ thẩm dân sự, văn bản này đã có các quy định về người tiến hành tố tụng,
nghị án và tuyên án và cách thức tổ chức một phiên tòa, chẳng hạn như Điều 10 quy
định: "Tại phiên tịa thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký lập biên bản từ";
Điều 31 và Điều 41: "Nghị án xong tịa lại họp và ơng Chánh án tuyên đọc công khai
bản án"; Điều 10 khoản 2: "Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày
chủ nhật. lại có thể nếu cần đến mở phiên tịa ngồi trụ sở của tịa án, ở nơi cách xa tòa
án". Quy định về trách nhiệm của thẩm phán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các
đương sự: "Thẩm phán không được tự đặt ra lệ mà xử đốn" (Điều 81); " Thẩm phán khơng
được tự biện hộ trước tòa án…" (Điều 82); "Các thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận,
dự đều các phiên tịa, xét xử thật nhanh chóng và thật cơng minh. Thanh liêm là đức tính
thiêng liêng của thẩm phán" (Điều 83). Bên cạnh các quy định tiến bộ đó, Sắc lệnh 51
ngày 17/4/1946 có quy định: "Khi ra phiên tịa… bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo có
quyền yêu cầu Tòa án thi hành phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật" (Điều 26).
Đến Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949, quyền bào chữa cho các đương sự được mở rộng.
Điều 1 Sắc lệnh này quy định: "Trước các Tòa án xử việc hộ và thương mại, trước các
Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ Tịa án binh tại mặt
trận, nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bênh
vực cho mình. Cơng dân đó phải được ơng Chánh án thừa nhận".
Tiếp tục xây dựng bộ máy tư pháp và pháp luật tố tụng, Sắc lệnh 85 ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng ra đời đã có những quy định mới
liên quan đến phiên tịa sơ thẩm dân sự, theo đó Ban tư pháp xã có quyền xét xử sơ
thẩm đồng thời chung thẩm những việc địi bồi thường dưới 300 đồng và có quyền sơ
thẩm những việc đòi bồi thường mà đương sự nêu trong đơn kiện là trên 300 đồng.
Ngoài ra, Sắc lệnh này đã quy định hội thẩm nhân dân tham gia việc xét xử, được
nghiên cứu hồ sơ và ngang quyền với thẩm phán khi xét xử; thành phần Hội đồng xét
xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Quy định luật sư được tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Mặc dù còn chưa nhiều và đầy đủ nhưng các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân
sự trong giai đoạn này đã thể hiện tính manh nha của một ngành luật đang trong giai
đoạn hình thành, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong
nhân dân, ổn định đời sống xã hội trong chế độ mới cũng như tăng cường sức dân vào
công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.3.2. Giai đoạn 1960 - 1989
Giai đoạn này xuất hiện các văn bản có giá trị pháp lý cao có các quy định liên
quan đến ngành luật TTDS như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Luật tổ chức TAND
1960, Luật tổ chức TAND 1981. Trên cơ sở đó, các quy định về pháp luật TTDS tiếp
tục hình thành và phát triển, các quy định về phiên tòa sơ thẩm ngày càng nhiều hơn, kết
cấu của một chế định pháp lý về trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tịa sơ thẩm đã được
định hình rõ nét.
Trong giai đoạn này, các vấn đề chung có tính ngun tắc về phiên tịa sơ thẩm
dân sự đã được quy định như: Nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật (các Hiến pháp 1959, 1980); Nguyên tắc xét xử công khai
(các Hiến pháp 1959, 1980 và Luật tổ chức TAND 1960, 1981); Nguyên tắc xét xử có
hội thẩm nhân dân tham gia (Hiến pháp 1980); Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể (Hiến
pháp 1980). Ngoài ra, các nghị quyết, thơng tư do Tịa án nhân dân tối cao (TANDTC)
ban hành trong đó có một số quy định, giải thích, hướng dẫn các hoạt động xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm như: Thông tư 03-NCPL ngày 30/1/1962 của TANDTC về các trường
hợp xử kín, xử lưu động; Thơng tư 112-NCPL ngày 19/8/1972 của TANDTC quy định
về đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tịa; Thơng tư 2421/TC ngày 29/12/1961 của
TANDTC hướng dẫn thực hiện chế độ hội thẩm nhân dân: "Nguyên tắc chung là: Việc
xét xử sơ thẩm phải có hội thẩm nhân dân tham gia. Chỉ trong trường hợp đặc biệt, tòa
án nhân dân mới xử sơ thẩm mà khơng có hội thẩm nhân dân tham gia. Khi xử sơ thẩm
mà khơng có hội thẩm nhân dân tham gia thì người ngồi xử chỉ là một thẩm phán" (mục
C phần II); Thông tư 16-TATC ngày 27/5/1974 của TANDTC lần đầu tiên đã khái quát
được trình tự xét xử tại phiên tịa:
Thẩm phán chủ tọa phiên tịa có nhiệm vụ bảo đảm việc xét hỏi, tranh luận và
giữ gìn trật tự tại phiên tịa. Hội đồng xử án có nhiệm vụ quyết định mọi vấn đề về nội
dung cũng như về thủ tục tố tụng trong phiên tòa. Đối với những vấn đề đơn giản không
cần phải thảo luận lâu thì Hội đồng xử án trao đổi và quyết định ngay tại phiên tòa,
nhưng nếu việc trao đổi đòi hỏi mất nhiều thời gian, hoặc trao đổi để nghị án thì Hội đồng
xử án phải vào phịng nghị án.
Văn bản có ý nghĩa quan trọng nhất về phiên tịa sơ thẩm dân sự trong thời kỳ
này là Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số 96
ngày 8/2/1977 của TANDTC. Đây là văn bản quy định các bước tiến hành tại phiên tòa
xét xử như một chỉnh thể, nếu bỏ qua mặt hình thức của nó thì Bản hướng dẫn này được
coi là một chế định quy định đầy đủ trình tự, thủ tục xét xử vụ kiện dân sự tại phiên tòa
sơ thẩm. Theo Bản hướng dẫn này, việc tiến hành phiên tòa về dân sự phải tuần tự theo
các bước sau:
1. Bước chuẩn bị cho việc xét hỏi bao gồm các thủ tục: Khai mạc phiên tòa; hỏi
căn cước của những người được triệu tập và giải quyết vấn đề những người vắng mặt;
phổ biến những quyền của những người tham gia tố tụng và giải quyết những vấn đề
cần thiết để chuẩn bị cho việc xét hỏi; xác định nhiệm vụ của nhân chứng, của giám
định viên, của người phiên dịch.
2. Bước giải quyết nội dung chính của phiên tịa gồm các thủ tục: Xét hỏi; tranh
luận; nghị án và tuyên án.
3. Những việc phải làm sau phiên tòa gồm các thủ tục: Kiểm tra lại biên bản
phiên tịa; gửi trích lục án và bản sao bản án.
Mặc dù còn hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp, các quy định không theo kết cấu
điều khoản cụ thể và rõ ràng, nhưng nếu bóc tách từng vấn đề, từng nội dung của nó thì
bản hướng dẫn quy định khá chi tiết và đầy đủ, về cơ bản đã thể hiện toàn bộ diện mạo
của phiên tòa sơ thẩm dân sự. Nếu so với các quy định ở giai đoạn sau này, Bản hướng
dẫn có một vài hạn chế như: Trường hợp nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai mà vẫn vắng mặt khơng có lý do chính đáng thì khơng đình chỉ việc giải quyết
vụ án mà "Tịa án nhân dân có quyền xử vắng mặt hoặc tạm xếp việc kiện" [26, tr. 52];
hay trong giai đoạn nghị án "Thẩm phán chủ tọa phiên tịa có thể chuẩn bị trước bản án
theo sự nhận xét chủ quan của mình"; hay khi tun án "nếu Tịa án nhân dân xử kín thì
tùy từng trường hợp, có thể đọc tồn bộ bản án, hoặc chỉ tóm tắt nội dung sự việc và
nhận định của tòa án" [26, tr. 56] và chỉ đọc toàn bộ phần quyết định của bản án. Tuy
nhiên, Bản hướng dẫn đã có những quy định rất tích cực, thậm chí thể hiện sự tiến bộ hơn
so với PLTTGQCVADS 1989 sau này như: Không giới hạn thời gian tranh luận, "nội
dung của bước tranh luận dài hay ngắn là tùy theo tình hình cụ thể của mỗi vụ kiện"
[26, tr. 55] hay quy định rất rõ những nội dung của phần nghị án đó là: Những quan hệ
pháp luật cần phải giải quyết trong vụ kiện là gì? những chứng cứ đã đủ chưa? những
quyền và nghĩa vụ của các đương sự được giải quyết căn cứ vào pháp luật, chính sách và
giải quyết như thế nào cho đúng… Toàn bộ nội dung Bản hướng dẫn đã thể hiện được
vai trị, vị trí cũng như tầm quan trọng của phiên tòa sơ thẩm trong việc giải quyết vụ
kiện. Bản hướng dẫn này đặt nền móng cho việc ban hành PLTTGQCVADS năm 1989.
1.3.3. Giai đoạn 1990 - 2004
Giai đoạn này đánh dấu những chuyển đổi mạnh mẽ của nhiều lĩnh vực trong đời
sống xã hội, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được
định hình, các quan hệ dân sự ngày càng phát triển mạnh mẽ và thể hiện sự muôn màu
muôn vẻ. Sự ra đời của PLTTGQCVADS 1989 đã "phản ánh đúng thời kỳ phát triển của
lịch sử, nó đánh dấu một bước phát triển trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta về
pháp luật tố tụng dân sự nói riêng" [10, tr. 62]. "Đây là văn bản pháp luật chính thức
điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tố tụng dân sự, bao hàm một quy trình tố tụng
dân sự khép kín và thống nhất, được áp dụng trong công tác giải quyết, xét xử các vụ
kiện dân sự" [10, tr. 62]. PLTTGQCVADS cơ bản đáp ứng được nhu cầu giải quyết một
khối lượng lớn các tranh chấp dân sự mỗi năm, trong đó các quy định về phiên tịa sơ
thẩm có vai trị nhất định trong hoạt động xét xử của tịa án.
Trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Chương X
PLTTGQCVADS bao gồm 9 điều (từ Điều 48 đến Điều 57). Mặc dù chưa có sự tách
bạch rõ ràng, nhưng các quy định này đã thể hiện được các bước tiến hành phiên tòa
như: Các yêu cầu chung về phiên tòa; thủ tục bắt đầu phiên tòa; thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa; tranh luận tại phiên tòa; nghị án và một số thủ tục tiến hành sau phiên tòa. Giai
đoạn này cịn có các văn bản tố tụng khác như: PLTTGQCVAKT, PLTTGQCtcLĐ,
PLTTGQCVAHC có các quy định về phiên tịa sơ thẩm. Ngồi ra, trong giai đoạn này
cịn có một số văn bản giải thích, hướng dẫn quy định về phiên tịa sơ thẩm như: Thơng
tư 09/TTLN ngày 1/10/1990 của TANDTC - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTTGQCVADS về sự tham gia phiên
tòa của kiểm sát viên; Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán
TADNTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của PLTTGQCVADS về việc cấp trích
lục bản án, quyết định hoặc cấp bản sao bản án, quyết định; Công văn số 309/NCPL
ngày 22/12/1990 của TANDTC giải thích một số vấn đề về thủ tục TTDS về tạm ngưng
việc tiến hành phiên tịa, tạm hỗn việc tun án; Cơng văn số 81/KHXX ngày
21/7/1997 của TANDTC hướng dẫn về quyết định công nhận sự thỏa thuận tại phiên
tịa; Cơng văn số 43/KHXX ngày 21/4/1998 của TANDTC trả lời về hiệu lực của quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.