1. Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển toàn diện kinh tế - xà hội nông thôn là một chủ trơng mang
tính chiến lợc của Đảng và Nhà nớc trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nớc. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nớc ta đà thi hành
hàng loạt các chính sách cải cách nền kinh tế, đà tạo ra một luồng sinh khí
mới trên mọi mặt của đất nớc và đặc biệt là tạo ra những chuyển biến hết sức
căn bản trong sản xuất nông nghiệp ở nớc ta.
Từ sau Nghị quyết 10/NQ-TW của Bộ Chính trị (4/1988) về đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp, quan hệ sản xuất trong nông nghiệp nớc ta đợc
điều chỉnh một bớc. Song phải kể đến Nghị quyết VI của Ban Chấp hành
Trung ơng (khoá VI - 3/1989) hộ gia đình xà viên mới đợc xác định là đơn
vị kinh tế tự chủ, cùng một số chính sách kinh tế mới đợc ban hành, kinh tế
hộ nông dân nớc ta đà có những bớc phát triển đáng kể. Các chủ trơng,
chính sách của Đảng đà tạo ra khuôn khổ pháp lý và môi trờng cho sự hình
thành và phát triển một hình thức tổ chức sản xuất mới đó là các trang trại.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2003, cả nớc ta có khoảng
52.554 trang trại các loại, đà huy động đợc hơn 7.589,5 tỷ đồng từ các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng, đà thu hút hơn 443 nghìn lao động tham gia vào
các hoạt động sản xuất trong trang trại, khai thác và đa vào sử dụng
298.456,4 ha đất trống, đồi núi trọc, ao hồ và đất hoang hoá vào sản xuất,
hàng năm các trang trại trong cả nớc đà tạo ra đợc khối lợng nông sản
hàng hoá có giá trị hơn 894,7 tỷ đồng (chiếm 10% giá trị tổng sản phẩm của
các ngành nông, lâm, thuỷ sản), riêng giá trị hàng hoá chiếm 87% [15]. Điều
đó chứng tỏ rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại đà và đang
mang lại hiệu quả to lớn về kinh tế và xà hội cho đất nớc.
1
Với những u thế riêng có, kinh tế trang trại đà và đang từng bớc
khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc phát triển sản xuất hàng
hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh của
nông lâm sản trực tiếp góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hớng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nớc. Để kinh tế trang trại phát triển, đạt hiệu quả cao trên cả phơng diện
kinh tế và xà hội, thì cần thiết phải có những nghiên cứu để tìm lời giải đáp
cho nhiều vấn đề đang đặt ra, tháo gỡ nhiều khó khăn đang gặp phải ở cả tầm
vĩ mô và vi mô liên quan đến phát triển kinh tế trang trại nh các vấn đề về
nhận thức, cơ chế chính sách, các giải pháp cụ thể nh đất đai, vốn, lao động,
khoa học công nghệ Nhằm đảm bảo cho kinh tế trang trại thực sự trở thành
loại hình kinh tế năng động, phát triển một cách mạnh mẽ, ổn định và lâu bền.
Lạc Thuỷ là huyện miền núi nằm phía Đông Nam của tỉnh Hoà Bình.
Trong thời gian qua, thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng các trang trại ở
đây đà bớc đầu hình thành và phát triển. Vấn đề phát triển kinh tế trang
trại đang đợc các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và các ban ngành
của huyện quan tâm. Trong khi đó, cho đến nay cha có công trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ về tình hình phát triển kinh tế
trang trại, cũng nh việc khai thác các tiềm năng của huyện để phát triển
kinh tế trang trại.
Vậy đặc điểm kinh tế trang trại tại huyện Lạc Thuỷ nh thế nào? Thực
trạng kinh tế trang trại tại đây phát triển ra sao? Những giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại tại địa phơng là gì? Đó là những
vấn đề đặt ra cần đợc nghiên cứu và giải đáp.
Nhằm góp phần đánh giá thực trạng, giải quyết khó khăn, khắc phục tồn
tại và thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài:
Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại
tại huyện Lạc Thuỷ - tỉnh Hoà Bình.
2
1.2. Mơc tiªu nghiªn cøu
1.2.1. Mơc tiªu chung
Nghiªn cøu thùc trạng tình hình phát triển kinh tế trang trại tại huyện
Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình làm cơ sở đề xuất một số giải pháp góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế trang trại tại địa phơng.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế
trang trại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế trang trại tại
huyện Lạc Thuỷ, nêu những thành công, tồn tại và nguyên nhân. Đánh giá
những tiềm năng và hạn chế đối với phát triển kinh tế trang trại tại địa phơng.
- Đề xuất phơng hớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
kinh tế trang trại tại huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình.
1.3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tợng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại. Đối
tợng nghiên cứu trực tiếp là các trang trại trên địa bàn huyện Lạc Thuỷ và
những yếu tố cơ bản liên quan đến phát triển kinh tế trang trại.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu các khía cạnh
kinh tế - xà hội bao gồm các yếu tố sản xuất chủ yếu, các kết quả và hiệu quả
kinh tế của các loại hình trang trại cũng nh sự tác động của các yếu tố sản
xuất chính. Từ đó phát hiện những thuận lợi, khó khăn có liên quan đến phát
triển kinh tế trang trại tại huyện Lạc Thuỷ làm cơ sở đề xuất một số giải pháp
nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa phơng.
- Địa điểm nghiên cứu: đề tài nghiên cứu 29 trang trại trên địa bàn
huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình.
- Thời gian nghiên cứu: số liệu chung của huyện từ năm 2000 đến 2002.
- Số liệu điều tra trang trại: năm 2002.
3
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển
kinh tế trang trại
2.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế trang trại
2.1.1 Khái niệm phát triển kinh tế
ã Phát triển
Theo từ điển tiếng Việt thì phát triển là: Biến đổi hoặc làm cho biến đổi
từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp [20].
Theo từ điển Larousse, phát triển là một quá trình, là tổng hòa những hiện
tợng đợc quan niệm nh một chuỗi nhân quả kế tiếp nhau diễn tiến [24].
Phát triển là kết quả của những thay đổi về giá trị, gắn với các thay đổi
trong các hoạt động kinh tế và xà hội có liên quan đến tăng cờng sản xuất và
nâng cao chất lợng cuộc sống.
ã Tăng trởng và phát triển kinh tế
Tuy có những khía cạnh kh¸c nhau trong quan niƯm, nh−ng nãi chung,
sù tiÕn bé trong một giai đoạn nào đó của một đất nớc thờng đợc đánh giá
trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xà hội [18].
Trên thực tế tăng trởng và phát triển là hai thuật ngữ đợc dùng để
phản ánh hai mặt của sự tiến bộ đó. Tăng trởng và phát triển đôi khi đợc
dùng thay thế lẫn nhau, nhng giữa chúng có sự khác biệt nhau căn bản.
- Tăng trởng kinh tế
Tăng trởng kinh tế thờng đợc quan niệm là sự tăng thêm (hay gia
tăng) về quy mô sản lợng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là
kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do
vậy, để biểu thị sự tăng trởng kinh tế, ngời ta dùng mức tăng thêm của tổng
sản lợng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân theo đầu ngời) của
thời kỳ sau so với thời kỳ trớc. Nh vậy, tăng trởng kinh tế đợc xem xét
4
trên hai mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%)
hàng năm, hoặc bình quân trong mỗi giai đoạn.
Sự tăng trởng đợc so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai
đoạn nhất định sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trởng. Đó là sự tăng thêm sản
lợng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
- Phát triển kinh tế
Trớc hết sự phát triển bao gồm cả sự tăng thêm về khối lợng của cải
vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xà hội.
Tăng thêm qui mô sản lợng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xà hội là hai mặt có
mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tơng đối của lợng và chất. Sự phát
triển là một quá trình tiến hoá theo thời gian do những nhân tố nội tại của bản
thân nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là ngời dân quốc gia đó phải là những
thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế của đất nớc. Kết quả của
sự phát triển kinh tế - xà hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan,
còn mục tiêu phát triển kinh tế - xà hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết
quả đó. Tăng thêm về quy mô sản lợng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xà hội là
hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tơng đối của lợng và chất.
Có thể hiểu phát triển kinh tế là quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi
mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng
thêm về quy mô sản lợng (tăng trởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xÃ
hội. Cho nên phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một sự chuyển
biến của nền kinh tế từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn [18].
2.1.2 Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại
ã Khái niệm về trang trại
Trang trại là loại hình sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình nông
dân, hình thành và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trờng từ khi phơng
thức sản xuất t bản thay thế phơng thức sản xuất phong kiến, khi bắt đầu
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở một số nớc châu Âu [4].
5
Theo quan điểm của một số tác giả khi nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển kinh tế trang trại gia đình trên thế giới cho rằng: các trang trại đợc
hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông sau khi phá vỡ vỏ bọc sản xuất tự cấp tự
túc vơn lên sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trờng trong điều kiện cạnh
tranh. Tuy nhiên về khái niệm trang trại còn có các quan điểm khác nhau sau:
Xuất phát từ quan điểm của Lênin: ấp trại tuy vẫn là nhỏ nếu tính theo
diện tích, nhng lại hoá thành ấp trại lớn nếu xét về quy mô sản xuất, ở khái
niệm này đà đề cập đến quy mô sản xuất và có thể hiểu là quy mô diện tích
hoặc quy mô thu nhập.
Theo từ điển tiếng Việt năm 1998 của nhà xuất bản Đà Nẵng thì trang
trại đợc hiểu một cách khái quát là: Trại lớn sản xuất nông nghiệp [20].
Theo Nguyễn Thế Nhà Trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất cơ
sở trong nông, lâm, thuỷ sản, có mục đích chính là sản xuất hàng hoá, có t
liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một chủ độc lập,
sản xuất đợc tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tiến bộ
và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trờng [12].
Nguyễn Phợng Vỹ lại cho rằng: Trang trại là một hình thức tổ chức
kinh tế trong nông, lâm, ng nghiệp phổ biến đợc hình thành trên cơ sở kinh
tế hộ nhng mang tính sản xuất hàng hóa [23].
Trong Nghị quyết TW số 06/NQ-TW ngày 10/11/1998 cũng đà xác
định: ...trang trại gia đình thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy
mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất
kinh doanh có hiệu quả [7].
Cần phân biệt khái niệm trang trại và kinh tế trang trại: Kinh tế trang
trại là tổng thể các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế nảy
sinh trong hoạt động của trang trại, còn trang trại là nơi diễn ra các hoạt động
và các quan hệ đó. Nghiên cứu về kinh tế trang trại là đề cập tới các mặt kinh
tế, xà hội và môi trờng của một mô hình sản xuất trong nông nghiệp, trong
6
đó kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại. Về
mặt xà hội, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở của xà hội, trong
đó có các mối quan hệ xà hội đan xen nhau. Về mặt môi trờng, trang trại là
một không gian sinh thái, ở đây thờng xuyên diễn ra các quan hệ sinh thái đa
dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan hệ chặt chẽ và ảnh hởng qua lại
trực tiếp với hệ sinh thái của vùng. Xét về phơng diện kinh tế, khái niệm
trang trại phải thể hiện đợc những nội dung bản chất về kinh tế, tổ chức và kĩ
thuật sản xuất của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trờng.
Trớc hết, trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ng nghiệp.
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực
tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xà hội, bao gồm nông,
lâm, thuỷ sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại là quá trình khép kín
với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trong nông, lâm,
ng nghiệp ngoài trang trại ra còn có những hình thức tổ chức sản xuất khác
nh nông, lâm trờng quốc doanh, kinh tế hộ nông dân.
Là một hình thức tổ chức sản xuất, trang trại không phải là một thành
phần kinh tế và theo cách phân định thành phần kinh tế nh hiện nay thì các
chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh
nông nghiệp đều có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại
nếu có đủ điều kiện.
Theo quan điểm của Lê Trọng, có thể hiểu khái niệm kinh tÕ trang tr¹i
nh− sau: “Kinh tÕ trang tr¹i (hay kinh tế nông trại, lâm trại, ng trại) là
một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xà hội, dựa trên cơ sở
hiệp tác và phân công lao động xà hội, bao gồm một số ngời lao động nhất
định, đợc chủ trang trại tổ chức trang bị những t liệu sản xuất nhất định để
7
tiến hành hoạt động kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị
trờng và đợc Nhà nớc bảo hộ [16].
Năm 2000 Chính phủ đà ban hành Nghị quyết số 03/2000 ngày
02/02/2000 về kinh tế trang trại, trong ®ã ®· ®−a ra quan ®iĨm vỊ kinh tÕ trang
tr¹i nh sau: Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô
và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ
sản [11].
Từ những nhận thức nêu trên và trên cơ së nghiªn cøu kinh nghiƯm cđa
thÕ giíi cịng nh− thùc tiễn kinh tế trang trại ở nớc ta, khái niệm trang trại về
mặt kinh tế có thể hiểu nh sau: Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất
cơ sở trong nông, lâm, ng nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá,
t liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một ngời chủ
độc lập, sản xuất đợc tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất
đợc tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ
thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trờng [9].
ã Các đặc trng chủ yếu của kinh tế trang trại
Theo Thông t số 74/2003/TT-BNN, ngày 04 tháng 7 năm 2003 sửa
đổi, bổ sung mục III của Thông t liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN - TCTK
ngày 23/6/2000 thì kinh tế trang trại có 3 đặc trng chủ yếu sau đây [2]:
+ Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng
hoá với quy mô lớn.
+ Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản
xuất cao hơn hẳn (vợt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản
xuất nh đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông-lâm-thuỷ sản hàng hoá.
+ Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản
xuất, biết áp dông tiÕn bé khoa häc - kü thuËt, tiÕp nhËn chun giao c«ng
8
nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài
sản xuất hiệu quả cao, cã thu nhËp v−ỵt tréi so víi kinh tÕ hộ.
ã Các tiêu chí nhận dạng trang trại [2].
Để xác định một đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở trong nông nghiệp có
phải là trang trại hay không, thì phải có tiêu chí để nhận dạng có căn cứ khoa
học. Trớc đây đà có những quy định khác về tiêu chí nhận dạng trang trại.
Hiện nay các tiêu chí nhận dạng trang trại đợc căn cứ theo Thông t liên tịch
số 74/2003/TT-BNN, ngày 04 tháng 7 năm 2003 hớng dẫn tiêu chí định
lợng để xác định kinh tế trang trại. Theo các Thông t đà nêu trên, một hộ
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản đợc xác định là trang
trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lợng hàng hoá, dịch vụ bình
quân 1 năm hoặc về quy mô sản xuất của trang trại.
Đối với hộ sản xuất, kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm hàng
hoá của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản thì tiêu chí để xác định trang
trại là giá trị sản lợng hàng hoá, dịch vụ bình quân 1 năm, cụ thể nh sau:
(1)- Giá trị sản lợng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải miền Trung từ 40 triệu đồng
trở lên;
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên
(2)- Quy mô sản xuất phải tơng đối lớn và vợt trội so với kinh tế nông hộ
tơng ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
(a)- Đối với trang trại trồng trọt
- Trang trại trồng cây hàng năm:
+ Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải miền Trung.
+ Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
- Trang trại trồng cây lâu năm:
+ Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải miền Trung.
+ Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
9
+ Trang trại trồng hồ tiêu 0,5 ha trở lên.
- Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nớc
(b)- Đối với trang trại chăn nuôi
- Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò...
+ Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thờng xuyên từ 10 con trở lên.
+ Chăn nuôi lấy thịt có thờng xuyên từ 50 con trở lên.
- Chăn nuôi gia súc: lợn, dê...
+ Chăn nuôi sinh sản có thờng xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối
với dê, cừu từ 100 con trở lên.
+ Chăn nuôi lợn thịt có thờng xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn
sữa), dê thịt từ 200 con trở lên;
- Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng,... có thờng xuyên từ 2000
con trở lên (không tính số đầu con dới 7 ngày tuổi).
(c)- Trang trại nuôi trồng thuỷ sản
Diện tích mặt nớc để nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối
với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
(d)- Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có
tính chất đặc thù nh trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thuỷ sản
và thuỷ đặc sản, thì tiêu chí xác định là giá trị sản lợng hàng hoá (tiêu chí 1).
2.1.3 Một số vấn đề về phát triển kinh tế trang trại
ã Vai trò của kinh tế trang trại
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất quan trọng trong nỊn n«ng
nghiƯp thÕ giíi. ë n−íc ta, kinh tÕ trang trại (mà chủ yếu là trang trại gia
đình) mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây, song vai trò tích cực và
tầm quan trọng của kinh tế trang trại đà thể hiện rõ nét cả về mặt kinh tế cũng
nh về mặt xà hội và môi trờng.
- Về mặt kinh tế: các trang trại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao, khắc phục dần
10
tình trạng sản xuất phân tán, manh mún, tạo nên những vùng chuyên môn hoá,
tập trung hàng hoá và thâm canh cao. Mặt khác qua việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, trang trại góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, đặc biệt là công
nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn. Thực tế cho thấy việc phát
triển kinh tế trang trại ở những nơi có điều kiện bao giờ cũng đi liền với việc
khai thác và sử dụng một cách đầy đủ và hiệu quả các ngn lùc trong n«ng
nghiƯp, n«ng th«n so víi kinh tÕ nông hộ. Do vậy, phát triển kinh tế trang trại
góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trởng và phát triển của nông nghiệp và
kinh tế nông thôn [9].
- Về mặt xà hội: phát triển kinh tế trang trại có vai trò quan trọng trong
việc làm tăng số hộ giàu trong nông thôn, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập
cho ngời lao động. Điều này rất có ý nghĩa trong việc giải quyết vấn đề lao
động và việc làm là một trong những vấn đề bức xúc của nông nghiệp, nông
thôn nớc ta hiện nay. Mặt khác phát triển kinh tế trang trại còn góp phần thúc
đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn và tạo tấm gơng cho các hộ
nông dân về cách tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh... Do đó, phát triển
kinh tế trang trại đà góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xà hội và
đổi mới bộ mặt xà hội nông thôn nớc ta.
- Về mặt môi trờng: do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết
thực, lâu dài của mình mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lý và
quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trờng, trớc hết là trong phạm vi không gian
sinh thái trang trại và trong phạm vi từng vùng. Các trang trại ở trung du, miền
núi đà góp phần quan trọng vào việc trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc
và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất. Những việc làm này đà góp phần tích cực
cải tạo và bảo vệ môi trờng sinh thái trên các vùng của đất nớc.
ã Xu hớng phát triển của kinh tế trang trại
Các trang trại đà đợc hình thành và sẽ phát triển theo những xu h−íng
chđ u sau:
11
- Tích tụ và tập trung sản xuất.
Sau khi hình thành, nhìn chung các trang trại vẫn diễn ra quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất. Tuy nhiên tính chất tích tụ và tập trung này không hoàn
toàn giống nh tích tụ và tập trung các yếu tố sản xuất của nông hộ để hình
thành trang trại. Tích tụ và tập trung trong phát triển trang trại lúc này là nhằm
mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đứng vững
và phát triển trong cơ chế thị trờng. Tích tụ và tập trung trong các trang trại
chủ yếu là tích tụ vốn và ở những nơi có điều kiện bao gồm cả việc tập trung
ruộng đất. Tích tụ vốn thực chất là làm tăng vốn tự có của trang trại để đầu t
mở rộng sản xuất, chủ yếu đầu t cho chiều sâu tức là đầu t cho thâm canh,
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
- Chuyên môn hoá sản xuất.
Sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá là xu hớng tất yếu trong
phát triển trang trại vì muốn sản xuất hàng hoá phải đi vào chuyên môn hoá
sản xuất, nhng do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mà sản xuất chuyên
môn hoá trong các trang trại phải kết hợp với sản xuất đa dạng một cách hợp
lý để có thể khai thác có hiệu quả các nguồn lực ®Êt ®ai, c¬ së vËt chÊt - kü
thuËt, lao ®éng, đồng thời hạn chế rủi ro về thiên tai và biến động của thị
trờng. Xu hớng sản xuất chuyên môn hoá của trang trại thể hiện ở chỗ:
+ Trên cơ sở phân vùng quy hoạch của cả nớc, của từng vùng và địa
phơng, các trang trại bố trí sản xuất một số sản phẩm hàng hoá chính có giá
trị phù hợp với yêu cầu của thị trờng và với điều kiện sản xuất của mình.
+ Dựa vào một số sản phẩm chính mà kết hợp sản xuất một số loại sản
phẩm bổ sung để hỗ trợ cho sản phẩm chính, đồng thời để sử dụng đầy đủ các
điều kiện đất đai, lao động và t liệu sản xuất của trang trại.
Phát triển theo hớng trên sẽ xuất hiện nhiều trang trại chuyên môn hoá
sản xuất có hiệu quả cao nh các trang trại chuyên môn hoá cà phê, cây ăn
quả, chè, rau cao cấp, thuỷ sản, chăn nuôi bò sữa, gia cầm, lợn...
12
- Nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh hoá sản xuất.
Xu hớng nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất trong các
trang trại là xu hớng tất yếu và gắn liền với việc nâng cao năng suất lao động,
năng suất cây trồng, vật nuôi. Để thực hiện điều đó các trang trại phải đầu t xây
dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho từng trang trại phù hợp với sự phát
triển khoa học của vùng dựa trên sự hỗ trợ nhất định của Nhà nớc trong vấn đề
xây dựng công trình nông thôn, nghiên cứu và phổ biến kỹ thuật thâm canh.
- Hợp tác và cạnh tranh.
Các trang trại muốn sản xuất hàng hoá phải hợp tác và liên kết với nhau
và với những đơn vị, tổ chức khác. Hợp tác để giúp nhau giải quyết tốt hơn
những vấn đề sản xuất kinh doanh nh thuỷ nông, bảo vệ thực vật, thơng mại
dịch vụ. Đi đôi với việc hợp tác, các trang trại phải cạnh tranh với các tổ chức
và đơn vị khác để tiêu thụ sản phẩm, tái sản xuất mở rộng... [9].
ã Các loại hình trang trại
Có nhiều cách phân loại trang trại khác nhau, đối với trang trại tuỳ theo
tiêu thức sử dụng để phân loại và tùy vào đặc điểm, điều kiện cụ thể ở từng
nớc và từng vùng. Sau đây có một số cách phân loại trang trại chủ yếu sau:
- Phân loại trang trại theo hình thức tổ chức quản lý [9].
+ Trang trại gia đình: Là kiểu trang trại độc lập sản xuất kinh doanh của
từng gia đình có t cách pháp nhân riêng, do chủ hộ hoặc một ngời có năng
lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý. Trang trại này có thể là của một
hộ gia đình nhng cũng có thể là của một số gia đình cùng quản lý. Đây là
loại trang trại phổ biến nhất trên thế giới hiện nay.
+ Trang trại liên doanh: là kiểu trang trại đợc thành lập trên cơ sở tự
nguyện hợp nhất từ một số trang trại nhỏ với t cách pháp nhân mới nhằm
tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trớc các đối thủ để tranh thủ
các chính sách u đÃi của Chính phủ đối với các trang trại có quy mô lớn,
nhng vẫn giữ nguyên quyền tự chủ điều hành sản xuất của từng trang trại cũ.
13
ở Mỹ loại trang trại này chiếm khoảng 10% tổng số trang trại nhng ở châu
á thì hầu nh rất ít do quy mô còn nhỏ.
+ Trang trại hợp danh theo cổ phần: là kiểu trang trại đợc tổ chức theo
nguyên tắc một công ty cổ phần, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến,
tiêu thụ nông sản. ở Mỹ loại hình này chiếm 2,7% tổng số trang trại hiện nay.
- Phân loại trang trại theo mức độ sở hữu t liệu sản xuất.
+ Chủ trang trại sở hữu toàn bộ t liệu sản xuất.
+ Chủ trang trại sở hữu một phần t liệu sản xuất, một phần đi thuê.
+ Chủ trang trại không có t liệu sản xuất mà đi thuê ngoài toàn bộ.
- Phân loại trang trại theo phơng thức điều hành sản xuất.
+ Chủ trang trại và gia đình ở ngay trong trang trại và trực tiếp điều
hành cũng nh trực tiếp lao động sản xuất. Đây là loại trang trại phổ biến nhất
ở các nớc và chủ trang trại hầu hết là nông dân.
+ Chủ trang trại và gia đình không ở nông thôn, không ở trang trại mà ở
một nơi khác (thị trấn, thành phố) nhng vẫn trực tiếp điều hành, quản lý
trang trại. Loại hình này có chiều hớng phát triển ở một số nớc công nghiệp
phát triển.
+ Chủ trang trại sống ở thành phố thuê ngời khác trực tiếp quản lý điều
hành trang trại ở nông thôn.
+ Chủ trang trại uỷ thác cho chủ khai thác là bà con, bạn bè quản lý sản
xuất, từng công việc, toàn bộ công việc, từng vụ hay liên tục nhiều năm. ở Đài
Loan đến nay có khoảng 75% số chủ trang trại gia đình đà áp dụng phơng
thức sản xuất uỷ thác [5].
- Phân loại trang trại theo cơ cấu sản xuất
+ Trang trại có cơ cấu sản xuất theo hớng phát triển kinh doanh tổng
hợp nhiều sản phẩm trong đó có sản phẩm chủ yếu.
+ Trang trại có cơ cấu sản xuất theo hớng chuyên môn hoá một loại
14
sản phẩm.
+ Trang trại sản xuất để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
hoặc kết hợp sản xuất với chế biến nông sản.
- Phân loại trang trại theo cơ cấu thu nhập [5].
+ Trang trại thuần nông là những trang trại có nguồn thu nhập hoàn toàn
hay phần lớn từ nông nghiệp. Số trang trại này ở các nớc phát triển đang giảm.
+ Trang trại thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp, ngoài trang trại
(trang trại kiêm nghiệp). Loại trang trại này có xu hớng ngày càng tăng ở các
nớc trên thế giới thậm chí ở một số nớc có tỷ lệ cao hơn trang trại thuần
nông. Ví dụ: ở Nhật Bản năm 1985 số trang trại kiêm nghiệp chiếm 85%
trong đó 66% số trang trại có thu nhập ngoài nông nghiệp lớn hơn thu nhập từ
nông nghiệp.
- Phân loại trang trại theo quy mô diện tích đất đai
Cách phân loại này thờng hay áp dụng với các trang trại sản xuất trồng
trọt hoặc trồng rừng, còn chăn nuôi và các ngành nghề khác không nên sử
dụng nó để làm tiêu thức bởi vì chăn nuôi hoặc các ngành nghề khác có thể rất
nhỏ về quy mô đất ®ai, nh−ng l¹i cã thĨ t¹o ra thu nhËp cao hơn so với các
trang trại lớn chuyên trồng trọt hoặc trồng rừng.
2.1.4. Chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc về vấn đề phát triển
kinh tế trang trại
Sự phát triển của kinh tế trang trại trong những năm gần đây là bớc đột
phá trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hớng: hiện
đại hoá nông nghiệp, văn minh hoá nông thôn, tri thức hoá nông dân. Kinh tế
trang trại phát triển cũng góp phần tích cực thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất nông lâm
nghiệp, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xà hội ở nông thôn nói chung và nhiều địa
phơng thuộc các tỉnh miền núi trung du phía Bắc nói riêng (trong đó có tỉnh
Hoà Bình), đà thực sự đem lại sự giàu có và cải thiện nâng cao đời sống cho
nhiều hộ gia đình, góp phần thực hiện thành công chơng trình xoá ®ãi gi¶m
15
nghèo. Những hình thức, bớc đi và sự phát triển của kinh tế trang trại phụ thuộc
rất nhiều vào chủ trơng, đờng lối và chính sách của Đảng và Nhà nớc.
ã Các quan điểm và định hớng của Đảng về phát triển kinh tế trang trại
- Chỉ thị 100- CT/TW của Ban Chấp hành Trung ơng khoá IV. Chỉ thị
đợc thông qua vào tháng 12 năm 1980 đà đa ra chủ trơng cải tiến, hoàn
thiện và mở rộng khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và ngời lao động
trong nông nghiệp, đà tạo ra tiền đề cho việc xác định quyền tự chủ về sức lao
động và phát huy tính năng động sáng tạo trong lao động sản xuất của nhóm
và hộ nông dân.
- Nghị quyết 10 - NQ/TW của Bộ Chính trị đợc ban hành tháng 4/1988
về "đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp". Nghị quyết khẳng định sự thừa
nhận và bảo hộ bằng pháp luật đối với các quyền về sử dụng đất đai, quyền sở
hữu và sử dụng vốn, lao động một cách năng động, các hộ và t nhân kinh
doanh trong nông, lâm ng nghiệp còn có quyền hợp pháp trong việc tích tụ
các yếu tố sản xuất vợt xa nhu cầu tái sản xuất giản đơn, vơn lên sản xuất
hàng hoá, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại sau này.
- Nghị quyết số 05 - NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng
khoá VII tháng 6/ 1993. Hội nghị đà đề ra chủ trơng khuyến khích xây dựng
các nông trại: Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu t phát triển các
loại giống mới có hiệu quả kinh tế cao; khai thác đồi núi trọc, bÃi bồi ven
biển, nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt ngoài khơi; xây dựng các nông - lâm - ng
trại với quy mô thích hợp[1].
- Trong Nghị quyết hội nghị TW4 khoá VIII, phơng hớng khuyến
khích kinh tế trang trại đà đợc xác định rõ thêm: Kinh tế trang trại với các
hình thức sở hữu khác nhau (Nhà nớc, tập thể, t nhân) đợc phát triển chủ
yếu để trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những nơi có nhiều ruộng
đất; khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích này [1].
- Nghị quyết số 6 - NQ/TW của Bộ Chính trị khoá VIII ngày 10/11/1998
16
về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn". Hội nghị nêu ra một
số thành tựu, khuyết điểm và khẳng định vị trí rất quan trọng của nông nghiệp
nông thôn nớc ta. Hội nghị đà khẳng định khuyến khích mọi đối tợng bỏ
vốn đầu t phát triển sản xuất kinh doanh, trong đó có phát triển trang trại.
ã Một số chính sách của Nhà nớc đối với phát triển kinh tế trang trại
Các chủ trơng, đờng lối của Đảng về phát triển kinh tế - xà hội, trong
đó có lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đà đợc thể chế hoá trong các văn bản
pháp qui của Nhà nớc, đà tạo ra tiền đề hết sức quan trọng trong việc hình
thành và phát triển kinh tế trang trại ở nớc ta. Những văn bản pháp qui quan
trọng đối với sự ra đời và phát triển kinh tế trang trại bao gồm:
- Luật đất đai ra đời năm 1993 và đợc sửa đổi năm 1998 đà qui định
những căn cứ pháp lý cơ bản cho việc quản lý, sử dụng đất đai, đà tạo ra hành
lang pháp lý quan trọng nhất để hình thành kinh tế trang trại ở nớc ta.
- Nghị định 64 - CP ngày 27/9/1993 Ban hành văn bản qui định cụ thể
của Nhà nớc về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
- Nghị định số 01 - CP ngày 04 tháng 1 năm 1995, đà ban hành các qui
định cụ thể về vấn đề giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp Nhà nớc.
- Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 1999 của Chính
phủ đà qui định, sửa đổi, bổ sung một số điều về giao đất nông nghiệp.
Những chính sách quan trọng trên đây đà tạo ra những cơ sở pháp lý hết
sức quan trọng cho việc hình thành t liệu sản xuất cơ bản nhất của các trang
trại, tạo ra pháp lý về quyền sử dụng đất đai cho các trang trại. Nhờ có những
chính sách này, tại các địa phơng, nhân dân rất phấn khởi nhận đất, yên tâm
canh tác, đầu t vốn, công sức để phát triển sản xuất trên mảnh đất của mình.
Trong quá trình sản xuất đà hình thành hình thức tổ chức sản xuất mới là các
trang trại. Do vậy để phát triển kinh tế trang trại Nhà nớc cần có những chính
sách riêng về kinh tế trang tr¹i.
17
- Nghị quyết 03/2000 ngày 02 tháng 2 năm 2000 của Chính phủ về kinh
tế trang trại đà nêu rõ quan điểm và các chính sách của Nhà nớc nhằm
khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Theo Nghị quyết này, Nhà nớc
khuyến khích, bảo hộ và thực hiện nhất quán chính sách khuyến khích phát
triển kinh tế trang trại, đồng thời tăng cờng công tác quản lý để các trang trại
phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững.
Sau Nghị quyết 03 của Chính phủ, các Bộ, Ngành Trung ơng đà ban
hành các văn bản hớng dẫn thực hiện trên các mặt sau:
- Thông t liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN - TCTK ngày 23 tháng 6
năm 2000 của Bộ Nông nghiệp và PTNT và Tổng cục Thống kê đà đa ra
những tiêu chí để xác định kinh tế trang trại.
- Thông t số 61/2000/TT -BNN/KH ngày 06 tháng 6 năm 2000 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đà đa ra các hớng dẫn về việc lập kế
hoạch phát triển kinh tế trang trại.
- Thông t số 74/2003/TT-BNN, ngày 04 tháng 7 năm 2003 sửa đổi, bổ
sung mục III của Thông t liên tịch 69/2000/TTLT/BNN-TCTK.
Những chính sách này đà thổi một luồng gió mới vào lĩnh vực nông
nghiệp nông thôn, đà tạo ra một trào lu mạnh mẽ về phát triển kinh tế trang
trại trên mọi miền của đất nớc, đà huy động đợc đông đảo mọi tầng lớp dân
c đầu t, bỏ vốn, sức lao động và trí tuệ để phát triển kinh tế trang trại.
2.2. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở một số nớc và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
2.2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Các nhà nghiên cứu cho rằng, trang trại gia đình là loại hình sản xuất
nông lâm nghiệp của các hộ gia đình nông dân, đợc hình thành và phát triển
trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng Từ khi phơng thức sản xuất t bản
thay thế phơng thức sản xuất phong kiến, từ khi bắt đầu cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất ở một số nớc châu Âu [5].
Từ đó đến nay mặc dầu phải đối phó với sức ép của các thế lực cạnh
18
tranh trên thị trờng, nhng các trang trại gia đình ở hầu khắp các nớc và các
khu vực trên thế giới đều tồn tại và mở rộng sản xuất kinh doanh. Thực tế hàng
trăm năm qua đà chứng minh quan niệm sai lầm cho rằng: trong nền kinh tế
hàng hoá, nông nghiệp cũng phải đợc xây dựng các xí nghiệp tập trung quy
mô lớn nh các xí nghiệp công nghiệp, nhằm làm phá sản các trang trại gia
đình phân tán hy vọng sẽ tạo ra nhiều nông sản với giá rẻ hơn sản xuất gia
đình. Các Mác cũng đà tiên ®o¸n cïng víi sù ph¸t triĨn cđa chđ nghÜa t− bản sẽ
dẫn đến sự phân hoá các hộ nông dân ra hai thái cực. Nhng đến tác phẩm cuối
cùng của mình Mác viết: ngay ở nớc Anh với nền công nghiệp phát triển,
hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp quy mô
lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê [5].
Chayanov cũng cho rằng: nông trại nông dân rất ổn định, chỉ thay đổi
có tính chu kỳ theo chu kỳ sinh học của gia đình nông dân [19]. Trong quá
trình phát triển kinh tế trang trại gia đình ở các nớc trên thế giới đà diễn ra sự
biến động cả về số lợng và qui mô trang trại theo những chiều hớng không
giống nhau. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khả năng thu hút lao động
ra khỏi nông nghiệp, khả năng khai thác đất mới, khả năng thuê đất từ các chủ
đất Quá trình này có thể sơ bộ tóm lợc nh sau: khi xà hội có đủ những
điều kiện để chuyển từ hình thái tự cung, tự cấp sang hàng hoá thì các trang
trại bắt đầu cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động. Giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hoá lao động vẫn tiếp tục tăng, trang trại bị giảm
dần quy mô. Điều này đòi hỏi các chủ trang trại phải tăng đầu t lao động,
thực hiện thêm các ngành nghề phi nông nghiệp nhằm giải quyết việc làm và
nâng cao thu nhập. Khi đà có nền nông nghiệp phát triển đủ mạnh, sức hút lao
động vợt quá tốc độ tăng lao động ở nông thôn thì trang trại mới có điều kiện
mở rộng quy mô. Việc rút lao động ra khỏi nông nghiệp cho phép và đòi hỏi
các trang trại phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật thay thế lao động (cơ giới
hoá). Đối với các nớc đông dân, đất ít, quá trình tăng quy mô trang trại
19
th−êng chËm h¬n. Theo kinh nghiƯm cđa mét sè n−íc trên thế giới cho thấy,
muốn nền nông nghiệp phát triển thì quy mô trang trại phải đợc tăng dần lên.
Vào nửa cuối thế kỷ XX, số lợng trang trại ở các nớc phát triển châu
á tăng 2,5% mỗi năm, trong khi ở các nớc công nghiệp phát triển ở châu Âu
giảm 2-3,5% năm [5]. Hiện nay trên thế giới có trên 300 triệu trang trại gia
đình đang đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của thế
giới. Điều này có thể đợc chứng minh qua một vài số liệu sau đây: ở Nhật
Bản với 4 triệu lao động (chiếm 3,7% dân số), các trang trại gia đình đà cung
cấp đủ lơng thực và thực phẩm cho 125 triệu ngời. ở Đài Loan, Hàn Quốc
kinh tế trang trại đà cung cấp đủ thực phẩm cho tiêu dùng trong nớc và xuất
khẩu. Malaixia có các trang trại trồng cây công nghiệp hàng năm xuất 4 triệu
tấn dầu cọ (75% sản lợng thế giới) [7].
Bảng 2.1: Quy mô bình quân trang trại của một số nớc (ha/trang trại)
Tên nớc
Năm 1950
Năm 1970
Năm 1990
Mỹ
86,00
151,00
185,00
Pháp
36,00
55,00
75,00
Nhật Bản
0,80
1,10
1,40
Hàn Quốc
0,86
0,94
1,20
Thái Lan
3,50
3,56
4,20
Nguồn: Đỗ Kim Chung, (1/2000), Thị trờng đất đai nông nghiệp ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp [3].
2.2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở một số nớc trên thế giới
Trên thế giới, kinh tế trang trại hình thành và phát triển cách đây hơn 2
thế kỷ và giữ vai trò quan träng trong nỊn kinh tÕ cđa c¸c qc gia. Tuy nhiên,
tuỳ theo điều kiện và đặc điểm của từng nớc mà số lợng và quy mô của các
trang trại cã sù kh¸c nhau:
20