Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đề án và các giải pháp tăng trưởng và phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.62 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu 2
I : Bản chất của tăng trưởng và phát triển kinh tế 3
1/ Khái niệm và bản chất 3
a) Tăng trưởng kinh tế 3
b) Phát triển kinh tế 3
2/ Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế 3
a) Nhân tố kinh tế 3
b) Nhân tố phi kinh tế 4
3/ Các mô hình tăng trưởng kinh tế 5
a) Mô hình cổ điển 5
b) Mô hình của K.Marx 5
c) Mô hình tân cổ điển 6
d) Mô hình của Keynes 6
e) Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại 6
II : Thực trạng và giải pháp 7
1/ Thực trạng 7
a) Khu vực dịch vụ 7
b) Khu vực công nghiệp 8
c) Khu vực nông nghiệp 9
2/ Giải pháp 11
a) Đối với ngành dịch vụ 11
b) Đối với ngành công nghiệp 13
c) Đối với ngành nông nghiệp 14
d) Phát triển ngành đi đôi với phát triển nguồn nhân lực và công nghệ 15
Kết luận 16
Tài liệu tham khảo 17
1
Mở Đầu
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong Vùng Phát triển Kinh Tế Trọng Điểm Phiá Nam
(gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương), đây là một


cực phát triển của nền kinh tế cả nước, có tác động lôi kéo cả khu vực phía Nam cùng phát
triển. Ba mươi năm qua, thành tựu lớn nhất thành phố đạt được là luôn giữ ổn định chính trị,
kể cả trong những thời điểm trong nước có nhiều khó khăn và thế giới có những diễn biến
phức tạp; kinh tế được khôi phục và không ngừng phát triển, nhất là trong 20 năm đổi mới,
đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế của cả nước Việc phát triển kinh tế thành
phố có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của đất nước, đây không chỉ là vấn đề
riêng của thành phố mà còn được cả nước quan tâm . Vì vậy để đưa thành phố Hồ Chí Minh
trở thành một thành phố phát triển năng động,hiện đại, bền vững, là một trung tâm thương
mại lớn không chỉ của Việt Nam mà còn của cả khu vực Đông Nam Á cần phải lựa chọn
những bước đi thích hợp, những chiến lược phát triển lâu dài, hiệu quả.
2
I Bản chất của tăng trưởng và phát triển kinh tế:
1/ Khái niệm và bản chất :
a) Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian
nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở qui mô và tốc độ. Quy mô tăng
trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa
so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kì. Thu nhập của
nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị . Thu nhập bằng giá trị phản ánh
qua các chỉ tiêu GDP, GNI và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoạc tính bình quân trên
đầu người.
b) Phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát
triển kinh tế được xem như là một quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết
hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về nền kinh tế và xã hội ở mỗi
quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố
nội tại của nền kinh tế quyết định.
2/ Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Có nhiều nhân tố khác nhau liên quan đến quá trình tăng trưởng kinh tế, việc nghiên cứu
cần thiết phải phân thành hai nhóm với tính chất và nội dung tác động khác nhau là: nhân tố

kinh tế và nhân tố phi kinh tế.
a) Nhân tố kinh tế:
Đây là những nhân tố có tác động trực tiếp đến các biến số đầu vào và đầu ra của nền
kinh tế . Trong nền kinh tế thị trường, giá trị đầu ra của nền kinh tế phụ thuộc chính vào sức
mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế,tức là tổng cầu còn giá trị các biến số đầu vào
có liên quan trực tiếp đến tổng cung, tức các yếu tố nguồn lực tác động trực tiếp.
*Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cầu:
- Vốn(K): là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng
kinh tế.Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mô có liên quan trực tiếp đế tăng trưởng kinh tế
được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền(giá trị).Đó là sự thể
hiện của tính chất tăng trưởng theo chiều rộng.
- Lao động(L): là một yếu tố đầu vào của của sản xuất. Lao động không chỉ là yếu tố
vật chất đầu vào mà còn có cả khía cạnh phi vật chất đó là các lao động có kỹ năng sản
xuất ,lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng
kiến. Việc hiểu yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc
3
phân tíc lợi thế và vai trò của các yếu tố này trong Tăng trưởng kinh tế của các nước phát
triển và đang phát triển.
- Tài nguyên, đất đai(R): được coi là yếu tố đầu vào của sản xuất. Đất đai là yếu tố
quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực
hiện bố trí các cơ sở kinh tế thuộc các nghành công nghiệp, dịch vụ.
- Công nghệ kỹ thuật(T): được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến
tăng trưởng trong điều kiện hiện đại.Yếu tố công nghệ càng được hiểu đầy đủ theo hai dạng:
thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt những kiến thức khoa học, nghiên
cứu đưa ra những nguyên lí, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm,quy trình công nghệ.
Thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu,thử nghiệm vào thực tế nhằm
nâng cao trình độ phát triển của sản xuất.
*Các nhân tố tác động đến tổng cầu:
- Chi cho tiêu dùng cá nhân(C): bao gồm các khoản chi cố định, chi thường xuyên và
các khoản chi khác ngoài dự kiến phát sinh.

- Chi tiêu của chính phủ(G): bao gồm các khoản mục chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của
Chính phủ .
- Chi cho đầu tư(C): Đây thực chất là các khoản cho các nhu cầu đầu tư của các doanh
nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vố cố định và đầu tư vốn lưu động.
- Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX=X-M): thực tế giá trị hàng hóa xuất khẩu
là các khoản phải chi tiêu cho các yếu tố nguồn lực trong nước, còn giá trị nhập khẩu là giá
trị của các loại hàng hóa sử dụng trong nước nhưng lại không phải bỏ ra các khoản chi phí
cho các yếu tố trong nước.
b) Nhân tố phi kinh tế :
- Đặc điểm văn hóa -xã hội: là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng
lao động ,của kỹ thuật ,của trình độ quản lý kinh tế -xã hội. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện
đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển.
- Nhân tố thể chế chính trị-kinh tế-xã hội: được thừa nhận tác động đến quá trình phát
triển đất nước the khía cạnh tạo dựng hành lang và môi trường xã hội cho các nhà đầu tư.
- Cơ cấu dân tộc: sự phát triển của tổng thể kinh tế có thể đem đến những biến đổi co
lợi cho dân tộc này, nhưng bất lợi cho dân tộc khác. Đó chính là nguyên nhân nảy sinh
những xung đột giữa các dân tộc ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế đất
nước.
- Cơ cấu tôn giáo: những ý thức tôn giáo thường là cố hữu ,ít thay đổi theo sự phát
triển kinh tế xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến bộ
4
của xã hội tùy theo mức độ, song có thể là sự hòa hợp, nếu có chính sách đúng đắ của chính
phủ.
- Sự tham gia của cộng đồng : dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác dụng tương hỗ
lẫn nhau. Sự phát triển là điều kiện làm tăng thêm năng lục thực hiện quyền dân chủ của
cộng đồng dân cư trong xã hội.
3/ Các mô hình tăng trưởng kinh tế:
Mô hình kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sư phát triển kinh tế
thông qua các các biến số kinh tế và mối quan hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng
trong quá trình phát triển sau khi đã tước bỏ đi sự phức tạp không cần thiết.

a) Mô hình cổ điển:
- Adam Smith(1723-1790): Ông được coi là cha đẻ của ngành kinh tế học “Của cải
của các nước” được coi là là tác phẩm đầu tiên trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống
nhất những luạn điểm về kinh tế học. Nội dung cơ bản của tác phẩm này là:
+ Học thuyết “Giá trị lao động”Ông cho rằng lao động chứ không phải đất đai ,tiền
bạc là nguồn gốc cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước.
+ Học thuyết “Bàn tay vô hình” “ ông cho rằng dầu nhờn của lợi ích cá nhân sẽ làm
cho các bánh xe kinh tế hoạt động gần như kỳ diệu. Không ai cần kế hoạch, không cần qui
tắc ,thị trường sẽ giải quyết tất cả”.
- David Riacrdo: được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất với tác phẩm nổi tiếng “Các
nguyên tắc của chính trị kinh tế học và thuế khóa”. Giải thích về nguồn gốc tăng trưởng
kinh tế ông tranh luận rằng đất đai sản xuất nông nghiệp là nguồn gốc của tăng trưởng kinh
tế . Trong phân chia các nhóm người trong xã hội và phân phối thu nhập Ricardo ch rằng
nhà tư bả là người chủ động trong quá trình phân phối giữa tư bản và địa chủ cũng như giữa
tư bản và công nhân . Tiền công của công nhân phụ thuộc vào thương lượng giữa các nhóm
công nhân và nhà tư bản.
b) Mô hình của K.Marx:
Tác phẩm nổi tiếng nhất là bộ “tư bản”. Những luận điểm cơ bản nhất của Marx về
phát triển kinh tế bao gồm:
- Các yếu tố tăng trưởng kinh tế: theo Marx các yếu tố tác động đến quá trình tái sản
xuất là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là lao động, theo Marx sức lao
động đối với nhà tư bản là một thứ hàng hóa đặc biệt. Nó có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị
ản thân nó, giá trị đó bằng giá trị lao động cộng với giá trị thặng dư.
- Sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản: cũng như Ricardo, Marx cho rằng khu vực
sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội bao gồm ba nhóm người: địa chủ, nhà tư bản và công
5
nhân, nhưng ngược với Ricardo, ông cho rằng sự phân phối này không hợp lý mà còn mang
tính chất bóc lột.
c) Mô hình tân cổ điển:
Những tư tưởng cơ bản của trường phái này có những đặc điểm mới so với các nhà

kinh tế cổ điển nhưng cũng có những quan điểm thống nhất với họ.Các nhà kinh tế tân cổ
điển lại có cách giải thích khác hơn về tính chất của nông nghiệp. Họ cho rằng khu vực này
không có biểu hiên trì trệ tuyệt đối, một sự gia tăng lao động trong nông nghiệp vẫn tạo ra
mức tổng sản phẩm cao hơn, vì vậy khi xuất hiện khu vực công nghiệp thì ngay từ đầu phải
quan tâm đến cả hai khu vực. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào động lực tích lũy ở cả 2
khu vực kinh tế,trong đó khu vực công nghiệp cần được quan tâm nhiều hơn.
d) Mô hình của Keynes:
Là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi
suất và tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết tổng quát)

của John Maynard Keynes
(1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng. Nguyên lý cầu hữu
hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những
thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công
cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy
thoái.
*Mô hình Harrod-Domar:
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập,
hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình
giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển. Mô hình
này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa
tăng trưởng và các nhu cầu về vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một
ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
*Mô hình Robert Solow (1956)
Với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một
nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).
e) Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại:

6
Tiêu biểu là P.A Samuelson với tác phẩm “Kinh tế học”(1948) . Các nhà kinh tế trong
trường phái này ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp , trong đó thị trường trực
tiếp xác dịnh những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế và nhà nước tham gia điều tiết có có
mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường.
Theo Samuelson , rong nền kinh tế hiện đại, Chính phủ có bốn chức năng cơ bản: thiết
lập khuôn khổ pháp luật,xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô,tác động vào việc phân
bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế, thiết lập các chương trình tác động tới việc phân
phối thu nhập.
II Thực trạng và giải pháp
1/ Thực trạng
a) Khu vực dịch vụ
Theo Sở Thương mại, trong nhiều năm qua,ngành dịch vụ luôn đóng góp trên 50%
GDP của TPHCM và đây là ngành quyết định,chủ lực của nền kinh tế thành phố. Thế
nhưng,trong vài năm trở lại đây, ngành dịch vụ ở TPHCM đang có dấu hiệu chững lại, sụt
giảm trên phần lớn các nhóm ngành và có sự phát triển không đồng đều.
Với vị trí là trung tâm kinh tế - văn hoá của các tỉnh miền nam TPHCM có điều kiện
thuận lợi phát triển các thưong mại dịch vụ như phân phối hàng hoá, du lịch, tài chính, ngân
hàng,viễn thông, giải trí, văn hoá, thể thao, vận tải, y tế, dịch vụ xã hội…Tuy nhiên, sự phát
triển của ngành dịch vụ ở thành phố trong những năm gần đây lại đang có dấu hiệu chững
lại và sụt giảm đáng báo động. Theo niên giám thống kê TPHCM, cơ cấu ngành dịch vụ
trong tổng sản phẩm GDP trong nước trên địa bàn TPHCM vào năm 1999 đạt được 53,9%.
Đến năm 2000, tỉ trọng này giảm xuống còn 52,6%, năm 2001 và 2002 giảm còn 51,6%.
Bước sang năm 2003 tiếp tục giảm còn 50,5% và trong và trong 6 tháng đầu năm 2004 giảm
còn 48,9%. Điều này hoàn toàn đi ngược với xu hướng chung của các nước có nền kinh tế
phát triển.
Đánh giá tình hình các ngành dịch vụ và kiến nghị với UBND TPHCM, Sở Thưong
mại TPHCM nhận định: “do nhiều cơ quan nhà nước khác nhau cùng quản lí lĩnh vực
thưong mại dịch vụ nhưng chưa có cơ quan đầu mối và chưa chiến lược đầu tư phát triển
đồng bộ nên ngành dịch vụ của TPHCM phát triển không đồng đều.Một số hân ngành gắn

liền với hoạt động sản xuất như hân phối hàng hoá,vận tải,ngân hàng…được quan tâm đầu
tư phát triển khá tốt. Trái lại những ngành ít gắn bó trực tiếp sản xuất như kiểm toán, nghiên
cứu thị trường, dịch vụ cho thuê tài chính,quảng cáo lại ít được quan tâm đầu tư nên chưa
đáp ứng nhu cầu.”
7
Thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lấy ngành dịch vụ thương mại
làm trọng tâm, TPHCM đó đưa ra nhiều giải pháp để phát triển các ngành dịch vụ, phấn đấu
đưa giá trị gia tăng tăng 14,2% trở lên và kim ngạch xuất khẩu tăng trên 15%, so với năm
trước.
Năm 2007, kinh tế TPHCM tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng. Các ngành dịch vụ
có mức tăng trưởng cao, ước tính cả năm - giá trị gia tăng tăng khoảng 14,1%, chiếm tỷ
trọng 52,6% GDP của TP. Trong đó, 4 ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh là: tài chớnh-ngân
hàng, du lịch, bưu chính-viễn thông và vận tải-dịch vụ cảng-kho bãi.
b) Khu vực công nghiệp
Theo UBND TPHCM, qua hai năm rưỡi triển khai chương trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tỷ trọng giá trị sản xuất của 4 ngành công nghiệp trọng yếu (cơ khí chế tạo, hoá
chất, điện tử - công nghệ thông tin và chế biến tinh lương thực thực phẩm) tăng từ 56,5%
vào năm 2006 lờn 57,8% vào 6 tháng đầu năm 2008. Tỷ trọng các ngành công nghiệp có
hàm lượng tri thức, công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh có xu hướng tăng dần!.
Thống kê từ UBND TPHCM cho thấy trong hai năm rưỡi, từ 2006 đến hết tháng 6
năm 2008, đã có rất nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, với
mục đích gia tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm. Những chương trình đó đã phần nào
mang lại những kết quả đỏng khích lệ. Cụ thể một số ngành như cơ khí, điện tử, công nghệ
thông tin đều tăng tỷ lệ trong tổng giátrị sản xuất ngành công nghiệp. Trong đó, ngành cơ
khí trong năm 2006 chiếm 15,4% tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp; năm 2007 tăng
lên 16,6%; 6 tháng đầu năm 2008 tiếp tục tăng lên 16,8% (kế hoạch năm 2010 đạt 20%).
Ngành điện tử - công nghệ thông tin: năm 2006 chiếm 3,4%; năm 2007 tăng lên 3,6%; 6
tháng đầu năm 2008 tiếp tục tăng lên 4,2% tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp (kế
hoạch năm 2010: 7%).
Cùng với sự gia tăng tỷ trọng của các ngành công nghệ và công nghệ cao này, một số

ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám thấp hơn đã có tỷ lệ giá trị sản xuất trong toàn
ngành công nghiệp giảm xuống. Cụ thể như ngành dệt - may: năm 2006 chiếm 13,3%; năm
2007 giảm còn 12,9%; 6 tháng đầu năm 2008 tiếp tục giảm còn 12,3% giá trị sản xuất ngành
công nghiệp. Ngành da - giày: năm 2006 chiếm 6,6%; năm 2007 giảm còn 5,9%; 6 tháng
đầu năm 2008 tăng lên 6,8% giá trị sản xuất ngành công nghiệp.
Trong việc triển khai hỗ trợ doanh nghiệp, UBND TPHCM nhận định rằng chương
trình thiết kế, chế tạo thiết bị trong nước thay thế nhập khẩu đã góp phần khẳng định vị thế
của ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo của thành phố. Trong 2 năm 2006 - 2007 ngân sách
khoa học đầu tư hơn 15 tỷ đồng để triển khai 17 dự án thiết bị, công nghệ; chuyển giao thiết
8
bị công nghệ cho 25 doanh nghiệp với giá bán chỉ bằng 30%-70% giá nhập khẩu; kết quả
nổi bật của chương trình này là nhà nước đầu tư 1 đồng vốn thì doanh nghiệp và xã hội tiết
kiệm được 20 đồng.
Ngoài ra, TPHCM cũng đã hoàn thành công tác khảo sát trình độ công nghệ của các
doanh nghiệp tham gia chương trình sản phẩm công nghiệp chủ lực trên địa bàn. Kết quả
khảo sát 19 doanh nghiệp thuộc các ngành cao su - nhựa, chế biến thực phẩm, điện tử - công
nghệ thông tin, dệt - may… có 14 doanh nghiệp có trình độ công nghệ từ khá trở lên (chiếm
73,7%) và 5 doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình khá (chiếm 26,3%).
Theo UBND TPHCM, tỷ trọng các ngành công nghiệp có hàm lượng tri thức, công
nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh ở TP đang có xu hướng tăng dần; tỷ trọng các ngành sử dụng
nhiều tài nguyên và thâm dụng lao động giảm dần và chuyển dịch về các tỉnh lân cận nhằm
khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu và lao động có sẵn tại địa phương như:
chế biến lương thực - thực phẩm, dệt may, da giày…
c) Khu vực nông nghiệp
Với mức tăng trưởng 6%/năm (giai đoạn 2001 - 2005), riêng năm 2007 l 6,5%, nông
nghiệp TPHCM xuất hiện nhiều mô hình sản xuất hiệu quả. “Làn sóng” nuôi tôm sú công
nghiệp đem lại thu nhập khoảng 140 triệu đồng/ha/năm đĩ biến hàng ngàn hecta đất hoang
hoá hoặc đất trồng lúa 1 vụ, năng suất thấp ở Cần Giờ, Nhà Bè thành những khu đô thị sáng
đèn về đêm.
Mô Hình nuôi bò sữa của TP cũng l “điểm sáng” của cả nước với mức thu nhập 45

triệu đồng/ha/năm (5 con/hộ). Còn có thể kể đến các mô hình nuôi cá sấu 50 con/hộ thu
nhập 150 triệu đồng/năm hay mô hình trồng rau an toàn có thể mang về thu nhập 150 - 180
triệu đồng/ha/năm.
Khoảng cách về thu nhập bình quân giữa khu vực ngoại thành và nội thành cũng được
thu hẹp dần. Nếu năm 2000, thu nhập ngoại thành là 470.000 đồng/người/tháng , thấp hơn
so với nội thành l 812.000 đồng/người/tháng thì đến năm 2006, 2 con số này l 988.000
đồng/người/tháng so với 1,552 triệu đồng/người/tháng (khoảng 1,7 lần so với 3,3 lần so với
năm 1995).
Điều này được lý giải lý do khu vực ngoại thành được đô thị hoá, công nghiệp hoá, tỷ
lệ lao động ngoài nông nghiệp tăng lên và hiệu quả của sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp.
Đáng nói, nông nghiệp TP phát triển trong bối cảnh diện tích đất sản xuất giảm bình
quân hơn 1.100 ha/năm, nhưng giá trị sản xuất tăng bình quân từ 31,42 triệu đồng/ha/năm
2000 lên 77,5 triệu đồng/ha/năm 2006.
9
Sau giai đoạn lúng túng 1996 - 2000, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển
hướng rõ, TP xác định lấy 2 cây (rau an tồn, dứa cayen), 2 con (bò sữa, tụm sú) làm mục
tiêu phát triển giai đoạn đầu những năm 2000 và hiện nay l nền nông nghiệp đô thị, lấy
những cây, con có giá trị kinh tế cao hơn trên một đơn vị diện tích làm hướng chủ đạo phát
triển như hoa kiểng và cây cảnh cùng với rau an toàn thay thế dần con bò sữa, tụm sú đã qua
thời kỳ đỉnh cao.
Sự tăng trưởng thiếu sự bền vững của nông nghiệp TP biểu hiện rõ nét qua con tôm sú
ở Cần Giờ và Nhà Bè. Môi trường nuôi bị ô nhiễm vì các khu cụng nghiệp (KCN) và do
chính chất thải ra từ quá trình nuôi tôm nên ngưòi nuôi tôm sú phải gánh chịu hậu quả.
Mô hình nuôi bò sữa, từng l niềm tự hào của TPHCM, nhưng vài năm nay, biểu đồ
cũng cho thấy sự phát triển và suy thoái xen kẽ. Và hiện nay là giai đoạn khó khăn của
người nuôi bò sữa.
Ngay cả vây rau an toàn cũng đang gặp khó khăn đầu ra về giá. Phải nhìn nhận, chất
lượng và khả năng cạnh tranh hàng nông sản TP cũng thấp, cơ cấu nông nghiệp có
“chuyển”, nhưng “dịch” cũng chậm, chưa hợp lý khi trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên

25%), cây trồng giá trị thấp (lúa) cũng chiếm diện tích lớn, trong khi hoa, cây kiểng, rau an
toàn, cỏ cảnh, vây làm thức ăn gia súc cũng thấp.
Thủy sản sau thời gian phát triển đột biến vài năm nay đã chựng lại, chăn nuôi với
dịch bệnh triền miên do nuôi cơng nghiệp chưa phát triển đều. Sản xuất còn manh mún,
giữa chế biến và sản xuất chưa thật sự gắn kết. Chi phí đầu vào như giá vật tư nông nghiệp
và giá lao động tăng nhanh. Từ 2003 đến nay, giá vật tư nguyên liệu đầu vào 2,5 đến trên 3
lần, giá lao động tăng trên 2 đến trên 3 lần, trong khi giá nông sản chỉ tăng 1,3 đến hơn 1,5
lần.
Giai đoạn 1995 - 2005 bình quân mỗi năm đất nông nghiệp TP giảm 1.150 ha để
chuyển thành các KCN, khu đô thị và công trình công cộng. Sau khi bị thu hồi hay chuyển
đổi công năng đất nông nghiệp, một bộ phận lao động nông nghiệp chưa có việc làm, tình
trạng thất nghiệp tăng lên 38,8% so với 28,1% trước đó do trình độ thấp, thiếu kỹ năng.
Số lao động nông nghiệp chuyển sang lao động công nghiệp tại các KCN và khu chế
xuất (KCX) từ 3,1% nhích lên 6,6% tổng số lao động nông thôn, nhưng đa phần lại làm
những việc không tên. Thu nhập dân cư nông thôn đã có bước cải thiện, nhưng so với khu
vực nội thành vẫn còn cách biệt lớn (gấp 1,7 lần), ngay cả người giàu và nghèo ở ngoại
thành khoảng cách cũng ngày càng lớn hơn. Tỷ lệ hộ nghèo của TP giảm nhanh thời gian
qua, nhưng tốc độ giảm hộ nghèo ở ngoại thành lại chậm hơn và số nghèo tập trung chiếm
đến 85% hộ nghèo tồn TP.
10
Việc thu hồi đất với mức đền bù chưa thỏa đáng so với giá trị thực không đảm bảo
cuộc sống bình thường của nông dân trong thời gian chuyển nghề. Lại chưa có phương án
giải quyết việc làm thiết thực cho số đông nông dân mất ruộng không thể vào làm KCN
(người lớn tuổi, thanh niên chưa tốt nghiệp phổ thông…). Bình quân 1 ha đất nông nghiệp
thu hồi liên quan đến 2,1 hộ nông dân (8 - 10 người). Vì vậy đã có hàng chục ngàn lao động
bị ảnh hưởng từ việc đất bị thu hồi.
Một trong những vấn đề bức xúc hiện nay, dù đã qua 3 đời phó chủ tịch UBNDTHCM
phụ trách về nông nghiệp, là việc quy hoạch đất sản xuất nông nghiệp ngoại thành… Đất
nông nghiệp được xem là đất dự trữ cho công nghiệp, đô thị, chưa xác định vùng sản xuất
nông nghiệp lâu dài. Chính điều này đã làm không ít nhà đầu tư nông nghiệp tâm huyết

không dám đầu tư vào nông thôn TP.
Theo chỉ đạo mới nhất của Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Trung Tín, việc này
phải xong trong năm nay. Các KCN xây dựng chủ yếu dựa vào vùng ven, những đô thị có
sẵn hoặc vị trí thuận lợi nhất ở ven đường, ven sông hay những trục lộ chính. Hệ quả là mối
quan hệ giữa các KCN với nông thôn chưa thật rõ nét. KCN góp phần đô thị hoá nông thôn
hơn là hiện đại hoá nông thôn. Khu dân cư, kết cấu hạ tầng kỹ thuật gắn với KCN chưa
được chú trọng.
Do đó, nhiều vấn đề mới phát sinh về nhà ở, đời sống văn hoá, kể cả về mặt an ninh
trật tự. Nhưng điều đáng lo hơn là sự pht triển các KCN tràn lan kèm theo vấn nạn ô nhiễm
môi trường. Mới có khoảng 3/13 KCN và KCX có nhà maý xử lý thất thải. Phát triển nông
thôn chưa theo quy hoạch, công nghiệp chưa thật sự là đầu tàu kéo nông nghiệp và nông
thôn đi lên.
2/ Giải pháp
a) Đối với ngành dịch vụ
Bước qua năm 2008, TPHCM xác định áp lực cạnh tranh bình đẳng khi hội nhập kinh
tế rất lớn, trong khi nền kinh tế của TP vẫn chưa theo kịp trình độ phát triển của kinh tế khu
vực và thế giới. Chính vì vậy, TPHCM đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế, trong có 5 giải pháp để đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ trên địa bàn TP.
Trong thời gian tới, TP sẽ đẩy mạnh phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ mang tính đột phá mà
chương trình chuyển dịch cơ cấu các ngành dịch vụ đã xác định. Cụ thể là đẩy mạnh xã hội
hóa các hoạt động dịch vụ, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư vào các ngành dịch vụ nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển về
quy mô và chất lượng dịch vụ. Đồng thời, tập trung triển khai thực hiện 5 giải pháp để phát
triển các ngành dịch vụ.
11
Thứ nhất, cần tập trung phát triển sản phẩm tài chính, định chế tài chính, thị trường
tài chính. Về thị trường vốn, bước đầu tham gia vào thị trường vốn quốc tế như niêm yết tại
thị trường chứng khoán nước ngoài. Bên cạnh đó, ngoài hệ thống ngân hàng sẽ đẩy mạnh
phát triển hệ thống phi ngân hàng như thị trường chứng khoán, các loại quỹ đầu tư, các tổ
chức bảo hiểm, đồng thời hiện đại hóa hệ thống thanh toán, khuyến khích người dân sử

dụng hệ thống tài khoản và thẻ điện tử trong giao dịch, giảm thiểu giao dịch bằng tiền mặt.
Thứ hai, sẽ tập trung phát triển thị trường. Đối với thị trường trong nước, phấn đấu
khai thác tiềm năng để phát triển du lịch nội địa, vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, thị trường
bất động sản, đồng thời phát triển hệ thống siêu thị, chợ đầu mối đáp ứng nhu cầu hàng hóa
cho người tiêu dùng. Ngoài ra sẽ đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng các hội chợ trong
nước, tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các kỳ hội chợ quốc tế và khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng thương mại theo hướng liên kết với các địa phương nhằm
tạo động lực phát triển, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh gia nhập WTO.
Đối với thị trường nước ngoài, xây dựng và ban hành chủ trương, chính sách phù hợp với
quy định của WTO, luật lệ quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, tăng tỷ trọng giá trị hàng
công nghiệp xuất khẩu trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Đồng thời,
nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại và nghiên cứu thị trường, chủ động mở
rộng thị trường, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác.
Thứ ba, ưu tiên phát triển du lịch sinh thái và du lịch văn hóa, đồng thời tăng cường
liên kết hợp tác phát triển du lịch với các địa phương trong khu vực thể hiện tính liên ngành,
liên vùng trong phát triển du lịch. Ngoài ra, tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực
cho ngành du lịch và triển khai thực hiện chương trình phát triển du lịch giai đoạn 2007-
2010. Giải pháp này cũng yêu cầu tập trung xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu du
lịch nhằm nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, tạo tính độc đáo, riêng biệt cho
sản phẩm để tăng tính cạnh tranh, thu hút khách du lịch.
Thứ tư, xây dựng hệ thống kho, bãi hiện đại, đáp ứng nhu cầu về vận chuyển đường
bộ, đường thủy. TP sẽ tập trung phát triển vận tải hành khách công cộng, nâng cao năng lực
và chất lượng dịch vụ vận tải, triển khai mạnh vận tải đa phương thức. Qua đó sẽ phải huy
động tối đa các nguồn lực, kể cả thu hút vốn nước ngoài đầu tư kết cấu hạ tầng để phát triển
ngành vận tải.
Thứ năm, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ bưu chính-viễn thông và giải pháp chăm
sóc khách hàng. Trong đó bao gồm nâng cao chất lượng, giảm giá cước dịch vụ bưu chính-
viễn thông phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế. Ngoài ra, tăng cường hợp tác, trao đổi kinh
nghiệm với các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia để thu hút, chuyển giao công
12

nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cho ngành bưu chính, viễn thông cũng như triển khai thực
hiện Chương trình phát triển dịch vụ kinh doanh trực tuyến trên địa bàn TP và Đề án phát
triển ngành CNTT giai đoạn 2007-2010.
b) Đối với ngành công nghiệp
Nên tập trung phát triển ba ngành mũi nhọn là CN cơ khí chế tạo máy và gia công kim
loại, CN hóa chất, CN điện tử và công nghệ thông tin,đây là ba ngành thuộc loại “xương
sống” của nền CN, cho nên TP.HCM muốn làm được vai trò “một đầu tàu CN của cả nước”
phải nắm giữ và phát triển nhanh các ngành này.
Phải qui hoạch rõ hơn nữa các lĩnh vực trong từng ngành, đặc biệt phải chỉ ra cho được
các dự án then chốt mà Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư để từ các dự án này có thể “kích” cho ba
ngành này phát triển nhanh, một ngành có quá nhiều lĩnh vực, nếu không làm cụ thể lĩnh
vực tập trung thì sẽ khó tránh khỏi việc phát triển tràn lan như trước đây và qui hoạch sẽ
không thực hiện được.
Trong ngành cơ khí chế tạo TP.HCM chỉ nên đầu tư vào các lĩnh vực thuộc loại then
chốt, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và kỹ thuật cao mà các địa phương khác không có khả năng
làm, như sản xuất phôi, sản phẩm đúc, các loại máy công cụ điều khiển theo chương trình
số Còn các sản phẩm cơ khí thông dụng khác như thân máy, động cơ diezen, máy nông
nghiệp thì TP.HCM nên để cho các tỉnh bạn làm vì hiện nay các địa phương này hoàn
toàn đủ năng lực và cũng đang phát triển mạnh một lĩnh vực cơ khí mà TP.HCM nên hướng
đến, là đóng tàu thủy, TP.HCM có vị trí rất đắc địa để phát triển hàng hải. Hiện nay, ngành
hàng hải thế giới đang có xu hướng chuyển dịch từ tam giác phát triển lâu nay là Singapore
- Indonesia - Malaysia - đến nơi khác, và TP.HCM đang là một điểm được lựa chọn.
Trong CN hóa chất, TP.HCM chỉ nên đi vào sản xuất các hóa chất cơ bản và hóa dược.
Đối với CN điện tử - công nghệ thông tin, chọn hướng phát triển công nghiệp phụ trợ là rất
khó vì thị trường quá nhỏ bé hiện nay sẽ làm cho sản phẩm khó có khả năng cạnh tranh, cho
nên hiệu quả nhất là TP.HCM nên tập trung nguồn lực để đi vào khâu thiết kế.
Để phát triển ba ngành CN mũi nhọn, từ nay đến 2010 TP.HCM cần nguồn vốn lên
đến 5-6 tỉ USD. Đây là con số không nhỏ, cần phải có những chính sách “siêu đặc biệt ưu
đãi” để giúp TP.HCM thu hút cho được nguồn vốn này các giải pháp như miễn giảm thuế,
hỗ trợ vốn đầu tư từ ngân sách và đổi đất lấy công trình CN. Cụ thể:

• Đối với các dự án đầu tư thuộc loại then chốt của ngành cơ khí chế tạo và hóa chất,
Nhà nước cần đóng vai trò là nhà đầu tư chính bằng vốn ngân sách, sau thời gian
13
hoạt động sẽ cổ phần hóa để thu hồi vốn; các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư cần
cho phép áp dụng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 10% trong bốn năm sản xuất đầu
tiên và được giảm 50% tiền thuế trong ba năm kế tiếp, trong một số trường hợp đặc
biệt còn cho phép TP được bù một phần thuế thu nhập doanh nghiệp từ ngân sách
TP
• Với các dự án CN cơ bản vừa cần vốn lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài, ngân sách
nhà nước phải đầu tư mới có được. Với các dự án khuyến khích đầu tư, cũng phải có
những chính sách hỗ trợ mới có thể thu hút nhanh được.
c) Đối với ngành nông nghiệp
Ngành nông nghiệp TPHCM cần chuyển sang nông nghiệp chất lượng cao, ứng dụng
thành tựu khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học trong sản xuất các loại giống
cây, giống con.
Ngoài việc chuyển dịch cơ cấu sang các loại cây, con mới phù hợp với đặc thù của
nông nghiệp đô thị, nông nghiệp sinh thái. Ngành trồng trọt cần chuyển dịch đúng hướng,
giảm diện tích trồng lúa, tăng diện tích trồng hoa, rau an toàn, cỏ chăn nuôi và cây công
nghiệp hằng năm.Đẩy mạnh Phát triển nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, ổn định và bền vững, tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, cơ cấu cây trồng vật nuôi, thủy sản. Phát triển mạnh các loại cây, con và nông sản
chủ lực theo hướng công nghệ cao.
Đồng thời xã hội hoá đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, đặc biệt trong lĩnh vực
giống, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Phải chú trọng ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học công nghệ mới, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ sinh học để chọn, tạo và sản
xuất các giống cây trồng sạch bệnh, năng suất cao, sản xuất chế phẩm sinh học phục vụ
nông nghiệp.
Tổ chức lại hệ thống khuyến nông theo hướng gắn liền người sản xuất - cán bộ khuyến
nông - nhà doanh nghiệp, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước về giống cây
trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản. Phát triển cơ giới hoá nông nghiệp cũng như hỗ trợ

nông dân thực hiện quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp và phát triển nông nghiệp đô thị.
Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn gồm hệ thống giao thông, thủy
lợi và phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, đầu tư hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản, nhất là
tập trung đầu tư chương trình giống để cung cấp đủ cây giống có năng suất cao, chất lượng
tốt.
14
Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình, dự án trọng điểm như khu Nông nghiệp công
nghệ cao, Trung tâm Giao dịch-triển lãm nông sản TP, Trung tâm Công nghệ sinh học, các
công trình phòng chống lụt bão, triều cường, xâm nhập mặn Và đưa vào khai thác hiệu
quả Trung tâm Quản lý, kiểm định giống vây trồng, vật nuôi, trạm Kiểm dịch thực vật nội
địa
Việc phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm phải được TP triển khai một
cách triệt để, trong đó tiếp tục đầu tư, tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình GAP đối
với cây rau, nuôi trồng thủy sản theo hướng nông sản sạch, chất lượng cao, chi phí thấp,
phát triển bền vững và tăng cường kiểm soát chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; kiểm
soát chặt chẽ việc sử dụng hoá chất, thuốc trừ sâu, các chất kháng sinh trong sản xuất, chế
biến nông thủy sản.
Đối với nuôi trồng thủy sản, tăng cường công tác quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng, áp
dụng khoa học cụng nghệ với phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường, đồng thời tăng
cường hệ thống cảnh baó, dự baó thiên tai và vây dựng đồng bộ hệ thống phòng chống dịch
gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản.
d) Phát triển ngành đi đôi với phát triển nguồn nhân lực và công nghệ
Ưu tiên và đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng nguồn nhân lực thuộc lĩnh vực sản xuất, các ngành mũi nhọn (công nghiệp điện tử,
sản xuất phần mềm, tin học và tự động hóa…); mở rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực
theo nhiều hình thức khác nhau, tập trung đào tạo công nhân tay nghề cao đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
TP cũng kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với các bộ,
ngành có liên quan xây dựng các chính sách hỗ trợ thành lập các trung tâm thông tin khoa
học và công nghệ hoặc khuyến khích hình thành các công ty xuất nhập khẩu công nghệ; đặc

biệt tập trung ở những ngành, lĩnh vực có nhu cầu lớn nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp
trong việc đầu tư đổi mới trang thiết bị; xây dựng các chính sách hỗ trợ cho các hoạt động
nghiên cứu, thiết kế chế tạo các thiết bị mới trong nước thay thế hàng nhập khẩu trên cơ sở
hợp đồng giữa doanh nghiệp (cơ quan, viện, trường) nghiên cứu công nghệ với các doanh
nghiệp có nhu cầu ứng dụng các nghiên cứu đó; sớm xây dựng cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa
hoạt động giáo dục tại các trường đại học với các hoạt động nghiên cứu công nghệ mới;
nghiên cứu xây dựng các chính sách hỗ trợ để khuyến khích phát triển các dịch vụ hỗ trợ về
15
sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, chính sách thúc đẩy phát triển các loại hình chợ công
nghệ để tiến tới hình thành các trung tâm giao dịch công nghệ tại các vùng kinh tế lớn.
Kết Luận
Với tiềm năng và nguồn lực thành phố đang có sẵn là một lợi thế trong việc phát
triển hiện nay. Tuy nhiên để đạt được những mục tiêu phát triển đề ra thì thành phố phải có
những giải pháp đúng đắn và những chiến lược có tầm chiến lược lâu dài. Để thực hiện tốt
các mục tiêu trên thì cần có sự góp sức chung tay đoàn kết của tất cả mọi người dân thành
phố, các doanh nghiệp và đặc biệt quan trọng là các cấp chính quyền phải phát huy tốt vai
trò của mình. Bên cạnh đó sự phát triển toàn diện không chỉ chú trọng vào sự tăng trưởng
kinh tế mà còn phải quan đến sự phát triển của xã hội. Sự phát triển kinh tế hiện nay đã nảy
sinh nhiều vấn đề nan giải cho thành phố mà còn cho cả sự phát triển của đất nước đó là
việc suy thoái đạo đức, mai một những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ô nhiễm môi
trường ,tệ nạn xã hội gia tăng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn …Vì vậy song song
với việc phát triển kinh tế thì cần phải có những biện pháp để khắc phục những mặt trái của
quá trình phát triển. Một điều quan trọng nữa là ý thức của người dân, thành phố sẽ không
thể phát triển bền vững được nếu người dân không có ý thức cộng đồng tốt, sự đoàn kết và ý
thức trách nhiệm cao sẽ là sức mạnh vô cùng to lớn giúp thành phố thực hiên được những
mục tiêu phát triển của mình./.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- TS Đinh Phi Hổ(chủ biên),2006,Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiễn, Nxb Thống Kê
- Niên giám thống kê

- GS-TS.Vũ Thị Ngọc Phụng,2005,Giáo trình Kinh tế phát triển,trường đại học Kinh Tế
Quốc Dân,Nxb Lao động-Xã hội
- Website: sggp.org.vn
thoibaokinhtesaigon.vn
dantri.vn
vietbao.vn
tapchikinhtedubao.mpi.gov.vn
17

×