Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Luận văn thạc sĩ sự tương tác thể loại trong tùy bút nguyễn tuân sau năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.56 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

NGUYỄN THỊ HỒNG THU

SỰ TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI
TRONG TÙY BÚT NGUYỄN TUÂN SAU NĂM 1945

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số

: 8220121

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Chu Lê Phƣơng


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp: “Sự tƣơng tác thể loại trong tùy bút
Nguyễn Tuân sau năm 1945” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được cơng bố trong
bất cứ cơng trình nào.

Bình Định, ngày 30 tháng 08 năm 2022
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Thu


LỜI CẢM ƠN


Lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, Phòng Sau
đại học trường Đại học Quy Nhơn và các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đã
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình học tập tại trường.
Với tình cảm sâu sắc, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến TS. Chu
Lê Phƣơng – người đã tận tình hướng dẫn, trợ giúp và động viên tơi trong
thời gian nghiên cứu để tơi hồn thành luận văn này.
Tơi cũng xin gửi lời tri ân tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp là những
người đã sát cánh cùng tôi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể
thực hiện tốt mọi cơng viêc.

Bình Định, ngày 30 tháng 08 năm 2022
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Thu


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Tổng quan đề tài nghiên cứu ..................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 10
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 10
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 11
6. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 11
Chƣơng 1: SỰ TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC VÀ TÙY
BÚT NGUYỄN TUÂN .................................................................................. 12
1.1. Sự tương tác thể loại trong văn học ...................................................... 12
1.1.1. Tương tác thể loại bắt nguồn từ đặc trưng của thể loại văn học .... 12

1.1.2. Tương tác thể loại trong văn học là hiện tượng đa dạng, đa chiều 15
1.2. Tùy bút Nguyễn Tuân ........................................................................... 17
1.2.2. Thể loại tùy bút .............................................................................. 17
1.2.3. Tùy bút trong sự nghiệp sáng tác Nguyễn Tuân ............................ 26
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 35
Chƣơng 2: BÚT KÝ VÀ DU KÝ TRONG TÙY BÚT NGUYỄN TUÂN
SAU NĂM 1945 ............................................................................................ 36
2.1. Bút ký trong tùy bút .............................................................................. 36
2.1.1. Ghi chép diễn biến chiến tranh, thực tế lao động của quần chúng 36
2.1.2. Ghi chép theo kiểu phỏng vấn nhanh, dẫn lời ................................ 41
2.1.3. Nhan đề mang tính sự kiện ............................................................. 45
2.1.4. Ngôn ngữ khảo tả ........................................................................... 46
2.2. Du ký trong tùy bút ............................................................................... 49
2.2.1. Hành trình qua mọi miền tổ quốc ................................................... 50


2.2.2. Con người “xê dịch”, điểm nhìn “xê dịch” .................................... 53
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 57
Chƣơng 3: TRUYỆN, THƠ TRONG TÙY BÚT NGUYỄN TUÂN SAU
NĂM 1945 ...................................................................................................... 58
3.1. Truyện trong tùy bút ............................................................................. 58
3.1.1. Câu chuyện về chiến tranh và thực tế xây dựng đất nước ............. 58
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ....................................................... 64
3.1.3. Giọng điệu kể chuyện ..................................................................... 69
3.2. Thơ trong tùy bút .................................................................................. 71
3.2.1. Hiện thực mang tính trữ tình, thơ mộng ......................................... 71
3.2.2. Con người duy cảm ........................................................................ 75
3.2.3. Nhạc điệu trong lời văn tùy bút ...................................................... 78
3.2.4. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh giàu chất thơ ................................. 81
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 85

KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ XX đến nay đã ghi nhận rất nhiều
thành tựu với nhiều tác phẩm trên đủ mọi thể loại. Trên lĩnh vực văn xuôi, tùy bút là
thể loại có đóng góp đáng kể. Rất nhiều tên tuổi lớn mà phần thành công hơn cả của
sự nghiệp sáng tác được khẳng định bằng tùy bút. Những trang tùy bút đặc sắc của
Thạch Lam, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn
Thi, Nguyễn Trung Thành, Bình Ngun Lộc, Băng Sơn... khơng chỉ mang tới cho
độc giả nhã thú văn chương mà còn góp phần vun bồi vốn tri thức phong phú về tự
nhiên, xã hội và nghệ thuật với nền thi pháp nghệ thuật chặt chẽ, đa dạng.
1.2. Nguyễn Tuân là một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp sáng
tác của ông trải ra trên hai chặng đường: Trước năm 1945 ông là một nhà văn lãng
mạn tiêu biểu và sau năm 1945 ông đứng trong đội ngũ những nhà văn gắn bó với
sự nghiệp cách mạng. Sáng tác của Nguyễn Tuân thuộc nhiểu thể loại: tùy bút,
truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, phóng sự, tự truyện, bút kí phê bình… Tuy
nhiên, Nguyễn Tn vẫn trội bật hơn cả ở thể loại tùy bút, khó có tác giả nào vượt
qua được. Hà Văn Đức đã khẳng định: “Có nhiều nhà văn viết tuỳ bút, nhưng hiếm
có một cây bút nào lại thuỷ chung gắn bó với nó suốt một đời sáng tác như Nguyễn
Tuân. Ông gắn với bó với thể loại tuỳ bút và tạo dựng được cho mình một phong
cách riêng ở thể loại này, bởi nó phù hợp với sở trường cũng như cá tính của ơng”
[8;140]. Nói như thế, nghĩa là tùy bút đã trở thành máu thịt, sở trường của Nguyễn
Tuân, Cho dù sau cách mạng tháng Tám, nhiều lần Nguyễn Tuân tuyên bố giã từ nó
nhưng rồi những đứa con tinh thần mà ông gọi là tiểu thuyết cũng vẫn quẩn quanh

với nghệ thuật của tùy bút. Chính sự nhập nhằng giữa suy nghĩ lý tính và cảm thức
lý tính về thể loại ấy đã góp phần làm nên sự tương tác thể loại trong tùy bút
Nguyễn Tuân sau năm 1945.
Từ năm 1945 đến 1975, trong bối cảnh chiến tranh vệ quốc khốc liệt, thể loại
ký trở thành một phương tiện gọn nhẹ, cơ động để văn chương có thể phản ánh kịp
thời những biến động của công cuộc chiến đấu và dựng xây của cả dân tộc. Các tiểu


2
loại ký thiên về tự sự như bút ký, ký sự, phóng sự phát triển mạnh. Là một thể loại
linh hoạt, đa năng, tùy bút cũng nhanh chóng thích nghi với u cầu mới của hồn
cảnh lịch sử. Cái tơi trữ tình trong tùy bút mang dáng dấp sử thi và mạch cảm xúc
trở nên đậm màu sắc lãng mạn. Nguyễn Tn với Đường vui, Tình chiến dịch,
Sơng Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi đã chính thức hịa vào cuộc sống đấu tranh cách
mạng và ngày càng hoàn thiện thể loại. Cùng với phong cách tùy bút đã được định
hình từ trước, sau năm 1945, tùy bút Nguyễn Tuân vẫn giữ được sự sắc sảo, điêu
luyện, tài hoa trong từng câu chữ. Khơng ít người nhận ra sự kết hợp tài tình giữa
nhiều thể loại văn chương trong các tác phẩm tùy bút ở giai đoạn này của ông.
1.3. Nguyễn Tuân là tác gia lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Ơng có nhiều tác
phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau với những giai đoạn sáng tác khác nhau được
đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Ông được giới nghiên cứu không chỉ ở Việt
Nam mà cả trên thế giới đánh giá rất cao và dành nhiều tình q mến. Việc tìm hiểu
về Nguyễn Tn sẽ góp phần đưa đến những kiến thức cần thiết trong quá trình
khám phá, khẳng định những tài năng nghệ thuật của ông và thêm tiếng nói xác lập
vị trí của ơng trong tiến trình văn học Việt Nam thế kỷ XX. Từ đó, đề tài về Nguyễn
Tuân có thể trở thành tài liệu tham khảo quan trọng cho những người làm công tác
giảng dạy Ngữ Văn ở trường phổ thông, ở cao đẳng và đại học.
Như vậy, có thể thấy, sự hỗn dung giữa thể loại với loại, thể loại với thể loại,
thể loại và các yếu tố, chi tiết nghệ thuật trong sáng tác tùy bút của Nguyễn Tn.
Đó chính là cơ sở để chúng tôi lựa chọn đề tài “Sự tƣơng tác thể loại trong tùy

bút Nguyễn Tuân sau năm 1945” để thực hiện với mong muốn góp thêm cái nhìn
mới về các tác phẩm của một tác giả đã khá quen thuộc như Nguyễn Tuân, từ đó
góp phần khẳng định vị trí của ơng trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.
2. Tổng quan đề tài nghiên cứu
2.1. Những nhận định về Nguyễn Tuân và tùy bút sau năm 1945
Nguyễn Tuân là một tác gia văn học lớn. Ông khẳng định tài năng thực sự của
mình ở thể tài tuỳ bút. Có thể nói, tuỳ bút Nguyễn Tuân đã trở thành đối tượng thu
hút được sự quan tâm và chú ý của đông đảo bạn đọc cũng như các nhà nghiên cứu.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung, tuỳ bút Nguyễn


3
Tuân nói riêng với nhiều cấp độ, nhiều nội dung khác nhau, nhưng ở đây chúng tơi
muốn nói đến những chuyên gia đã dành nhiều tâm huyết và công sức cho nhà văn
Nguyễn Tuân, như Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Vương Trí Nhàn, Hà Văn Đức...
Tài năng của ơng đã được giới nghiên cứu đánh giá hết sức đặc biệt. Nguyễn Đăng
Mạnh khẳng định “Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học phức tạp”.
Trước Cách mạng, do bất hoà với xã hội, ông sống ngông nghênh, quay lưng
với thực tại, chỉ coi trọng cái tơi vị kỷ của mình. Nhưng sau Cách mạng, Nguyễn
Tn đã có nhiều thay đổi. Khơng hồn tồn đoạn tuyệt ngay với q khứ, nhưng
ơng đã nhận thấy ý nghĩa của cuộc sống khi hồ mình vào nhân dân. Nguyễn Tuân
cùng đi, cùng nghĩ, cùng sống với bộ đội, với quần chúng lao động. Bởi vậy
Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Cách mạng tháng Tám đã cứu sống Nguyễn Tuân”.
Cách mạng tháng Tám là cơn bão táp, giúp Nguyễn Tuân hồi sinh trong niềm vui
lớn của đất nước. “Mê say với ánh sáng trắng vừa giải phóng, tôi đã là một dạ lữ
khách không mỏi, quên ngủ của một đêm phong hội mới... Nguyễn cũng sáng suốt
bốc cho mình một vị thuốc nữa: Phải đấu tranh tư tưởng, tiêu diệt con người cũ,
phải “lột xác”. Nguyễn Tuân đã tiến hành một cuộc “cách mạng” trong lịng mình.
Sự chuyển biến thực sự của ngòi bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng, có thể xem bắt
đầu từ Đường vui. Đây là kết quả của một chuyến đi dài, không phải như anh chàng

Bạch ngày xưa xê dịch trên xe, trên tàu, thui thủi một mình, mà đi bộ “mình cưỡi
lên mình mà trườn qua núi sơng đẫm mùi thuốc súng.” Tiếp theo Đường vui (1949),
Nguyễn Tuân viết Tình chiến dịch (1950). Hai tác phẩm như cùng được viết trong
một mạch văn, một hơi văn, nhưng thực ra, có những điểm khác nhau quan trọng.
So với Đường vui, ở Tình chiến dịch tác giả nhập cuộc hơn vào cuộc kháng chiến
của dân tộc. Trong bài “Thể tài tuỳ bút của Nguyễn Tuân”, Nguyễn Đăng Mạnh
đã khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo và sự tài hoa của nhà văn này qua thể
tài tuỳ bút: “Nguyễn Tuân là cây bút đi đầu của thể loại tùy bút, ông vẫn đi về quẩn
quanh đi về với thể loại này cùng với sự uyên bác, cao nhã của mình” [18;25].
Theo Phong Lê: “Tên tuổi của Nguyễn Tuân gắn với trào lưu văn học lãng
mạn trong văn học Việt Nam sau đại chiến thế giới lần thứ hai”. Trước Cách mạng,
Nguyễn Tuân thất vọng trước hiện tại, nhà văn quay về quá khứ, nhấm nháp những


4
Vang bóng một thời, những thú chơi được xem là thanh lịch như ướp hương bưởi,
thả thơ, đánh thơ...đó là cả một sự bế tắc nằm trong sự bế tắc chung của nền văn học
công khai, dưới ách thống trị của thực dân trong xã hội cũ. Khi cách mạng tháng
Tám thành cơng, Nguyễn Tn chính là một trong số các nhà văn lãng mạn hiếm
hoi ngay từ đầu đã có cái may mắn tiếp nhận được ánh sáng mới, để tìm ra con
đường giải thốt cho cuộc sống và nghệ thuật của mình. Nhà văn đã hồ hởi đi theo
cách mạng và có lúc chan hồ vào dịng người, vui cái vui xuống đường trong
những ngày đầu sau khởi nghĩa. Nhưng phải đến cuộc kháng chiến chống Pháp,
sống trong đời sống của nhân dân, trong ngọn lửa của chiến đấu, con người và nghệ
thuật của Nguyễn Tuân mới có điều kiện “gột rửa” dần những mặt tiêu cực để
hướng vào quỹ đạo của văn nghệ cách mạng. Tuỳ bút Đường vui chính là tác phẩm
mở đầu đánh dấu một giai đoạn sáng tác mới của Nguyễn Tuân, là minh chứng cho
sự “nhập cuộc” của nhà văn với cách mạng và kháng chiến. Nhưng phải đến Tình
chiến dịch mới cho thấy hình ảnh một Nguyễn Tn thật gần gũi. Ơng đã thực sự
hồ mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân, ông đã đi cùng bộ đội, nhân

dân trên các nẻo đường kháng chiến gian nan. Cuộc kháng chiến đã mang lại cho
Nguyễn Tuân những tình cảm mới mà ơng gọi là “nếp tình cảm mới”. Tình cảm đó
khơng có trong các trang viết trước đây của Nguyễn Tuân. Những mối “tình đơn
vị”, “tình chiến dịch”, hoặc cái “nỗi nhớ miên man” nó gắn bó con người với nhau.
Sau cách mạng, căn bản đã hết rồi cái say sưa tự nhấm nháp mình, Nguyễn Tn
cịn phấn đấu đi xa hơn thế. Trong sáng tác của ông đã dần dần xuất hiện những
con người kháng chiến mà ông yêu mến khâm phục: anh giao thông Dầu Gáo, anh
biệt động, anh tự vệ thủ đơ, anh du kích liên xã... Trong cái cố gắng “khơng viết tuỳ
theo bút”, có lúc ông đã thử bước sang địa hạt truyện ngắn để dựng hẳn một chân
dung quần chúng cách mạng như trong Những con đò danh dự (Độc lập, số 23,
tháng 6 1950), hoặc một khung cảnh chiến thắng với nhiều tâm trạng, nhiều khuôn
mặt khác nhau của quân dân vùng địch hậu như trong Thắng càn (1954). Có thể
nói: con đường đi của Nguyễn Tuân trong ba mươi năm qua là con đường có nhiều
bước thăng trầm. Ơng đi vào đời sống, xuất phát từ đời sống (chứ không phải từ cá
nhân mình), gắn bó, chan hồ với quần chúng (chứ khơng phải đứng tách ra ngồi),


5
tin ở cách mạng, và rèn luyện mình theo lập trường và quan điểm của Đảng.
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Vương Trí Nhàn trong bài Nhà văn
Nguyễn Tuân đã viết “Nên hiểu sự khinh bạc lộ liễu của Nguyễn Tuân trước Cách
mạng chẳng qua cũng là một cách nhà văn tự mài sắc mình để làm nghề cho thật
đắt, chúng ta sẽ khơng q thành kiến với nó, và có thể hiểu tại sao, nó lại tồn tại
đồng thời với những phẩm chất ngược lại, như tinh thần phục thiện và một tấm lịng
biết thơng cảm. Chẳng phải từ sau Cách mạng, khi khơng cịn thật cần thiết cho
nghề nữa, thói quen khinh bạc đó đã được gội rửa rất nhiều?” [42; 30]. Về tính
cách, Nguyễn Tn có sự khác biệt rất nhiều giữa trước Cách mạng và sau Cách
mạng, nhưng sự lựa chọn thể loại trong sáng tạo dường như vẫn có sự thống nhất.
Nói như Vương Trí Nhàn: Tùy bút là một thể loại: “rất kén tác giả. Ấy vậy mà tên
tuổi Nguyễn Tuân lại gắn với mảnh đất đáng gọi là “tử địa” ấy. Ông là nhà tuỳ bút

số một của văn học Việt Nam hiện đại; sau ông người ta mới gượng gạo nhắc tới
vài tên tuổi khác cũng có đơi ba phen thử sức trong nghề - ấy là sau khi họ phải
vượt qua con đường khốn khó, hai bên là hai cái vực: hoặc là viết giống Nguyễn
Tuân; hoặc không phải tuỳ bút.” Ông đưa ra kết luận về sự gắn kết của Nguyễn
Tuân với thể tài tuỳ bút: “Nó là một bộ phận của con người ơng, ơng sống với nó và
cũng được chết với nó.” Vương Trí Nhàn khẳng định: “Những gì xảy ra trong đời
sáng tác của Nguyễn Tuân những năm sau 1945, làm chứng cho điều đó”.
Trong cuộc tranh luận về nghệ thuật ở Việt Bắc tháng 7 năm 1949, khi bàn
đến Đường vui, Nguyên Hồng nhận xét: “anh u mình nhiều q, dựng mình lên
nhiều q”; cịn một cán bộ văn nghệ khác thì bảo: “tơi có cảm tưởng là anh đi trên
bờ suối, đi trên đường để ngắm cảnh”, những điều này không phải Nguyễn Tuân
không biết và ơng đã khổ vì nó lắm lắm, trong cơn lúng túng, ông đổ tội cho thể tài.
Trong một buổi họp, chính Nguyễn Tn đã phát biểu: “Nhân nói đến tuỳ bút, tơi
có ý kiến là chúng ta ghi chép tài liệu đã nhiều. Bây giờ là thời kì viết tiểu thuyết,
đừng viết tuỳ bút nữa.” Một chỗ khác, ông nói rõ hơn: “Người viết tiểu thuyết có
điều kiện khách quan hơn”. “Riêng tôi, ở tuỳ bút, tôi dễ phóng túng” [28;30]. Rồi,
làm đúng như điều mình tính, một số tác phẩm ra sau Đường vui, đều được ông gọi
là tiểu thuyết. Chỉ có một điều hơi phiền: những tiểu thuyết này không hay, hơn thế


6
nữa, những người tinh tường nhận ra rằng nó chỉ tiểu thuyết ở cái vỏ, còn hơi văn,
giọng điệu, vẫn là tuỳ bút. Có lẽ vì cũng nhận ra rằng sự thực là như thế, nên khi tập
hợp những gì đã viết hồi ở Việt Bắc, và mới về Hà Nội, Nguyễn Tuân gọi chung
chúng là tuỳ bút: Tuỳ bút kháng chiến, Tuỳ bút kháng chiến hồ bình.
Những cơng trình nghiên cứu, những bài viết trên là nguồn tư liệu quý giúp
gợi mở và định hướng cho đề tài nghiên cứu mà chúng tôi đã lựa chọn.
2.2. Những nhận định về tương tác thể loại trong tùy bút Nguyễn Tuân
Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về thể loại tùy bút của Nguyễn Tuân
trên các phương diện thi pháp học, sinh thái học, phong cách học… Tuy nhiên,

nghiên cứu tương tác thể loại trong tùy bút của Nguyễn Tuân vẫn cịn khá trống
vắng. Các nhà nghiên cứu đây đó đã đề cập đến vấn đề này một cách sơ lược khi
bàn về một nội dung lớn ở tùy bút của ơng chứ chưa đưa nó trở thành một đề tài cần
nghiên cứu thật hệ thống.
Ngay từ rất sớm, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã xem
Nguyễn Tuân là: “nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng, cả về lối văn lẫn về tư
tưởng”, là người có “lối hành văn đặc biệt (…) và những ý kiến cùng tư tưởng phô
diễn bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì
bừa bãi, lơi thơi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy
một trạng thái của tâm hồn” [47; 415]. Cũng theo Vũ Ngọc Phan, những sáng tác
của Nguyễn Tuân ở giai đoạn 1930 - 1945 “dầu không phải là tùy bút cũng ngả về
tùy bút chẳng ít thì nhiều” [47; 438]. Có thể thấy, Vũ Ngọc Phan đã nhận ra sự mới
mẻ ở tùy bút Nguyễn Tuân ở giai đoạn 1930 – 1945 được kết tinh ở chỗ Nguyễn
Tn hịa phối tài tình giữa nhiều thể loại, nhiều cảm hứng nghệ thuật, chất liệu
nghệ thuật.
Nguyễn Văn Hạnh trong chuyên luận Chuyện văn, chuyện đời, nêu lên nhận
định về thể loại tùy bút của Nguyễn Tuân. Cũng như các thể loại khác của ký, lằn
ranh giữa các thể loại rất mong manh. Ông và các nhà nghiên cứu cũng khá vất vả
trong việc xác định ranh giới giữa tùy bút với các tiểu loại khác của ký (nhất là bút
ký): “Bút ký và tùy bút rất gần nhau, nhưng nếu trong tùy bút, nhất là trong tùy bút
của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của


7
người viết chiếm một tỉ trọng lớn, và do đó tính chất trữ tình thường khá đậm nét,
thì trong bút ký việc ghi chép trung thực sự việc được coi trọng hơn (…). Xét về
mức độ kết hợp tự sự với trữ tình, về tính chặt chẽ hay phóng khống trong tư duy
và kết cấu, thì bút ký có thể xem như đứng giữa ký sự và tùy bút” [17; 100].
Từ góc nhìn của người sáng tác, Chế Lan Viên cho rằng bút ký và tùy bút
cũng khó phân định rạch ròi nhất là với tùy bút của Nguyễn Tuân. Ông đề xuất một

cách hiểu có vẻ thú vị, nhưng chẳng những không sáng rõ lý thuyết về thể loại chút
nào mà cịn làm phức tạp thêm vấn đề: “Có người phân biệt rằng tùy bút thiên về
nội tâm hơn, cịn bút ký thì thiên về tả sự việc bên ngồi. Cũng được. Nhưng bạn
nhìn xem. Nhiều tùy bút của Nguyễn Tuân năm nay ở Sông Đà cũng ngồn ngộn sự
việc như bút ký vậy. Âu là ta thống nhất bút ký và tùy bút lại thành một danh từ…
tùy bút ký” [62; 111].
Sách Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ của Huỳnh Như Phương, Nguyễn
Văn Hạnh cũng dẫn lại lời nhận xét của Trương Chính về thể loại tùy bút của
Nguyễn Tuân. Ông cho rằng tùy bút của Nguyễn Tuân đan xen giữa ký và các loại
khác. Mặc dù ông chỉ bàn về tùy bút Nguyễn Tuân trước 1945 nhưng cũng là gợi ý
xác đáng để nghiên cứu về tùy bút Nguyễn Tuân sau 1945. Ông khẳng định Nguyễn
Tuân là “một nhà văn chủ quan nhất trong các nhà văn của ta” và những sáng tác ở
giai đoạn trước 1945 của nhà văn này dù viết ở các thể loại khác nhau như truyện
ngắn, truyện dài, phóng sự, nhưng “tất cả đều là những thiên tùy bút trá hình”. Với
sự xuất hiện độc đáo như thế, Nguyễn Tn nghiễm nhiên có được một vị trí xứng
đáng trên văn đàn đương thời: “Ngay lúc những nhà văn trong Tự lực văn đoàn
được đa số độc giả trong tầng lớp tiểu tư sản thành thị yêu chuộng nhất, tưởng như
khơng cịn dành chỗ cho ai nữa, thì Nguyễn Tn, riêng rẽ, cũng đã tự xây dựng
cho mình một vị trí chắc chắn trong văn học” [16; 53]. Trương Chính cũng cho rằng
chính sự gần gũi của tùy bút và các loại văn xuôi khác khiến cho tùy bút Nguyễn
Tuân có được vị trí riêng khơng thể lẫn với các tác giả khác.
Tác giả Hà Văn Đức với Tuỳ bút Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
đã khẳng định: “Có nhiều nhà văn viết tuỳ bút, nhưng hiếm có một cây bút nào lại
thuỷ chung gắn bó với nó suốt một đời sáng tác như Nguyễn Tuân. Ông gắn với bó


8
với thể loại tuỳ bút và tạo dựng được cho mình một phong cách riêng ở thể loại này,
bởi nó phù hợp với sở trường cũng như cá tính của ông.”, và “tuỳ bút Nguyễn Tuân
không chỉ giàu chất hiện thực, mang tính thời sự cao, mà cịn đậm đà chất trữ tình,

thơ mộng. Chất tình cảm trong tuỳ bút Nguyễn Tuân trước cách mạng thường là
buồn, phản ánh cái tâm trạng bức bối, chán chường của tác giả trước một cuộc đời
tù túng, tẻ nhạt (Thiếu quê hương). Sau Cách mạng tháng Tám, cảm xúc và suy
nghĩ của Nguyễn Tn có nhiều thay đổi: say mê, nhiệt tình và lạc quan hơn...” [11;
140]. Nhiều thiên tuỳ bút sau cách mạng (nhất là trong tuỳ bút Sông Đà) là những
áng văn trữ tình giàu chất thơ. Như vậy, nhà nghiên cứu đã bước đầu chỉ ra ở tùy
bút Nguyễn Tuân có sự tương tác giữa tự sự và trữ tình trong cách nhìn, cách cảm
và cách nhà văn gắn bó với hiện thực.
Trong sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao, (do Bộ Giáo
Dục và Đào Tạo ấn hành năm 2007), có nêu nhận xét về thể loại của tác phẩm
Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tuân ở phần khái niệm về thể loại và định
hướng tiếp cận các tác phẩm tùy bút (Người lái đò sơng Đà của Nguyễn Tn, Ai
đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường). Tuy nhiên ở điểm này,
các tác giả chưa được trình bày thật sáng rõ, nhất quán về đặc trưng và ranh giới của
thể loại tùy bút: “Bài ký thực chất thuộc thể tùy bút vì hành văn phóng túng, nhân
vật chính là cái tơi của tác giả, chất trữ tình rất đậm” [51; 182]. Cách định danh tùy
bút như vậy chưa thật rõ ràng để học sinh hiểu đúng về thể loại này.
Trong bài Nguyễn Tn và thể tùy bút, Vương Trí Nhàn có dẫn ra một định
nghĩa về tùy bút trong Từ điển văn học của Liên Xô để minh họa cho thực tế ấy:
“Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên trên bình diện thứ nhất
những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ
cái giọng điệu độc đáo của riêng mình, những người thích tự biểu hiện, tự phân
tích, đồng thời là những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết
chặt chẽ như châm ngơn - những người đó mới đi vào tùy bút” [41;129]. Trong bài
viết Nguyễn Tuân, tên tuổi còn mãi với thể tùy bút, Vương Trí Nhàn cũng đã chỉ
rõ: “Do những nguyên cớ khác nhau và trước tiên, do những hạn chế ngặt nghèo
đối với tự do của người nghệ sĩ, nền văn xuôi trung cổ Việt Nam chưa thể biết tới


9

thể tùy bút, như ngày nay con người hiện đại quan niệm. Thuở vua Lê chúa Trịnh,
tức là những năm tháng hỗn loạn của chế độ phong kiến, cũng đã có một quyển
sách mang tên Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ ra đời, nhưng chữ tùy bút ở
đây không phải là để chỉ thể loại của tác phẩm mà là có liên quan tới cách viết,
cũng là cái phóng túng trong cơng việc cầm bút” [41;129].
Ở bài viết Nguyễn Tuân, tên tuổi còn mãi với thể tùy bút, qua việc phân
tích cặn kẽ những tiền đề từ thực tiễn văn học và tâm lý xã hội, Vương Trí Nhàn đã
cho thấy sự ra đời của thể loại tùy bút nói chung và sáng tác của Nguyễn Tuân nói
riêng vào thập niên 30 của thế kỷ XX là một hiện tượng tất yếu, mang tính lịch sử,
và đây là thể loại hỗn dung tư duy văn xuôi, đại diện cho văn xi thời hiện đại:
“Có điều bản thân cái gọi là thể ký cũng là một không gian rộng rãi, sau những thể
tài nghiêng về sự ghi chép khách quan như du ký, phóng sự nói trên, cũng ngày
càng nổi lên cái nhu cầu của cả người viết lẫn người đọc đối với thể tài mà ở đó,
cái phần chủ quan của người viết hằn rõ, khiến cho sự phản ánh khách quan quanh
co hơn, qua sự khúc xạ rắc rối hơn, song lại mang tới niềm vui kỳ lạ cho bạn đọc.
Tùy bút của Nguyễn Tuân ra đời trong hồn cảnh đó (…). Vậy là tùy bút của
Nguyễn Tuân có những liên hệ lịch sử của nó với sự phát triển của tư duy văn xuôi
đương thời” [40;136]. Với cách kiến giải này, có thể thấy Trương Chính đã góp
phần khẳng định, ở tùy bút có mặt nhiều thể loại văn xuôi khác.
Trước khi khảo sát những ảnh hưởng từ triết học phương Tây đối với tư
tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tn, ở bài viết Có gì chung giữa Nguyễn Tuân và
Andre Gide?, Hoàng Nhân ghi nhận: “Trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân
là nhà văn viết tùy bút đặc sắc, xen lẫn các yếu tố hiện thực và lãng mạn. Nhiều tác
phẩm thể hiện cái tôi ngang tàng, khinh bạc của tác giả, chán ghét cuộc đời tầm
thường xấu xa, phê phán xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ” [31; 197]. Ý
kiến của Hoàng Nhân đã ghi nhận sự đan xen giữa tự sự và trữ tình trong một thể
loại vốn thuộc tự sự như tùy bút.
Như vậy, từ những nghiên cứu về Nguyễn Tn và sáng tác của ơng, có thể
nhận thấy Nguyễn Tuân là tác gia lớn đã được nhiều nhà nghiên cứu lão thành đặt
bút tìm hiểu về ơng. Nhìn chung, trong những cơng trình nghiên cứu các tác giả đều



10
có nhận xét, đánh giá trên phương diện khái quát về tương tác thể loại của Nguyễn
Tuân sau cách mạng. Các nhà nghiên cứu đều nhận ra ở tùy bút Nguyễn Tuân có sự
tương tác giữa tự sự và trữ tình, văn xi và thơ, giữa hiện thực rõ ràng và lãng mạn
mơ mộng… Những cơng trình nghiên cứu, những bài viết trên là nguồn tư liệu quý
giúp gợi mở và định hướng cho đề tài nghiên cứu mà chúng tôi đã lựa chọn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi vào phân tích sự tương tác thể loại trong tùy bút của Nguyễn Tuân
sau 1945 trên các phương diện: tương tác giữa thể loại với thể loại, thể loại với loại,
thể loại với yếu tố… để thấy được đặc trưng sáng tác tùy bút Nguyễn Tuân sau năm
1945 và từ đó khẳng định thi pháp Nguyễn Tuân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tơi tập trung tìm hiểu những tùy bút sau năm
1945 như Đường vui (tuỳ bút, 1949), Tùy bút kháng chiến (1955), Sơng Đà (tuỳ
bút, 1960), Tình chiến dịch (tùy bút, 1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (tùy bút,
1972) để chỉ ra những dấu hiệu tương tác thể loại trong tùy bút Nguyễn Tuân sau
năm 1945.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp loại hình
Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu đặc trưng loại hình của các thể loại văn
học, tìm ra dáng nét riêng của từng thể loại từ đó tìm thấy sự tương đồng, gặp gỡ
giữa chúng trong tùy bút Nguyễn Tuân sau 1945.
4.2. Phương pháp cấu trúc – hệ thống
Thể loại văn học luôn tồn tại trong một chỉnh thể tồn vẹn. Vì vậy, thể loại
tùy bút của Nguyễn Tuân cũng phải được nhìn nhận trong một chỉnh thể để thấy
được giá trị riêng cũng như sự tương tác trong cùng hệ thống thể loại hoặc khác hệ

thống thể loại.
4.3. Phương pháp thi pháp học
Phương pháp này được vận dụng để nghiên cứu các tác phẩm tùy bút của


11
Nguyễn Tuân trên phương diện không gian, thời gian, điểm nhìn, quan niệm về con
người… Từ đó thấy được điểm đặc sắc của thể loại trong tương quan so sánh với
các thể loại khác.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng kết hợp một số thao tác nghiên cứu đặc thù
như: phân tích, phân loại, so sánh, tổng hợp… để hỗ trợ q trình nghiên cứu đề tài.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu độc lập, có hệ thống, chi tiết về sự tương
tác thể loại tùy bút của Nguyễn Tuân sau 1945 Từ đó, luận văn góp phần phát hiện
những điểm mới sau:
- Đề tài đề xuất một góc nhìn mới trong nghiên cứu văn học, góc nhìn tương
tác thể loại cụ thể ở đây là thể loại tùy bút.
- Đề tài góp phần phát hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong các
sáng tác tùy bút sau 1945 đó là sự linh hoạt, điêu luyện trong sự hòa phối giữa các
thể loại, các yếu tố nghệ thuật, các khuynh hướng tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật…
- Luận văn đã khái quát được bức tranh tương tác thể loại với những chiều,
những kiểu, những cấp độ tương tác vừa phong phú vừa độc đáo trong sáng tác tùy
bút của Nguyễn Tuân sau 1945. Với việc chú trọng nghiên cứu từ cấu trúc chỉnh thể
đời sống thể loại, bên cạnh những luận điểm khái quát, luận văn đã đi sâu phân tích
sự kết tinh những tố chất thể loại khác nhau trong các tác phẩm tùy bút của Nguyễn
Tuân như những minh chứng thuyết phục, khoa học nhất về kết quả của quan hệ
tương tác thể loại tùy bút.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn
gồm có 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Sự tƣơng tác thể loại trong văn học và tùy bút Nguyễn Tuân
Chương 2: Bút ký và du ký trong tùy bút Nguyễn Tuân sau năm 1945
Chương 3: Truyện và thơ trong tùy bút Nguyễn Tuân sau năm 1945


12

Chƣơng 1:
SỰ TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC
VÀ TÙY BÚT NGUYỄN TUÂN
1.1. Sự tƣơng tác thể loại trong văn học
1.1.1. Tương tác thể loại bắt nguồn từ đặc trưng của thể loại văn học
Theo quan niệm truyền thống, tác phẩm văn học được chia thành ba loại lớn:
tự sự, trữ tình, kịch. Từ các loại này được chia thành các thể nhỏ khác có cùng một
số đặc điểm chung về cách tổ chức nội dung và triển khai ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Ở loại tự sự có các thể như: tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, văn chính luận… Loại trữ tình
có các thể thơ, phú, vãn, ngâm… loại kịch gồm bi kịch, hài kịch, chính kịch…
Như vậy, loại hình là gì? Loại hình văn học là gì? Thể loại văn học là gì? Từ
điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Loại hình là tập hợp sự vật, hiện tượng cùng
có chung đặc điểm nào đó. Mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều tồn
tại trong kiểu loại, chủng loại của nó. Có chăng những sự vật hiện tượng mới, cá
biệt không tồn tại trong loại nào thì bản thân nó lại được xếp vào một loại mới để
phân biệt với các loại khác. Mỗi chủng loại có những đặc trưng, những quy luật tồn
tại nhất định. Loại lớn bao gồm trong nó hệ thống loại hình nhỏ hơn; đến lượt
mình, các loại hình nhỏ lại bao gồm trong nó các cá thể cụ thể nhỏ hơn”. [14,158]
Loại hình văn học được Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau:
“loại hình nghệ thuật ngơn từ… nó có những đặc trưng độc đáo của bộ môn nghệ
thuật thể hiện ở đối tượng nhận thức, ở nội dung và phương thức biểu đạt hình
tượng, ở chất liệu sáng tạo của nó” [14;158]. Như vậy, văn học cũng là một loại
hình, nằm trong một loại hình lớn hơn là loại hình nghệ thuật. Loại hình nghệ thuật

là những hình thức tồn tại ổn định của nghệ thuật như hình họa, kiến trúc, điêu
khắc, âm nhạc, văn học, sân khấu, xiếc, nhiếp ảnh, điện ảnh… Với tư cách là một
loại hình, loại hình văn học lại chứa đựng trong nó những loại hình nhỏ hơn là loại
hình văn học dân gian, loại hình văn học trung đại, loại hình văn học hiện đại.
Ngồi những đặc điểm chung của loại hình lớn là văn học, các loại hình văn học
nhỏ hơn lại có những đặc trưng riêng của nó.


13
Thể loại văn học là chỉ quy luật tồn tại mang tính loại hình của tác phẩm văn
học. Trong đó, ứng với một nội dung nhất định là một hình thức tương ứng, phù
hợp đến mức tối ưu để chuyển tải nội dung tác phẩm. Trong mỗi thể loại có sự
thống nhất, quy định lẫn nhau giữa các yếu tố như chủ đề, đề tài, tư tưởng, nhân vật,
hình thức lời văn, kết cấu tác phẩm… Nói đến thể loại là nói đến hình thức tồn tại
chỉnh thể của tác phẩm mang tính quy luật đặc thù. Ở đó có sự thống nhất mang tính
nguyên tắc của việc tổ chức tác phẩm, phương thức thể hiện thực tại và giao tiếp
thẩm mỹ. Thể loại văn học mang tính ổn định, truyền thống vừa có tính vận động,
biến đổi. Tính ổn định thể hiện ở giới hạn tiếp xúc đời sống, một cách nhìn, một
cách tiếp cận, một trường quan sát, một quan niệm với hiện thực… Tính vận động,
biến đổi của thể loại bắt nguồn từ quy luật phát triển khơng ngừng của vật chất,
trong đó có quy luật vận động của xã hội buộc thể loại phải thay đổi để đáp ứng xu
thế của thời đại. Trường hợp này có thể vận dụng ở thơ ca. Thời trung đại, thơ điệu
ngâm được xem trọng bởi yêu cầu cách điệu hóa cao độ và quan niệm về cái đẹp
nằm ở tâm chí đạo của người quân tử nên thơ ca phải có vần điệu, đăng đối… Đến thời
hiện đại, hiện thực cuộc sống sôi nổi đã ùa vào trong thơ để đáp ứng nhu cầu phản ánh
hiện thực của văn chương. Vì vậy thơ ca phải vỡ tung về hình thức để cuộc sống ùa
vào. Thơ tự do, thơ không vần điệu vẫn được đón nhận nhiệt thành từ độc giả.
Đồng thời tác phẩm là sản phẩm trí tuệ của nhà văn, những nhân cách siêu cá
thể, vì vậy cũng chịu sự tác động của tư tưởng nhà văn trong quá trình sáng tác. Đối
với các nhà văn, nhà thơ lớn, họ có khả năng tự biến đổi các thể loại truyền thống

để tạo nên những tác phẩm độc đáo đan xen giữa tự sự và trữ tình, hoặc ngược lại.
Trường hợp Tản Đà viết tác phẩm Hầu trời, Khối tình con, Giấc mộng con… là ví
dụ tiêu biểu, mặc dù là những tác phẩm thơ nhưng tính tự sự rất rõ, hoặc là tác
phẩm tự sự nhưng lại giàu chất thơ. Sự đan xen đó làm nên tính độc đáo cho tác
phẩm của Tản Đà đồng thời cũng mở đường cho q trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam. Như vậy, tính vận động biến đổi của thể loại chính là cơ sở cho hiện tượng
tương tác thể loại trong văn học. Các thể loại văn học nhiều khi khơng tồn tại độc
lập, riêng lẻ mà có sự đan xen, hòa phối vào nhau, tạo nên các thể loại trung gian
như truyện ngắn trữ tình, truyện ngắn tiểu thuyết hóa, thơ tự sự…


14
Nhìn từ sự biến đổi khơng ngừng của hiện thực, thể loại buộc phải vận động
để phản ánh hiện thực cuộc sống với những bộn bề phức tạp của nó. Thể loại phá vỡ
biên giới của nó để cho hiện thực ùa vào. Trường hợp của thơ là một minh chứng
sinh động nhất. Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật khơng cịn giữ ngun định
dạng vốn có mà biến đổi theo nhu cầu thể hiện chất liệu cuộc sống của nhà thơ. Ở
cuối thế kỷ XIX, thể loại này đã phá tung niêm luật, vần đối, bố cục để diễn đạt trọn
vẹn tình ý của tác giả. Nhìn vào sáng tác của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn
Thiện Kế, Học Lạc… người ta sẽ thấy rõ điều này. Ngay cả thơ cũng đan xen hình
thức kể chuyện của truyện như trường hợp các tác phẩm ở đầu thế kỷ XX của
Nguyễn Nhược Pháp, Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải… Thể loại ký cũng dung
nạp nhiều hình thức thể loại khác như thơ, truyện… để tuân thủ nguyên tắc ghi chép
hiện thực… Như vậy, xuất phát từ sự thay đổi của hiện thực, thể loại cũng phải biến
đổi theo xu hướng nhìn sang các thể loại khác nhằm thể hiện chiều sâu cuộc sống.
Thể loại văn học mang tính thời đại, mang tính lịch sử đồng thời mang tính dân tộc.
Mỗi thời đại sẽ có hệ thống thể loại đặc thù mang tính ổn định nhưng khơng bao giờ
là bất biến bởi thời đại biến đổi và giai đoạn chuyển tiếp của thời đại sẽ nảy sinh sự
giao thoa, đan xen cũ mới trong bản thân thể loại.
Ở góc độ tác giả, mỗi nhà văn là một cá tính sáng tạo vô cùng phong phú.

Bản thân tác giả, trong quá trình sáng tạo ln phấn đấu khơng lặp lại chính mình
và khơng lặp lại người khác. Vì vậy, những nghệ sĩ lớn thường tiếp thu các truyền
thống thể loại khác nhau, tạo ra các hình thức thể loại mới. Sự sáng tạo đó đã tạo ra
tính đa dạng trong thể hiện nội dung, hình thức cho các thể loại vốn ổn định đồng
thời cũng tạo ra những thể loại mới. Nếu có hiện thực phong phú mà khơng có tài
năng sáng tạo của nhà văn cũng không thể làm nên những tác phẩm mới về nội
dung, độc đáo về cách thể hiện cũng đồng nghĩa với việc không tạo ra sự tương tác
thể loại hay sản sinh thể loại mới. Mỗi nhà văn thường thể nghiệm ở nhiều thể loại
khác nhau, điều đó dễ đưa đến sự đan xen thể loại trong tác phẩm của họ. Bản thân
tác giả và tài năng sáng tạo của họ là cội nguồn của tương tác thể loại trong văn học.
Nếu khơng có sự sáng tạo của các nhà Thơ mới như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Huy Cận… thì thi ca Việt Nam vẫn cịn mãi đóng khung ở niêm luật,


15
đăng đối, câu chữ réo rắt. Chính họ đã tạo nên sự giao hịa Đơng Tây trong sáng tác
của mình với một chút Đường Thi, một chút Sonet để làm nên những tác phẩm bất
hủ với thời gian.
Tương tác thể loại là quy luật mang tính đặc thù của tác phẩm văn học. Nó
diễn ra trên nhiều cấp độ khác nhau của thể loại văn học. Từ cấp độ nhỏ nhất như
các yếu tố ngôn từ đến cấp độ lớn hơn như cấu trúc tác phẩm. Vì vậy, khi nhận thức
về thể loại tác phẩm văn học phải hết sức mềm dẻo. Thể loại chỉ tồn tại độc lập
tương đối và phải chấp nhận cả các thể loại lệch chuẩn.
1.1.2. Tương tác thể loại trong văn học là hiện tượng đa dạng, đa chiều
Như trên đã khẳng định, sự tương tác thể loại trên thực tế đã diễn ra và được
đón nhận như sự thật hiển nhiên khơng thể bàn cãi. Nhưng thực tế sự tương tác ấy
đã diễn ra như thế nào? Theo quy luật nào và có thể phân loại được sản phẩm của sự
tương tác ấy hay khơng? Đó là điều nhiều nhà nghiên cứu đã nỗ lực đi tìm và cơng
bố những kết quả đáng ghi nhận.
Trước tiên, giới nghiên cứu đều khẳng nhận, sự tương tác thể loại trong văn

học là hiện tượng đa dạng, đa chiều. Có thể thấy, sự tương tác thể loại không chỉ
diễn ra trên chiều đồng đại giữa các thể loại mà còn diễn ra trên chiều lịch đại,
đương nhiên chiều lịch đại này khơng chỉ có một chiều mà tương tác hai chiều quá
khứ và tương lai. Các thể loại trong cùng một phạm trù văn học tương tác lẫn nhau
đồng thời cũng có trường hợp thể loại ở phạm trù này tương tác với thể loại ở phạm
trù khác ở quá khứ hoặc ở tương lai. Trường hợp ở văn học Việt Nam, thể loại văn
học ở phạm trù văn học hiện đại tương tác với phạm trù văn học trung đại hoặc thể
loại văn học thời trung đại tương tác với thể loại ở phạm trù hiện đại mang tính chất
dự báo. Chẳng hạn, một số tiểu thuyết ở thời hiện đại lại chịu ảnh hưởng kiểu kết
cấu của tiểu thuyết chương hồi thời trung đại vốn thuộc thể loại hoàn toàn khác.
Hoặc thể loại thơ ngũ ngôn Đường luật của thời trung đại lại ảnh hưởng nhiều đến
thơ tự do của thời hiện đại, nhất là thời kỳ Thơ mới 1932 - 1945…
Hơn nữa, nếu xem xét văn học như một hệ thống, văn học Việt Nam là một
hệ thống, văn học nước ngoài là một hệ thống, văn học viết là một hệ thống, văn
học dân gian là một hệ thống… thì mỗi hệ thống, bên cạnh ảnh hưởng, tác động qua


16
lại lẫn nhau giữa các yếu tố thì chúng cịn tác động với các yếu tố thuộc hệ thống
khác. Do vậy, tương tác thể loại là một hiện tượng hết sức mềm dẻo, linh hoạt và đa
dạng. Chính tương tác đã tạo ra sự phong phú, sức hấp dẫn cho tác phẩm văn học.
Nhìn từ hiện tượng dân gian hóa các tiểu thuyết hiện đại của các tác giả như Phạm
Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh… người đọc sẽ
thấy rõ sự tương tác thể loại giữa tiểu thuyết hiện đại và truyện kể dân gian, những
sản phẩm vốn thuộc các thể loại khác nhau, hệ thống khác nhau.
Xét trong cùng hệ thống loại hình văn học, tương tác thể loại biểu hiện ở
nhiều cấp độ của hệ thống thể loại văn học. “Trên cơ sở lí thuyết hệ thống, chúng tơi
cho rằng: tương tác thể loại là sự thâm nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa
hai hay nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo
nên sự vận động, đổi mới cấu trúc thể loại văn học” [54;28]. Sự thâm nhập, tác

động này có thể diễn ra đồng bộ trong cấu trúc hệ thống thể loại cũng có thể chỉ là
sự ảnh hưởng ở một vài yếu tố. “Ở nét nghĩa khái quát chung, tương tác thể loại là
sự tác động qua lại lẫn nhau nhưng với đặc trưng riêng của văn học, sự tương tác ở
đây còn bao hàm cả sự thâm nhập, thẩm thấu từ một hệ thống thể loại này đến hệ
thống thể loại khác” [54;28]. Như vậy, hiện tượng tương tác diễn ra rất phong phú
đa dạng nhưng tựu trung có thể phân chia thành các cấp độ tương tác như sau:
tương tác giữa loại với loại, loại với thể, thể với thể, yếu tố với thể và yếu tố với yếu
tố, yếu tố với loại,… (đây là cách phân chia của Nguyễn Thành Thi, được Trần Viết
Thiện bổ sung, hoàn thiện). Tương tác giữa loại trữ tình và loại kịch tạo nên kịch
thơ, tương tác giữa tự sự và trữ tình tạo nên truyện thơ (hay tiểu thuyết bằng thơ,
như thể nghiệm của Trần Dần những năm 60 của thế kỷ XX), tương tác giữa kịch và
tự sự tạo nên kịch tự sự như kịch tự sự trong văn học phương Tây, tương tác giữa
truyện ngắn và loại trữ tình đã tạo nên truyện ngắn trữ tình hóa của Thạch Lam, Hồ
Dzếnh, Thanh Tịnh, tương tác giữa truyện ngắn và kịch tạo nên truyện ngắn kịch
hóa (truyện ngắn của Nguyễn Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Phạm Duy
Tốn…). Tương tác giữa thể với thể tạo ra những thể loại trung gian mang đặc điểm
chung của cả hai thể loại như tương tác giữa truyện ngắn và tiểu thuyết tạo nên
truyện ngắn tiểu thuyết hóa, truyện ngắn viết dài hoặc tiểu thuyết viết ngắn, tương


17
tác giữa truyện ngắn với các thể văn học ngắn như thơ tứ tuyệt, tản văn, tạo nên
những thể loại truyện mi ni, truyện cực ngắn, thơ mi ni, thơ lục bát bốn dịng…
Tương tác giữa yếu tố của nhóm thể loại này với nhóm thể loại khác tạo ra các thể
loại đan xen các thuộc tính ngồi thể loại: tương tác giữa nhóm thể loại sáng tác hư
cấu và nhóm sáng tác khơng hư cấu tạo nên các thể loại đan xen giữa các yếu tố hư
cấu với yếu tố không hư cấu (tiểu thuyết, truyện ngắn tương tác với hồi ký, ký sự,
nhật ký… tạo nên truyện ký, tự truyện, tiểu thuyết tự thuật…)
Trên thực tế, sự tương tác có thể diễn ra dưới các hình thức tiêu biểu: “1)
hình thức “tổng hợp” thể loại (thể loại hịa nhập làm một hoặc song song tồn tại);

2) hình thức “đổi ngôi” – “tiếp sức” giữa các thể loại; 3) hình thức loại bỏ, thay
thế thể loại… Hình thức thứ nhất – rất phổ biến – mang tính đồng đại; hình thức
thứ hai – với một lộ trình ít nhiều quanh co, ít phổ biến hơn – mang tính lịch đại.
Hình thức thứ ba thường diễn ra vào những thời điểm bước ngoặt mang tính cách
mạng, thay đổi phạm trù văn học của sự vận động thể loại” [54;29]. Văn học Việt Nam
sau năm 1945 đã hội đủ tất cả các hình thức của sự tương tác thể loại này. Đặc biệt với
thể loại ký, sự tương tác diễn ra với nhiều cấp độ, nhiều hình thức và nhiều kiểu.
Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, tương tác thể loại là hiện tượng
tất yếu và phổ biến, diễn ra trên nhiều cấp độ, nhiều bình diện, nhiều hệ thống,
nhiều phạm trù văn học, trên cả chiều đồng đại lẫn lịch đại. Tương tác thể loại khiến
cho văn học gần gũi với nhiều hình thái nghệ thuật khác nhau, đồng thời khẳng định
thêm tài năng của các cây bút lớn. Chính sự tương tác đã làm giàu thêm vốn liếng
văn học cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
1.2. Tùy bút Nguyễn Tuân
1.2.2. Thể loại tùy bút
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm
Nhắc đến tùy bút là nhắc đến một tiểu loại của loại hình ký. Sách 150 thuật
ngữ văn học định nghĩa: “Ký là tên gọi chung cho một nhóm thể tài nằm ở phần
giao nhau giữa văn học và ngồi văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các
loại) chủ yếu là văn xuôi tự sự, gồm các thể loại: bút ký, hồi ký, du ký, phóng sự, ký
sự, nhật ký...” [3;176]. Ký và tùy bút là hai khái niệm thuộc loại và thể loại văn học.


18
Xét về cấp độ thì ký thuộc loại lớn cịn tùy bút là một thành phần của ký. Ký thuộc
loại hình tự sự bao gồm nhiều thể như tùy bút, bút ký, phóng sự, du ký, nhật ký, hồi
ký… Có ý kiến cho rằng, tùy bút thuộc loại trữ tình, tuy nhiên, tùy bút vẫn được các
nhà nghiên cứu thống nhất xếp vào loại ký để khẳng định vai trò thứ nhất của yếu tố
tự sự còn yếu tố trữ tình chỉ đóng vai trị như một yếu tố thường trực.
Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa: “Tùy bút là một thể thuộc loại hình

ký, rất gần với bút ký, ký sự. Nét nổi bật trong tùy bút là qua việc ghi chép con
người, sự việc cụ thể có thực, tác giả chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và
nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại” [14;260]. Tùy
bút là thể loại đã định hình về đặc điểm nội dung và hình thức. Tuy nhiên, vấn đề
tương tác thể loại thường xảy ra ở thể loại này bởi tính tự do trong ngòi bút của
người sáng tác: “Tùy bút là thể văn có lối viết tương đối phóng túng, tự do. Nhà văn
theo ngọn bút đưa đẩy có thể viết từ việc này sang việc khác, từ vấn đề này sang
vấn đề khác. Ở thể loại này, nhà văn có điều kiện bộc lộ những cảm xúc chủ quan
của mình về đối tượng được phản ánh. Vì thế, cái tơi bản ngã có điều kiện bộc lộ
hết mình” [31;401].
Hơn nữa, sự hỗn dung giữa loại tự sự và trữ tình cũng là nguyên nhân khiến
cho thể loại này có thể vượt qua lằn ranh của các loại hình khác để làm phong phú
hơn cho thể loại của mình: “Một thể loại văn xuôi phái sinh từ thể ký, gần với bút
ký... nhà văn dựa vào sự lôi cuốn của cảm hứng có thể nói ra từ sự việc này sang sự
việc khác, từ liên tưởng này sang liên tưởng khác... để bộc lộ những cảm xúc,
những tâm tình, phát biểu những suy nghĩ, những nhận xét về cuộc đời và con
người... Bản ngã của nhà văn được thể hiện trong tùy bút gần như trong thơ trữ
tình. Tùy bút là thể giàu chất trữ tình nhất trong các loại ký” [5;1888].
Nguyễn La trong Cái tôi trong tùy bút cũng xác quyết về đặc điểm của tùy
bút như sau: “Đặc điểm trước hết của thể loại tùy bút là sự xuất hiện của cái tôi nhà
văn. Tùy bút là viết theo cảm hứng, nghĩ gì viết nấy, viết theo dịng cảm hứng của
mình. Ở ngơi thứ nhất, cái tơi càng hằn rõ bao nhiêu, đậm nét bao nhiêu càng dễ đi
vào lịng người bấy nhiêu. Do vậy, khơng phải ai cũng viết được tùy bút, phải là
người có tài năng, có độ từng trải, có uy tín văn học thì mới có thể viết được bài tùy


19
bút hay” [21;77]. Người viết tùy bút để lại dấu ấn cá nhân của mình trên trang viết
một cách rõ nét và hướng đến biểu hiện sự độc đáo nhất trong phong cách sáng tác
của mình. Sự tự do trong ngịi bút, tính ngẫu hứng trong sáng tạo đã làm tác phẩm

tùy bút chứa đựng phong phú vốn sống và cảm xúc của người sáng tạo.
Như vậy, tùy bút là một tiểu thể loại thuộc thể loại ký, mang đầy đủ các đặc
điểm ký: viết bằng văn xi mang tính tự do, tôn trọng sự thật và đề cao cái tơi của
người cầm bút. Thế nhưng tùy bút vẫn có những đặc điểm riêng nổi bật, không
nhầm lẫn với ký. Đặc điểm để nhận diện tùy bút trong hệ thống thể loại ký đó là sự
dẫn dắt xuyên suốt của mạch cảm xúc trữ tình, lãng mạn, thấm đẫm tâm tình của
người cầm bút, bên cạnh câu chuyện hiện thực được ghi chép một cách rõ ràng,
mạch lạc.
Từ định nghĩa về tùy bút như thế, có thể nhận diện các đặc điểm cơ bản của
thể loại này như sau:
Tùy bút là viết xuôi theo ngọn bút, tùy theo cảm xúc của tác giả. Vì vậy,
những sự việc được đưa vào đều bị chi phối bởi cái nhìn chủ quan, cảm xúc trữ tình
của tác giả. Nói như Lý Lan trong Miên man tùy bút: “Cái này không phải tự
truyện. Cái này là câu chuyện và suy nghĩ tôi viết ra trong tình huống nào đó qua
những thời gian khác nhau... Tơi sẽ gọi đó là tùy bút, để cho những câu chuyện và ý
nghĩ nối tiếp nhau không hẳn theo trình tự thời gian mà theo liên tưởng của cảm
xúc và ngẫu nhiên của ngón tay gõ trên bàn phím chữ” [30;69]. Cái tôi người cầm
bút với những đặc điểm riêng về con người cá nhân sẽ dẫn dắt nội dung theo mạch
cảm xúc, theo ấn tượng chủ quan theo vốn liếng văn hóa của mình. Qua tùy bút, ta
sẽ thấy được đặc điểm tính cách con người của tác giả, cái tạng của nhà văn: Lý Lan
tinh tế, ý nhị với những câu văn mượt mà, êm ru như làn gió, Vũ Bằng thì thấm đẫm
nỗi nhớ và tình yêu sâu sắc dành cho đất và người Việt, Xuân Diệu thì nồng nàn,
đắm đuối trong tình yêu say đắm, đam mê, Hoàng Phủ Ngọc Tường mang một sức
liên tưởng dồi dào, lối hành văn mê đắm, hài hòa... Còn Nguyễn Tn thì vừa
ngơng nghênh, vừa khinh bạc vừa cầu toàn cầu mỹ trong những thiên tùy bút trước
và sau 1945.
Mang đặc điểm của loại ký, vì vậy, các tác phẩm tùy bút đều tuân thủ theo


20

nguyên tắc là tôn trọng sự thật, sự thật đã được nhìn nhận qua lăng kính chủ quan
của người nghệ sĩ. Vì vậy, các dữ kiện được đưa ra trong tác phẩm tùy bút đều được
người đọc tin là sự thật. Khi Vũ Bằng viết về món rươi ở đồng bằng Bắc Bộ với cách
chế biến, sự sinh tồn của con rươi đều được người đọc cả nước tin đó là sự thật.
Cấu trúc của tùy bút có thể khơng bị câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể
nhưng nội dung của nó vẫn được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một tư
tưởng chủ đề nhất định xuyên suốt tác phẩm. Trong cùng một tập tùy bút, tác giả có
thể viết về nhiều đề tài, nhiều đối tượng nhưng mỗi thiên tùy bút thường thống nhất
một chủ đề, một đối tượng. Phạm Đình Hổ viết về nhiều đề tài trong Vũ trung tùy
bút như nón đội, áo mặc, giáo dục, thi cử, tang ma, hôn lễ... nhưng tất cả tựu trung
đều viết về văn hóa Việt. Đồng thời, ở mỗi thiên tùy bút đều tập trung diễn giải một
chủ đề. Bên cạnh đó là chất trữ tình thấm đẫm, nhận xét chủ quan luôn chiếm ưu thế
trong tùy bút của ông, được đánh giá cao. Chẳng hạn ở thiên Hoa thảo, Phạm Đình
Hổ viết về hoa lan và quan điểm chủ quan của ông khi bàn về cách chơi lan. Đây là
thiên tùy bút hay bậc nhất trong Vũ trung tùy bút.
Trong tác phẩm tùy bút ln có sự hiện diện của cả mạch tự sự và mạch trữ
tình. Tác giả lồng ghép xuyên thấm hai yếu tố này vào nhau để tác phẩm trở nên
mềm mại, nhuần nhụy nhưng vẫn đảm bảo được tính khách quan của sự kiện. Thạch
Lam là một trong những cây bút viết tùy bút thành công ở giai đoạn 1930 – 1945.
Với tác phẩm Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch lam đã trở thành một trong
những nhà Hà Nội học đi đầu, là người chép sử của Hà Nội bằng văn chương, bằng
cái nhìn và nhịp cảm, cặp mắt và trái tim của người nghệ sĩ, của nhà thơ nặng tình
với đất văn vật nghìn năm. Nguyễn Thành Thi khẳng định: “Giá trị nghệ thuật của
tùy bút Thạch Lam chính là sự hòa phối giữa chất thơ và chất truyện” [53;178]. Vì
vậy, để viết được những thiên tùy bút hay tác giả phải là người có sự nhạy cảm
mãnh liệt của trái tim và cả trí tuệ sáng suốt của kiến văn uyên bác.
Về ngôn ngữ, tùy bút thiên về ngôn ngữ cảm xúc nên cần có sự bóng bẩy,
đẽo gọt cẩn thận. Ngôn từ đẹp, lối hành văn mượt mà, bóng bẩy dễ dàng chinh phục
cảm xúc của người đọc. Vì thế, phần lớn những tác phẩm tùy bút thành công đều
chứa đựng ngôn từ đẹp, câu văn giàu nhạc tính, tạo được âm hưởng và tiết tấu riêng.



×