Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐỀ THI KẾT THÚC MÔN HỌC QUẢN LÝ HÀNH VI HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.72 KB, 11 trang )

ĐỀ THI KẾT THÚC MÔN HỌC
QLHV của học sinh
Thời gian làm bài: 90 phút
Câu 1: (4,0 điểm)
Tại sao nói quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng cố trong
q trình vận hành của hành vi.
Câu 2: (6,0 điểm)
Phân tích quan niệm hành vi của Bandunar? Rút ra những ứng dụng trong
quản lý hành vi lớp học ở tiểu học?
BÀI LÀM
 Câu 1: Thuật ngữ hành vi đã được xem xét bởi rất nhiều nhà nghiên cứu về
hành vi và quản lí hành vi. Theo một số nhà hành vi học thì hành vi được đề cập
đến với cả những phản ứng bên trong (như cảm giác hay cảm xúc) và những phản
ứng bên ngoài (như sự cáu giận hay gây gổ) (Rimm&Masters, 1974).
Một số nhà hành vi học khác lại quan niệm hành vi là những phản ứng ra
bên ngoài hoặc là những biểu hiện có thể quan sát và đo đạc được. Quan sát và đo
đạc được là những tiêu chí quan trọng giúp chúng ta có thể đánh giá, điều chỉnh
được hành vi, làm cho hành vi trở nên có ý nghĩa.
Những nghiên cứu về hành vi và vấn đề quản lí hành vi trong giáo dục quan
niệm hành vi là những phản ứng của trẻ mà giáo viên và cha mẹ có thể quan sát
được và có thể điều chỉnh. Những yếu tố bên trong là những yếu tố khơng thể quan
sát được những có tác dụng chi phối hoặc là nguyên nhân dẫn đến hành vi. Tóm
lại, có thể hiểu hành vi là cách biểu hiện ra bên ngồi của mỗi cá thể đối với các
kích thích.
Mặc dù sự củng cố thường được hiểu là “phần thưởng”, thuật ngữ này có
một ý nghĩa đặc biệt trong tâm lý học. Một củng cố là hệ quả bất kỳ làm tăng
cường các hành vi theo sau nó. Vì vậy, theo định nghĩa, những hành vi được củng
cố tăng lên theo tần số hoặc thời gian. Bất cứ khi nào bạn nhìn thấy một hành vi
vẫn đang tiếp tục hoặc gia tăng theo thời gian, bạn có thể giả định những hệ quả
của hành vi đó là củng cố cho các cá nhân liên quan. Quá trình củng cố có thể được
biểu diễn bằng biểu đồ sau:


           HỆ QUẢ                                    TÁC ĐỘNG
         Hành vi  =>  Củng cố  =>  Hành vi được tăng cường hoặc lặp lại
Có hai loại củng cố.


Đầu tiên, được gọi là củng cố tích cực, xảy ra khi các hành vi tạo ra các kích
thích mới. Ví dụ như mổ trên phím màu đỏ tạo ra thức ăn cho chim bồ câu, mặc
một bộ đồ mới sản xuất nhận được nhiều lời khen ngợi, hoặc ngã ra khỏi chiếc ghế
của bạn tạo ra những cổ vũ và tiếng cười từ các bạn cùng lớp.
Chú ý rằng củng cố tích cực có thể xảy ra ngay cả khi hành vi đã được củng
cố (ngã ra khỏi một chiếc ghế) khơng phải là “tích cực” từ quan điểm của giáo
viên. Trong thực tế, củng cố tích cực của các hành vi không phù hợp xảy ra một
cách vô tình trong nhiều lớp học. Giáo viên giúp duy trì các hành vi có vấn đề bằng
cách vơ tình củng cố chúng.
Khi hệ quả làm tăng cường một hành vi là sự xuất hiện (thêm) của một kích
thích mới, tình huống này được định nghĩa là củng cố tích cực. Ngược lại, khi các
hệ quả làm tăng cường một hành vi là sự biến mất (trừ) của một kích thích, quá
trình này được gọi là củng cố tiêu cực. Nếu một hành động cụ thể dẫn đến việc
tránh hoặc thoát ra một tình huống khó chịu, hành động đó có thể được lặp đi lặp
lại trong một tình huống tương tự.
Một ví dụ phổ biến là cịi xe thắt dây an tồn của ơ tơ. Ngay sau khi bạn thắt
dây an tồn, tiếng cịi khó chịu dừng lại. Bạn có khả năng lặp lại hành vi này (thắt
dây an toàn) trong tương lai bởi vì hành động được thực hiện dẫn đến một kích
thích khó chịu (cịi) biến mất.
Xem xét những học sinh liên tục “bị ốm” ngay trước một bài kiểm tra và
được gửi đến phòng y tế. Hành vi cho phép các học sinh thốt khỏi tình huống khó
chịu là các bài kiểm tra, do đó, việc “ốm” là đang được duy trì, một phần, thơng
qua củng cố tiêu cực. Nó là tiêu cực do việc kích thích (bài kiểm tra) biến mất; đó
là củng cố bởi vì hành vi gây ra kích thích dẫn đến việc biến mất (“ốm”) tăng hoặc
lặp đi lặp lại. Nó cũng có thể do điều kiện hóa cổ điển đóng một vai trị. “Tiêu cực”

trong củng cố tiêu cực khơng có nghĩa là hành vi được củng cố nhất thiết phải là
tiêu cực hay xấu (theo nghĩa xã hội). Ý nghĩa gần hơn của “tiêu cực” tức là một cái
gì đó đã bị loại trừ. Kết hợp củng cố tích cực và tiêu cực với cách thêm hoặc loại
trừ một cái gì đó theo sau một hành vi cái mà làm tăng cường (củng cố) hành vi.
Đối với các nhà tâm lí học hành vi (J.Watson, B.Skinnrer, A. Bandura), yếu
tố quyết định việc hình thành, điều chỉnh hay làm mất hành vi là củng cố. Vì vậy,
quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng cố trong q trình vận hành
của hành vi.
Câu 2: Phân tích quan niệm hành vi của Bandunar? Rút ra những ứng dụng
trong quản lý hành vi lớp học ở tiểu học?
1. Phân tích quan niệm hành vi của Bandunar :


Hành vi hình thành qua quan sát gắn liền với tên tuổi nhà tâm lí học
Bandura. Hơn 30 năm trước, Albert Bandura ghi nhận rằng những quan điểm hành
vi truyền thống về học tập là chính xác – nhưng khơng đầy đủ – bởi vì chúng chỉ
đưa ra một phần lời giải thích về học tập và đã bỏ qua các yếu tố quan trọng, đặc
biệt là ảnh hưởng của xã hội. Nghiên cứu đầu tiên của ông về hành vi được căn cứ
vào các nguyên tắc hành vi của củng cố và trừng phạt, nhưng ông cũng tập trung
vào học tập qua quan sát những cá nhân khác. Quan điểm này được gọi là thuyết
hành vi học tập xã hội; nó được coi là một cách tiếp cận của chủ nghĩa hành vi.
Một ví dụ được tìm thấy trong một trong những nghiên cứu ban đầu
của Bandura và cộng sự (1961). Trẻ em mẫu giáo được cho xem một video về mơ
hình hành vi đá và đấm búp bê bằng hơi “Bobo”.
Nhóm thứ nhất quan sát người lớn có hành vi gây hấn (aggression) khi
chơi với búp bê Bobo (Búp bê bằng nhựa được bơm hơi); nhóm thứ hai quan sát
người lớn chơi với búp bê Bobo mà không có hành vi gây hấn (non-aggression); và
các đối tượng trong nhóm đối chứng khơng tiếp xúc với hai tình huống ở trên
(Bandura và cộng sự, 1961). Kết quả là, nhóm trẻ em thứ nhất (nhóm mà đã nhìn
thấy những hành vi đấm và đá búp bê được củng cố thông qua phần thưởng trên

video) là có những hành vi gây hấn mạnh mẽ nhất đối với búp bê trong phịng.
Nhóm thứ 2 ít có hành vi gây hấn nhất đối với búp bê có trong phịng. Nhưng khi
trẻ được hứa có phần thưởng cho việc bắt chước hành vi gây hấn của mơ hình hành
vi mẫu, tất cả chúng đã đã chứng minh rằng chúng đã học được hành vi.
Vì vậy, khuyến khích có thể ảnh hưởng đến sự thực hiện. Mặc dù
hành vi có thể đã xảy ra, nó có thể khơng được thể hiện ra cho đến khi gặp tình
huống thích hợp hoặc có những khuyến khích để thực hiện. Điều này có thể giải
thích tại sao một số học sinh không thực hiện“những hành vi xấu”như chửi thề hay
hút thuốc mà họ nhìn thấy ở người lớn, bạn bè và các phương tiện truyền thông.
Những hậu quả mà cá nhân có thể gặp phải khơng khuyến khích họ thực hiện
những hành vi đó.
 Trong ví dụ khác, trẻ em có thể học được cách viết bảng chữ cái,
nhưng việc viết của trẻ lại kém vì sự phối hợp vận động tinh của chúng bị hạn chế,
hoặc chúng có thể học được cách làm thế nào để rút gọn phân số, nhưng khi chúng
làm bài kiểm tra lại kém bởi vì chúng cảm thấy lo lắng. Trong những trường hợp
này, những gì trẻ biểu hiện ra bên ngồi khơng phải là một dấu hiệu của học tập.
Gần đây Bandura đã tập trung vào các yếu tố nhận thức như niềm tin, tự
nhận thức và kỳ vọng, vì vậy lý thuyết của ông được gọi là lý thuyết nhận thức xã
hội (Hill, 2002). Lý thuyết nhận thức xã hội (được thảo luận kỹ lưỡng hơn trong
chương 9 và 10) phân biệt giữa học tập thông qua trải nghiệm và học tập trực quan.


Học tập thông qua trải nghiệm là học tập bằng việc vừa làm vừa trải nghiệm những
hệ quả mà các hành động của bạn đem lại.
Điều này dường như giống với điều kiện hóa kết quả, nhưng khơng phải, và
sự khác biệt là ở vai trò của các hệ quả. Những người ủng hộ điều kiện hóa kết quả
tin rằng hệ quả làm tăng cường hoặc làm suy yếu hành vi. Trong học tập thông qua
trải nghiệm, hệ quả được coi nguồn là cung cấp thông tin.
Học tập quan sát hành vi là học bằng cách quan sát những người khác.
Người và động vật có thể học chỉ bằng cách quan sát người hoặc động vật khác.

Nếu con người có thể học tập bằng cách quan sát, họ phải tập trung sự chú ý của
mình, xây dựng hình ảnh, ghi nhớ, phân tích, và đưa ra quyết định có ảnh hưởng
đến học tập. Vì vậy, nhiều khi những hiện tượng tâm lý xảy ra trong não như sự tập
trung chú ý, ghi nhớ…xuất hiện trước khi việc thực hiện và củng cố của hành động
diễn ra – học tập bằng cách quan sát những người khác.
*Các yếu tố của học tập hành vi qua quan sát trực quan:
Thông qua học tập trực quan, chúng ta không chỉ học cách thực hiện một
hành vi như thế nào mà còn xem xét những hệ quả sẽ xảy ra nếu thực hiện hành vi
đó trong một tình huống cụ thể. Quan sát có thể là một quá trình học tập rất hiệu
quả. Lần đầu tiên trẻ cầm lược chải tóc, chiếc cốc, hay vợt tennis, chúng thường
chải, uống hoặc đánh như chúng có thể làm, liên quan đến sự phát triển và phối
hợp các cơ bắp của chúng. Bandura (1986) lưu ý rằng học tập bằng quan sát hành
vi gồm 4 yếu tố: chú ý, giữ lại, lặp lại và động cơ.
-

Sự chú ý:

       Để học tập thông qua quan sát, chúng ta phải chú ý. Trong giảng dạy,
GV sẽ phải đảm bảo sự chú ý của học sinh vào các điểm quan trọng của bài học
bằng cách làm cho bài giảng rõ ràng và làm nổi bật các điểm quan trọng. Trong thể
hiện một kỹ năng cụ thể (ví dụ như, việc vận hành máy tiện), GV cần phải cho học
sinh nhìn thấy khi bạn thực hiện kỹ năng đó. Học sinh quan sát cách thức bạn thực
hiện các kỹ năng trong những tình huống cụ thể cũng giống như học sinh hướng sự
chú ý của mình vào tình huống đó sẽ làm cho việc học tập trực quan trở nên dễ
dàng hơn.
-

Duy trì:

       Để bắt chước hành vi mẫu, bạn phải nhớ rõ nó. Điều này liên quan đến

hiện tượng tâm lý đại diện cho hành vi mẫu theo một cách nào đó, có lẽ là các
bước bằng lời nói (Ví dụ, giáo viên karate nói với một học sinh: “Hwa-Rang, chiêu
thức thứ 8 trong võ karate, là di chuyển gót chân, sau đó là một cú đấm, sau
đó…”), hoặc hình ảnh trực quan hoặc duy trì cả hai. Việc duy trì có thể được cải
thiện bằng cách luyện tập bằng tưởng tượng (tưởng tượng bắt chước hành vi) hoặc


bằng cách thực hành thực tế. Trong giai đoạn duy trì học tập trực quan, việc thực
hành giúp chúng ta nhớ các yếu tố của hành vi mong muốn được duy trì, chẳng hạn
như trình tự thực hiện các bước.
-

Hình thành:

       Một khi chúng ta “biết” cách quan sát và ghi nhớ các yếu tố hoặc các
bước của một hành vi được thực hiện như thế nào, chúng ta vẫn khơng thể thực
hiện hành vi đó thành thạo. Đơi khi, chúng ta cần thực hành nhiều, có được phản
hồi, và luyện tập các điểm cần lưu ý trước khi chúng ra có thể lặp lại hành vi mẫu.
Trong giai đoạn hình thành, thực hành làm cho hành vi trôi chảy và thành thạo hơn
nữa.
-

Động cơ và củng cố:

       Như đã đề cập trước đó, lý thuyết học tập xã hội phân biệt giữa sự tiếp
nhận và sự thực hiện. Chúng ta có thể có được một kỹ năng mới thông qua quan
sát hành vi, nhưng chúng ta có thể khơng thực hiện hành vi đó cho đến khi có một
động cơ thúc đẩy để thực hiện hành vi đó. Củng cố có thể đóng một số vai trò
trong học tập trực quan. Nếu chúng ta dự đoán trước được củng cố cho việc bắt
chước các hành động mẫu, chúng ta có thể có thêm động cơ để chú ý, ghi nhớ và

sao chép hành vi.
Ngoài ra, củng cố rất quan trọng trong việc duy trì học tập. Một người thử
một hành vi mới khác với việc tiếp tục một hành vi mà không cần củng cố
(Ollendick, Dailey & Shapiro, 1983; Schunk, 2004). Ví dụ, nếu một học sinh muốn
được gia nhập một nhóm nào đó bằng cách bắt chước cách mặc trang phục của
nhóm đó, nhưng học sinh này vẫn bị nhóm bỏ qua và chế nhạo, thì khơng chắc
rằng việc bắt chước mặc trang phục giống nhóm ở học sinh này vẫn cịn tiếp tục.
 Bandura xác định 3 hình thức củng cố có thể khuyến khích học tập thơng
qua quan sát. Đầu tiên, tất nhiên, người quan sát có thể sao chép hành vi mẫu và
tăng cường củng cố trực tiếp, ví dụ, một người tập thể thao thực hiện thành công
một cú nhào lộn kết hợp và người huấn luyện viên nói “Tuyệt vời!”.
Nhưng củng cố khơng cần phải trực tiếp – nó có thể là củng cố gián tiếp.
Người quan sát có thể chỉ đơn giản là nhìn thấy những người khác được củng cố
cho một hành vi cụ thể, sau đó bản thân người quan sát sẽ tăng việc thực hiện hành
vi đó với mục đích mong muốn nhận được củng cố tương tự.
Ví dụ: nếu bạn khen 2 học sinh đã có những minh họa thú vị trong báo cáo
về kết quả ở phịng thí nghiệm của chúng, một số học sinh khác, những người đã
quan sát lời khen của bạn có thể sẽ có những minh họa cho báo cáo kết quả ở
phịng thí nghiệm của mình. Hầu hết các quảng cáo trên truyền hình hy vọng có
được dạng hiệu quả tương tự, ví dụ, người mẫu trong video quảng cáo trở nên vô


cùng hạnh phúc khi họ lái một chiếc xe hay uống nước ép trái cây, và người xem
nghĩa rằng họ sẽ làm điều tương tự; hành vi của người xem được củng cố gián tiếp
bởi niềm vui được biểu hiện rõ ràng của các diễn viên trong video. Trừng phạt
cũng có thể gián tiếp: bạn có thể đi chậm trên đường cao tốc sau khi nhìn thấy một
số người phải nhận vé phạt khi lái xe ở tốc độ tương tự.
       Hình thức cuối cùng của củng cố là tự củng cố, hoặc kiểm soát các yếu
tố củng cố của riêng bạn. Loại củng cố này quan trọng đối với cả học sinh và giáo
viên. Chúng ta muốn học sinh của chúng ta cải thiện khơng phải vì việc đó dẫn tới

phần thưởng bên ngồi, mà bởi vì giá trị và năng lực của học sinh sẽ phát triển. Và
là một giáo viên, đôi khi tự củng cố là tất cả những gì giúp bạn phát triển.
học):

* Những ứng dụng trong quản lý hành vi lớp học ở tiểu học là (môn Tin

       – Sự chú ý: Giáo viên cần phải hướng học sinh tập trung sự chú ý vào
nội dung chính của bài học.
        Ví dụ: Bài Luyện tập gõ phím với phần mềm RapidTyping (Lớp 3 sách
Chân trời sáng tạo).
       – Học sinh được làm quen với phần mềm RapidTyping, thực hành luyện
gõ bàn phím 10 ngón với phần mềm RapidTyping.
       – Học sinh cần phải thực hiện được các thao tác: tập cách đặt tay lên bàn
phím và tập gõ phím.
       – Duy trì: + Giáo viên làm mẫu hoặc đưa video, hình ảnh động làm
mẫu, học sinh lên làm thử,…
học.

       – Hình thành: + Đưa ra các bài tập để học sinh củng cố kiến thức đã

       – Động cơ và củng cố: Thúc đẩy sự yêu thích tin học bằng cách cho
học sinh làm bài tập thực hành hàng ngày, hướng dẫn các em hoặc phụ huynh cài
đặt trên máy tính ở nhà cho các em,


TÀI LIỆU THAM KHẢO: Tình huống sư phạm
Học sinh chê bài giảng của giáo viên
Cập nhật: 08/03/2008
Là một giáo viên mới ra trường, tình cờ bạn nghe được hai học sinh đi trước đang nói chuyện và
có ý chê bai bài giảng của bạn vừa nông cạn, vừa kém hấp dẫn. Trong tình huống đó, bạn sẽ làm

gì?
1. Lờ đi như khơng nghe thấy họ nói gì và đi tiếp.
2. Đi vượt lên trên và hỏi “Hai em trò chuyện gì mà vui thế?” nhằm chấp dứt câu
chuyện “bn dưa lê” lung tung, phê phán giáo viên không đúng chỗ và cũng là để
“nhắc khéo” cho chúng biết bạn đã nghe thấy.
3. Khơng phản ứng gì vội mà chú ý lắng nghe hết câu chuyện xem hai học sinh đó phàn
nàn về vấn đề gì. Khi biết được thơng tin, bạn có thể xem lại cách dạy của mình cho
phù hợp. Buổi lên lớp sau bạn gợi ý lại vấn đề bằng cách hỏi các em về cách dạy của
mình và “vơ tình” mời một trong hai em hơm qua lên phát biểu. Sau đó bạn hứa sẽ tiếp
thu và nhắc nhở các em nên nói chuyện một cách trực tiếp, thẳng thắn với giáo viên,
khơng nên biến nó thành những câu chuyện phiếm sau lưng các thầy cô.
*************
Việc bàn tán về các thầy cô giáo dường như đã là một “căn bệnh mãn tính” của học
sinh. Nào là cơ này xinh, cô kia xấu, cô này ăn mặc “model”, thầy kia có nụ cười dun,
đơi mắt đẹp, rồi cơ kia có dáng đi “hãm tài”… vơ vàn những “đặc điểm” của các thầy cô
trở thành đề tài cho các cuộc bàn luận sôi nổi ở mọi lúc mọi nơi. Là một giáo viên trẻ
bạn nên “làm quen” dần với điều này và đơi khi cũng phải coi nó là “chuyện thường
ngày ở huyện” nên không cần để ý.
Nhưng lần này bạn vơ tình nghe thấy câu chuyện về cách giảng bài của bạn. Khơng thể
bỏ ngồi tai được rồi. Là một giáo viên trẻ mới về trường, bạn luôn có tâm lý lo lắng,
“nghe ngóng” xem có ai bàn tán gì về cách dạy của mình khơng? Phương pháp truyền
đạt của mình đã thực sự phù hợp chưa?... Vì vậy khi nghe lời phàn nàn dù không trực
tiếp và chưa chắc đã chính xác này cũng làm bạn giật mình. Bạn sẽ “hành động” ngay
lập tức bằng cách đi vượt lên trên và ra tín hiệu cho chúng biết là bạn đã nghe thấy, và
“liệu hồn” mà chấm dứt ngay. Điều đó cũng cần thiết để ngăn chặn việc nói năng về
giáo viên khơng đúng chỗ, nhưng cũng chỉ là giải pháp tạm thời mà thôi. Biết đâu khi
bạn đi qua rồi chúng cịn bàn tán nhiệt tình hơn thì sao!
Hay bạn sẽ bỏ qua vì cho rằng đó chỉ là những câu chuyện thường ngày, chẳng có gì lạ
của học sinh, không đáng phải bận tâm. Nếu nghĩ như vậy e rằng bạn đã quá chủ
quan. Vì biết đâu những lời nói đó lại phản ánh đúng sự thật, một sự nhận xét rất cần

thiết để bạn tiến bộ mà khơng bao giờ bạn có thể nghe một cách trực tiếp.
Vì thế hãy thận trọng và bình tĩnh hơn, cố gắng lắng nghe hết những điều mà hai học
sinh đó đang “trị chuyện” về mình (mặc dù phải nói thẳng rằng “nghe trộm” câu chuyện
của người khác là việc làm hơi xấu, bạn khơng nên vận dụng nó một cách thường
xun). Sau đó bạn chắt lọc thơng tin và xem lại cách dạy của mình xem có gì chưa ổn
và tìm cách khắc phục. Nhưng điều này địi hỏi sự điềm tĩnh, biết lắng nghe và thấu


hiểu học sinh mà không phải giáo viên nào cũng có được. Thái độ ln sẵn sàng tiếp
thu để thay đổi rất cần thiết cho những giáo viên trẻ muốn cải thiện khả năng giảng dạy
của mình.
Và trong buổi học hôm sau chắc chắn bạn phải dành ra một khoảng thời gian để thẩm
định lại thơng tin. Bạn có thể bắt đầu vấn đề một cách nhẹ nhàng cởi mở: “Như các em
biết cô là một giáo viên trẻ, mới ra trường nên kinh nghiệm nghề nghiệp còn rất non
nớt. Chính vì vậy cách giảng bài của cơ chắc chắn sẽ còn những chỗ chưa sâu sắc,
chưa phù hợp. Trước hết cô mong các em hiểu và thông cảm cho cơ. Nhưng điều cơ
mong muốn hơn đó là các em sẽ góp ý, giúp đỡ cơ để cơ có thể thay đổi. Nếu các em
khơng cho cơ biết thì trước hết người thiệt thòi sẽ là các em. Các em hồn tồn có
quyền phát biểu thẳng thắn những suy nghĩ của mình vì mục đích xây dựng, cơ rất cảm
ơn và trân trọng những ý kiến đó”. Dừng một lát để học sinh có thời gian để suy nghĩ
nghiêm túc về vấn đề này, bạn có thể tiếp tục bằng cách mời các em phát biểu. Nhân
cơ hội này bạn cũng nên “đánh tiếng” cho hai em học sinh hôm qua đã bàn tán sau
lưng bạn là bạn đã biết các em “nói xấu” về bạn bằng cách “vơ tình” gọi một trong hai
lên trình bày ý kiến của mình. Kết thúc buổi thảo luận đó, bạn cần phải chốt lại vấn đề
và không quên nhắc nhở các em: “Cô rất vui vì hơm nay các em đã nói lên những suy
nghĩ của mình. Cơ hứa sẽ có sự điều chỉnh để phù hợp với các em hơn. Cơ trị chúng
ta cùng phấn đấu vì một kết quả tốt đẹp nhất. Nhưng cơ mong rằng lần sau có vấn đề
gì các em hãy cứ trao đổi thẳng thắn với các thầy cơ giáo, đừng e ngại điều gì cả. Đó là
quyền lợi chính đáng của các em. Tuyệt đối khơng nên đem những vấn đề đó ra bàn
tán, nếu “chẳng may” các thầy cô biết được sẽ nghĩ không hay về các em”.

Sau cuộc trị chuyện vừa chân tình vừa nghiêm khắc ấy, chắc chắn học sinh sẽ cảm
phục bạn hơn khơng chỉ vì bản lĩnh của một cơ giáo trẻ mà cịn vì sự cởi mở, tinh thần
cầu tiến, khơng tự ái cá nhân, ln phấn đấu vì tương lai của học trò.
Học sinh mất tiền trong lớp
Cập nhật: 26/02/2008
Hồi trống báo hiệu bắt đầu tiết học thứ hai vang lên, tôi bước vào lớp. Nhưng bài học mới chỉ bắt
đầu được vài phút thì một em học sinh đứng lên thất thanh: “Thưa… ưa… ưa… cô em bị mất
tiền. Em mang tiền đi đóng quỹ lớp mà sau giờ ra chơi em vào thì đã khơng thấy đâu".
Cả lớp nhốn nháo, em học sinh khơng ngừng khóc. Vào hồn cảnh của tơi lúc đó bạn
sẽ làm gì?
1. Bạn yêu cầu học sinh đó ngồi xuống và nói: “Tiền em mang đi thì phải cất giữ cẩn
thận, bây giờ trót mất rồi cơ biết làm thế nào”, và khun em đó đành cho qua vì cũng
khơng đáng là bao.
2. Bạn dừng ngay bài giảng của mình và tiến hành truy tìm thủ phạm.
3. Bạn ân cần nói với học sinh cứ bình tĩnh ngồi xuống tiếp tục học. Sau đó bạn cố
gắng kết thúc bài sớm, dành ra 10 - 15 phút để giải quyết vấn đề của em. Bạn sẽ dùng
lời lẽ nghiêm khắc nhưng ân cần để thuyết phục em học sinh nào đã trót lấy tự giác trả
lại cho bạn.
**********


Đây là vấn đề liên quan đến chuyện tiền bạc nên các em không thể tự giải quyết mà
chắc chắn sẽ tìm đến sự giúp đỡ của giáo viên. Và dù số tiền đó là ít hay nhiều thì bạn
vẫn phải đứng ra phân giải để chấm dứt ngay hiện tượng lấy trộm tiền của nhau trong
lớp học.
Nhưng ngặt một nỗi đây là chuyện đã xảy ra trong giờ ra chơi, không một ai để ý nên
chắc chắn không hy vọng gì có được nhân chứng. Chính vì thế nhiều giáo viên đã chọn
cách xử lý 1 vì như thế bạn cũng khơng mất thời gian đi “mị kim đáy bể” mà lại làm mất
tiết học của cả lớp. Và một số tiền “không đáng bao nhiêu” ấy bạn khuyên em nên về
nhà xin lại bố mẹ. Nhưng như thế là bạn đã cố tình làm ngơ để cho tật xấu trộm cắp

tiền của bạn bè ngang nhiên tồn tại trong lớp học. Và lần sau biết đâu lại là một em học
sinh khác cũng kêu mất tiền! Bạn khuyên em nên cho qua vì theo suy nghĩ của bạn nó
chẳng đáng bao nhiêu. Nhưng bạn có nghĩ đến tình huống phụ huynh học sinh sẽ nghĩ
gì khi con họ thông báo là bị mất tiền ngay ở trong lớp học mà cơ giáo khơng có biện
pháp gì. Cịn nữa nếu đó là một em có hồn cảnh gia đình khó khăn thì khoản tiền đó
cũng đáng kể đấy chứ!
Cũng có nhiều người cho rằng đây là vấn đề rất nghiêm trọng ở lứa tuổi học trò nên
cho dừng ngay tiết học và truy tìm thủ phạm. Trong tình huống mất tiền khơng rõ ràng
như thế liệu bạn có chắc chắn vào khả năng “phá án” của mình? Bạn có nghĩ đến
trường hợp sau một thời gian căng thẳng cố gắng đến mấy bạn cũng khơng thể tìm ra
thì tính sao đây? Uy tín của bạn ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng, và cả lớp mất một tiết học,
chịu đựng khơng khí căng thẳng nghi ngờ lẫn nhau mà vấn đề vẫn không được giải
quyết. Đành rằng phương án xử lý này có thể nói lên trách nhiệm và sự quan tâm đến
các vấn đề trong lớp học của bạn nhưng nó sẽ đẩy bạn vào nhiều tình huống khó xử
khác và bạn rất dễ vận dụng những biện pháp “rắn” khơng cần thiết. Vì bạn nên biết
rằng ở lứa tuổi này các em thường rất sợ bị dư luận tập thể lên án, coi thường, thậm
chí hắt hủi vì tội trộm cắp tài sản của bạn là tật xấu khơng thể bỏ qua. Nên mặc dù có
thể đã “trót cầm nhầm” nhưng vì bạn đang truy xét đến cùng và rất gay gắt nên em đó
sẽ tìm mọi cách để tẩu tán “tang vật” chứ không bao giờ để bạn phát hiện ra.
Việc cần làm trước tiên trong tình huống này là bạn phải trấn an em học sinh đó để em
khơng hoảng hốt. Bạn có thể nói: “Cơ rất hiểu sự lo lắng của em nhưng em cứ bình
tĩnh, đã có cơ ở đây. Nhưng bây giờ đang là tiết học, chắc em cũng khơng muốn vì việc
riêng của mình mà ảnh hưởng đến tất cả các bạn trong lớp. Cô hứa sau tiết học này cô
sẽ giải quyết giúp em”. Đó cũng có thể coi là “kế hỗn bình” để bạn có thời gian suy
nghĩ tìm ra giải pháp tối ưu nhất. Sau đó bạn cố gắng kết thúc bài giảng của mình sớm,
dành ra một khoảng thời gian để giải quyết vấn đề. Trước tiên bạn nên khuyên em học
sinh đó xem xét lại thật kỹ xem có thật sự là mất tiền khơng và có thể là mất ở đâu đó
sau đấy mới đến lớp. Nếu sau khi em đã xem xét kỹ và khẳng định với bạn rằng đã mất
trong lớp học thì vấn đề lại trở nên khá nghiêm trọng rồi đấy! Lúc này bạn cần giữ một
thái độ bình tĩnh, ơn tồn để nói chuyện với các em học sinh trong lớp. Bằng những lời lẽ

nhẹ nhàng, có sức thuyết phục, bạn “kêu gọi” tinh thần tự giác của các em: “Cô biết lớp
ta từ trước đến nay rất thương yêu nhau, đồn kết và ln giúp đỡ nhau trong mọi lĩnh
vực. Chính vì vậy cơ tin khơng bao giờ có trường hợp lấy trộm tiền hay tài sản của
nhau. Hôm nay bạn A có mất một số tiền. Tuy đối với nhiều em đó khơng phải là một
điều gì to tát cả, nhưng trong điều kiện hoàn cảnh nhà bạn A rất khó khăn để có thể
thuyết phục bố mẹ cho lại. Vậy các em thử đặt vào hoàn cảnh của bạn A, các em sẽ


hiểu và cảm thông với bạn. Cô mong rằng nếu bạn nào đã “trót” cầm hay nhặt được
tiền của bạn thì cho bạn xin lại. Nếu khơng muốn đưa trực tiếp cho bạn thì có thể lên
gặp cơ để nộp quỹ cho bạn A. Cô sẽ rất cám ơn và đánh giá cao sự trung thực ấy. Các
em biết không, thực ra cô không thiếu cách để truy xét các em đến cùng nhưng cơ đã
khơng làm như vậy, vì cơ biết các em khơng bao giờ muốn điều đó và điều quan trọng
là cơ tin vào tình cảm của các em dành cho bạn bè cùng lớp học”.
Những lời lẽ chí tình ấy của bạn chắc chắn sẽ khiến các em tơn trọng và em nào đã trót
phạm lỗi cũng có thêm dũng khí để nhận lỗi, vì em tin tưởng rằng cô sẽ không bao giờ
mạt sát, phê bình em gay gắt và em vẫn có thễ giữ được tình cảm và sự tơn trọng của
các bạn trong lớp mặc dù mình đã phạm tội.
Khi học sinh đến muộn
Cập nhật: 08/02/2008
Bạn đang say sưa giảng bài thì một học sinh đi học muộn xin vào lớp làm cắt ngang bài giảng
của bạn. Lúc này giờ học đã bắt đầu được 15 phút. Bạn bực mình vì bị mất hứng. Vậy bạn xử lý
như thế nào?
1. Bạn hỏi “Tại sao bây giờ mới đến, có biết vào học từ mấy giờ khơng?” rồi mới nói với giọng
bực tức: “Vào đi”
2. Nhất định không cho học sinh vào lớp, phạt đứng ngoài cửa đến hết tiết học mới được vào lớp.
3. Nhẹ nhàng ra hiệu cho học sinh vào lớp, tiếp tục giảng bài bình thường rồi hết tiết học mới gọi
học sinh lên, tìm hiểu nguyên nhân đi học muộn của em ấy rồi nhắc nhở.
**********
Học sinh đi học muộn là điều rất thường gặp, có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan,

do đó cũng khơng nên làm to chuyện, xử lý quá nghiêm khắc và gay gắt. Ngay cả bạn, là giáo
viên, chắc bạn cũng không thể cam đoan bạn sẽ không bao giờ đi muộn. Nếu ngày hôm trước
bạn cương quyết không cho học sinh đi muộn được vào lớp mà ngay ngày hôm sau chính bạn lại
có việc đột xuất phải đến muộn thì bạn phải làm thế nào? Đừng để học sinh cho rằng bạn cậy
mình là giáo viên nên khơng ai dám phê bình bạn, bạn được quyền đi muộn cịn học sinh thì
khơng!
Do vậy, bạn khơng thể ứng xử như cách hai, khăng khăng không cho học sinh vào lớp hoặc phạt
học sinh đứng ngoài cửa đến hết tiết học mới được vào lớp. Làm như thế, học sinh sẽ không tiếp
thu được bài giảng và bạn cũng không thể tập trung giảng bài được. Nếu để học sinh lang thang
ở ngồi thì có điều gì xảy ra, bạn sẽ phải chịu trách nhiệm. Còn nếu phạt em ấy đứng ở cửa lớp
thì thật khơng hay, những giáo viên khác đi qua sẽ thắc mắc, còn học sinh trong lớp cũng sẽ bị
phân tâm, để ý và cười em bị phạt ở ngồi chứ khơng chú ý vào bài giảng nữa.
Nếu bạn chọn cách thứ nhất, bạn sẽ làm mất thời gian vơ ích, lại làm mất hứng giảng bài của
chính bạn và làm mất sự tập trung chú ý của học sinh, làm khơng khí lớp học căng thẳng và em
học sinh bị mắng cũng ấm ức.
Bạn chỉ nên nhẹ nhàng ra hiệu cho học sinh vào lớp bằng cách gật nhẹ rồi tiếp tục giảng bài bình
thường. Như vậy, giờ giảng vẫn được tiếp tục, không bị gián đoạn và học sinh cũng khơng có gì
để bàn tán, phân tán sự chú ý. Hết tiết học, bạn hãy gọi em học sinh lên, tìm hiểu nguyên nhân đi
học muộn của em ấy rồi nhắc nhở, động viên, khuyến khích em ấy đi học đúng giờ. Bạn cũng


nên nhắc học sinh mượn vở các bạn khác để xem lại phần bài học em khơng được nghe vì đi
muộn. Nếu em ấy thường xuyên đi học muộn như vậy, bạn phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc
hơn như báo với giáo viên chủ nhiệm hoặc gặp gia đình để nhắc nhở em đi học cho nghiêm túc.
Bạn cũng có thể nhờ các em ở gần nhà qua rủ em đó đi học cùng. Đối với cả lớp, cũng nên nhắc
nhở các em đi học cho đúng giờ, chấp hành kỷ luật của nhà trường. Phải tỏ ra nghiêm khắc để
học sinh hiểu rằng bạn sẽ không dễ dàng bỏ qua cho những học sinh không chấp hành kỷ luật.
Một tình huống khó xử trong phịng thi
Cập nhật: 22/01/2008
Trong phịng thi có một em học sinh là con của vị giám đốc cơ quan chồng bạn đang công tác, bị

bắt quả tang đang quay cóp bài và thậm chí cịn có lời lẽ thiếu lễ phép với giám thị. Bạn cũng có
mặt ở đó. Vậy bạn sẽ ứng xử sao đây?
1. Quay đi chỗ khác coi như không biết hoặc vì khơng thuộc quyền hạn giải quyết của mình.
2. Bạn cố gắng xin giám thị tha cho em đó chỉ vì “đó là con của một nhân vật rất quan trọng ở cơ
quan chồng bạn”.
3. Bạn kiên quyết để cho giám thị xử lý theo đúng nguyên tắc, đồng thời giải thích cho em đó
biết mức độ vi phạm của mình và có hướng khắc phục. Nhưng để không gây căng thẳng trong
mối quan hệ của bạn và em đó, đồng thời tránh tiếng “thấy người quen mà khơng giúp”, bạn có
thể nói với em là bạn sẽ nói với Hội đồng kỷ luật nâng đỡ em nếu như em thực sự có quyết tâm
khắc phục khuyết điểm.
**********
Trong mối quan hệ xã hội chồng chéo, phức tạp như hiện nay thì tình huống của người giáo viên
này khơng phải là hiếm gặp. Nếu là người nhà ruột thịt của bạn thì cịn dễ vì dù sao họ cũng có
thể thơng cảm được. Đằng này lại là con của một vị lãnh đạo trong cơ quan chồng bạn, có thể rất
có ảnh hưởng đến con đường cơng danh của anh ấy. Có khi chỉ cần sự “quan tâm, tạo điều kiện”
của bạn đối với học sinh thì biết đâu phụ huynh của em đó sẽ cho chồng bạn những cơ hội thuận
lợi. Nhưng cũng vì thế mà chỉ cần thái độ khơng “thiện chí hợp tác” của bạn cũng có thể gây khó
khăn cho anh ấy. Vậy bạn phải xử lý thật khéo léo để không phá vỡ nguyên tắc trong việc giáo
dục học sinh nhưng cũng không làm tổn hại đến mối quan hệ của chồng mình.
Nhiều người sẽ chọn phương án 1. Đó là cách rút lui an tồn nhất để phụ huynh cũng khơng thể
có gì trách cứ bạn. Nhưng bạn có tính đến trường hợp học sinh đó đã nhìn thấy bạn và biết rằng
bạn đã cố tình làm ngơ? Lúc đó thì rắc rối to! Đôi khi lảng tránh để đỡ phiền hà cho bản thân lại
không phải là cách xử lý hay.
Vậy theo bạn xử lý theo cách 2? Cũng khơng ít trường hợp giáo viên chọn cách này. Đơn
giản đó là một cơ hội để bạn tỏ rõ sự quan tâm giúp đỡ của mình đối với học sinh đó, và hy vọng
rằng việc làm đó sẽ có tác động tốt đến vị lãnh đạo ở cơ quan chồng bạn. Nhưng như vậy bạn sẽ
đối mặt ra sao với học sinh của mình, chúng có cịn kính trọng bạn khơng khi chỉ vì lợi ích cá
nhân mà bạn đã sẵn sàng bỏ qua cho học sinh phạm lỗi. Bạn luôn nhắc nhở học sinh về sự cơng
bằng, nghiêm khắc, nhưng chính hành động của b




×