Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

nghiên cứu hiện trạng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng rừng nguyên liệu ván dăm bằng cây keo lai ở huyện đồng hỷ tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.69 KB, 89 trang )

1
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT : Số thứ tự
OTC : Ô tiêu chuẩn
FAO : Tổ chức nông lương thế giới
PAM : Dự án trồng rừng
ĐCP : Độ che phủ
TBKT : Tiến bộ kỹ thuật
PRA : Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia
VNĐ : Việt Nam đồng
USD : Đô la
D
1.3
: Đường kính tại vị trí 1 mét 3
H
vn
: Chiều cao vút ngọn
D
bq
: Đường kính bình quân
H
bq
: Chiều cao bình quân
D
T
: Đường kính tán
M : Trữ lượng
V
bq
: Thể tích bình quân
ĐT : Đông Tây


NB : Nam Bắc
Tb : Trung bình
NN&PTNT : Nông Nghiệp và phát triển nông thôn
KNKL : Khuyến nông khuyến lâm
Công ty TNHH MTV VDTN: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
ván dăm Thái Nguyên
1
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
2
3
3
4
Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Tính đến 31/12/2009 Việt Nam có 13.258.843 ha đất có rừng, nhiều
hơn 140.070 ha so với năm 2008, trong đó diện tích rừng tự nhiên là
10.339.305 ha và rừng trồng là 2.919.538 ha. Độ che phủ rừng toàn quốc năm
2009 là 39,1% tăng 0,4% so với năm 2008 (Bộ NN&PTNT, 2010) [3]. Tuy
diện tích rừng và độ che phủ của rừng đã tăng lên đáng kể nhưng năng xuất và
chất lượng rừng vẫn còn thấp. Hầu hết diện tích rừng tự nhiên là rừng trung
bình và rừng nghèo, không còn khả năng đáp ứng được nhu cầu sản xuất hiện
nay. Đặc biệt là rừng trồng, trong những năm vừa qua năng suất đã nâng lên
hơn 20m
3
/ha/năm nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nguyên liệu cho nhu cầu sản
xuất của xã hội.
Theo số lượng thống kê của Bộ NN&PTNT tính đến năm 2010 trữ
lượng gỗ cả nước là 871 triệu m

3
, trong đó gỗ rừng tự nhiên là 798 triệu m
3

6,4 tỷ cây tre nứa, rừng trồng là 73 triệu m
3
, chiếm 8,4% tổng trữ lượng gỗ.
(Bộ NN&PTNT, 2010) [2]. Tuy nhiên, sản lượng gỗ trên chủ yếu chỉ phục vụ
cho ngành chế biến giấy và gỗ ván sàn. Phần lớn gỗ dùng để chế biến các sản
phẩm đồ mộc đặc biệt là đồ mộc gia dụng và đồ thủ công mỹ nghệ vẫn phải
nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm 2011
của cả nước đạt 1,9 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2010 nhưng kim
ngạch nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đã là 605 triệu USD tăng 19,8% so với
cùng kỳ năm 2010 (Thông tấn xã Việt Nam, 2011) [36]. Điều này một lần nữa
khẳng định sự thiếu hụt nguyên liệu trong nước là đáng kể.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã đề
ra mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ đến năm 2020 đạt 7 tỷ USD. Tốc độ tăng
5
trưởng bình quân hàng năm của kim ngạch xuất khẩu gỗ vào khoảng trên
30%/năm, phấn đấu đến năm 2020 GDP lâm nghiệp đạt khoảng 2 - 3% GDP
quốc gia (Bộ NN và PTNT, 2007) [4]. Con số này cho thấy nhu cầu nguyên
liệu đầu vào cho các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tăng mạnh đến năm 2020.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, nhu cầu gỗ cho xây dựng và
các nhu cầu khác trên thị trường nội địa cũng được các chuyên gia dự báo là
sẽ liên tục tăng. Đáp ứng được nhu cầu gỗ ngày càng tăng của xã hội đồng
thời góp phần cải thiện phần nào khí hậu ngày càng khắc nghiệt như hiện nay,
ngành Lâm nghiệp đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp lựa chọn
các loài cây mọc nhanh và các biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh nhằm
nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.
Một trong những loài cây nguyên liệu có khả năng sinh trưởng nhanh

được đề cập đến đó là cây Keo lai (Acacia hybrids). Cây Keo lai là 1 trong 48
loài cây trồng chính để trồng rừng sản xuất đã được Bộ NN và PTNT công
nhận tại Quyết định số 16/2005/QĐ-BNN ngày 15/03/2005. Keo lai không
chỉ là giống có ưu thế sinh trưởng nhanh, biên độ sinh thái rộng, có khả năng
thích ứng với nhiều loại đất mà còn có khả năng cải tạo đất, cải thiện môi
trường sinh thái. Gỗ Keo lai có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác
nhau như ván sàn, ván dăm, trụ mỏ và đặc biệt hơn cả là được sử dụng trong
công nghiệp sản xuất giấy. Keo lai có khối lượng gỗ lấy ra lớn gấp 2-3 lần
Keo tai tượng và Keo lá tràm, hàm lượng xenluylo trong gỗ cao, lượng lignin
thấp do đó có hiệu suất bột giấy lớn, chất lượng bột giấy tốt.
Tại tỉnh Thái Nguyên, công tác trồng rừng trong những năm qua đã
được các cấp, các ngành và người dân quan tâm; diện tích rừng trồng tăng lên
đáng kể, đặc biệt là rừng sản xuất. Năm 2010 toàn tỉnh có khoảng 167.904 ha
rừng, trong đó rừng tự nhiên là 99.922 ha, rừng trồng 67.982 ha; Tổng trữ
lượng gỗ trên 3,5 triệu m
3
và có khoảng 25 triệu cây tre nứa. Hàng năm toàn
6
tỉnh khai thác khoảng 21.000 m
3
gỗ và 660 triệu cây tre nứa, lượng lâm sản
này một phần phục vụ cho nhu cầu sử dụng của người dân trong vùng, phần
còn lại cung cấp nguyên liệu cho Công ty TNHH MTV ván dăm Thái Nguyên
và Nhà máy giấy Bãi Bằng.
Trong những năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã có chủ trương đẩy
mạnh công tác trồng rừng sản xuất và loài cây trồng chính được đưa vào trồng
là cây Keo lai và Keo tai tượng, ngoài ra còn các loài cây khác khá phổ biến
như: Mỡ, Bạch đàn Tuy phần lớn diện tích trồng rừng chủ yếu là hai loài
Keo trên, nhưng theo đánh giá sơ bộ của Sở NN&PTNT tỉnh Thái Nguyên
lượng tăng trưởng bình quân hàng năm chỉ đạt khoảng 15-18m

3
/ha/năm. Với
lượng tăng trưởng như vậy đã không đủ khả năng để đáp ứng nhu cầu về gỗ
nguyên liệu cho địa phương. Vì vậy cần phải nâng cao năng suất và chất lượng
gỗ rừng trồng. Để thực hiện được mục tiêu trên cần phải lựa chọn giống tốt,
điều kiện lập địa và đặc biệt là ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh phù hợp.
Xuất phát từ những yêu cầu trên tôi thực hiện đề tài:“Nghiên cứu hiện
trạng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng rừng nguyên liệu
ván dăm bằng cây Keo lai ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được kết quả ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong
trồng rừng nguyên liệu ván dăm bằng cây Keo lai ở huyện Đồng Hỷ - tỉnh
Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng áp dụng tiến bộ
khoa học kĩ thuật trong trồng rừng nguyên liệu ván dăm trong khu vực và các
vùng có điều kiện sinh thái tương tự.
- Tính toán và dự báo được hiệu quả kinh tế của một số mô hình trồng
rừng nguyên liệu ván dăm.
7
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các khu rừng trồng nguyên liệu ván dăm bằng Keo lai trên địa bàn
huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
- Cán bộ và người dân tham gia nhân giống và trồng rừng nguyên liệu
cho Công ty TNHH MTV VDTN.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các vườn ươm cây giống cung cấp giống trên của Công ty TNHH
MTV VDTN.
- Các khu rừng trồng nguyên liệu ván dăm ở các cấp tuổi điển hình 3,5,7.
1.4. Ý nghĩa của đề tài

1.4.1. Ý nghĩa khoa học
- Thực hiện đề tài giúp tôi củng cố kiến thức đã học vào công tác
nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất lâm nghiệp một cách có kết quả.
Mang lại cho tôi một tác phong làm việc khoa học, khả năng lập kế hoạch
nghiên cứu hợp lý, tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả và viết báo cáo
nghiên cứu trôi trảy.
- Góp phần xây dựng quy trình áp dụng TBKT vào trồng rừng nguyên
liệu ván dăm và làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu việc ứng dụng tiến
bộ kỹ thuật trong trồng rừng nguyên liệu công nghiệp ván dăm tiếp theo.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
Ứng dụng kết quả nghiên cứu để hướng dẫn người dân áp dụng vào
công tác trồng rừng đạt hiệu quả cao nhất.
Đánh giá thực tế công tác trồng rừng của địa phương đã ứng dụng
những TBKT để làm tài liệu tham khảo cho công ty và người dân tham gia
trồng rừng thâm canh cây Keo lai làm nguyên liệu ván dăm ở huyện Đồng Hỷ.
8
Chương 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan tài liệu
2.1.1. Cơ sở khoa học
2.1.1.1. Đặc điểm sinh thái cây Keo lai
Keo lai có bố mẹ là Keo tai tượng và Keo lá tràm nên chúng có một số
đặc điểm sinh thái có thể giống với đặc điểm sinh thái của hai loài bố mẹ ở nơi
nguyên sản. Kết quả nghiên cứu của Đinh Văn Quang, (2002) [29] tại các đề
mục “Xác định lập địa phục vụ trồng rừng công nghiệp cho một số vùng sinh
thái ở Việt Nam” thuộc đề tài khoa học KC.06.05.NN nghiên cứu các giải pháp
công nghệ phát triển nguyên liệu gỗ cho xuất khẩu, cho thấy Keo lai:
- Phân bố ở 1
0
vĩ độ Nam đến 18

0
vĩ độ Nam
- Độ cao so với mặt nước biển từ 0-600m
- Lượng mưa trung bình năm >800mm
- Chế độ mưa: Mưa mùa hè, mùa khô kéo dài 0 - 7 tháng
- Nhiệt độ trung bình năm >20
0
C
- Nhiệt độ tháng nóng nhất 37
0
C
- Nhiệt độ tháng lạnh nhất 6
0
C
- Nhiệt độ tối thấp từ 0-6
0
C
+ Đất đai: Loài Keo lai không kén chọn loại đất, chúng có thể sinh
trưởng trên nhiều loại đất khác nhau như: Đất acid, đất granit, feralit, đất xám,
đất đỏ, đất bồi tụ, đất nhiệt đới, đất thoát nước tốt, đất chua, đất nông, sét pha,
thịt nặng
- Cấu tượng: Trung bình, nặng
- Độ thoát nước tự do, úng theo mùa
- Phản ứng đất: đất chua
9
- Đặc biệt chịu được trên đất bạc mầu, có thể chịu được úng và có khả
năng cố định đạm.
So với đặc điểm khí hậu và đất đai ở vùng Đông Bắc Bộ nói chung và
khu vực tỉnh Thái Nguyên nói riêng thì cây Keo lai hoàn toàn phù hợp, có khả
năng sinh trưởng, phát triển tốt và đặc biệt khi áp dụng các biện pháp kỹ thuật

thâm canh rừng trồng sẽ tăng năng suất cao.
2.1.1.2. Trồng rừng thâm canh
- Khái niệm về trồng rừng thâm canh
Khái niệm về trồng rừng thâm canh có nhiều nguồn thông tin, các tác
giả đã đề cập đến như:
Theo Phạm Quang Minh (1987) [26] đưa ra: “Trồng rừng thâm canh
là tăng cường đầu tư các biện pháp kỹ thuật tổng hợp tác động vào rừng từ
khâu tạo cây con, làm đất, chăm sóc bảo vệ đến khâu khai thác rừng nhằm
nâng cao số lượng và chất lượng lâm sản, đồng thời củng cố tiềm năng tự
nhiên để nâng cao sức sản xuất của rừng”. Hay: “Trồng rừng thâm canh là
biện pháp đầu tư theo chiều sâu nhằm làm cho rừng trồng sinh trưởng
nhanh, sớm đạt được mục tiêu đề ra và đạt kết quả cao hơn trước. Đầu tư
theo chiều sâu ở đây không chỉ giới hạn việc đầu tư tiền vốn, vật tư, lao
động mà còn làm sao phát huy hết tiềm năng điều kiện sẵn có của tự nhiên
và xã hội để mang lại kết quả cao”.
* Nhận xét: Khái niệm trên cho thấy trồng rừng thâm canh đi sâu vào
đầu tư chưa thấy quan tâm đến môi trường.
Theo Nguyễn Xuân Quát (1995) [30] khái niệm về trồng rừng thâm
canh là: “Trồng rừng thâm canh là một phương pháp canh tác dựa trên cơ sở
được đầu tư cao, bằng việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật tổng hợp và liên
hoàn. Các biện pháp đó phải tận dụng cải tạo và phát huy được tiềm năng của
tự nhiên cũng như của con người nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sinh trưởng của
10
rừng trồng để thu được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt với giá thành
hạ để cho kết quả lớn. Đồng thời cũng phải duy trì và bồi dưỡng được tiềm
năng đất đai và môi trường đảm bảo an toàn sinh thái đáp ứng yêu cầu phát
triển trồng rừng ổn định lâu dài và bền vững”.
* Nhận xét: Khái niệm trên được xem như đầy đủ nhất về kết quả kĩ
thuật, kết quả kinh tế và kết quả môi trường. Nó không chỉ giải quyết nhu cầu
trước mắt mà còn bền vững về sau này.

- Thực chất của trồng rừng thâm canh
Theo Nguyễn Xuân Quát (1995) [30] cho thấy: Thực chất của trồng
rừng thâm canh là mức độ đầu tư về tiền của và trí tuệ phải cao hơn trồng
rừng quảng canh và bán thâm canh.
Đầu tư ở đây, trước hết là đầu tư về tiền vốn cho trồng rừng, mọi khâu của
quá trình trồng rừng thâm canh cần phải có tiền vốn đầy đủ và hợp lý, tức là mức
vốn suất trồng rừng phải được tính toán đầy đủ từ khâu giống, trồng rừng, chăm
sóc, quản lý bảo vệ đến khi thiết kế khai thác từng diện tích rừng đó.
Đặc biệt, mấu chốt thành công của trồng rừng thâm canh có kết quả cao
lại là đầu tư cao về kỹ thuật, nhất là đối với giai đoạn đầu tư từ chọn điều kiện
lập địa, chọn cây, chọn giống, chăm sóc nuôi dưỡng và khai thác sử dụng rừng
trồng. Tốn nhiều tiền và công sức để làm gì nếu không thu được kết quả kinh tế
cao (lợi nhuận ròng trên một đơn vị diện tích cao) với giá thành sản phẩm là
thấp nhất, kể cả khi có được năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn.
Vì vậy, mọi tính toán trong quá trình trồng rừng thâm canh phải được
kết hợp chặt chẽ giữa kết quả kỹ thuật với kết quả kinh tế. Mặt khác nếu các
yêu cầu sinh lợi đều được thoả mãn, nhưng đất đai, môi trường lại bị suy thoái
thì không thể trồng lại được rừng nữa, hoặc năng suất, chất lượng rừng giảm
dần thì việc đầu tư thâm canh như vậy không thể gọi là thành công bởi vì như
thế mới giải quyết được nhu cầu trước mắt.
11
2.1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.1.2.1. Những nghiên cứu về cây Keo lai (Acacia hybrids)
Keo lai là tên viết tắt của giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng (Acacia
mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculifomis). Giống Keo lai tự nhiên này
được phát hiện đầu tiên bởi Messir Herbern và Shim vào năm 1972 trong số
các cây Keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah,
Malaysia. Năm 1976, M.Tham đã kết luận thông qua việc thụ phấn chéo giữa
Keo Tai tượng và Keo lá tràm tạo ra cây Keo lai có sức sinh trưởng nhanh hơn
giống bố mẹ. Đến tháng 7 năm 1978, kết luận trên cũng đã được Pedley xác

nhận sau khi xem xét các mẫu tiêu bản tại phòng tiêu bản thực vật ở
Queensland - Autralia (Lê Đình Khả 1986, Gun và cộng sự 1987, Griffin,
1988), ở một số nơi khác tại Sabad (Rufelds, 1987) và Ulu Kukut (Darus và
Rasip, 1989) của Malaysia, ở Muak-Lek thuộc tỉnh Saraburi của Thái Lan
(Kijkar, 1992). Giống lai tự nhiên lẫn rừng trồng và đều có một số đặc tính
vượt trội so với bố mẹ, sinh trưởng nhanh, cành nhánh nhỏ, thân đơn trục với
đọan thân dưới cành lớn (Lê Đình Khả và cs 1997) [20].
Nghiên cứu về hình thái cây Keo lai có thể kể đến các công trình
nghiên cứu của Rufelds (1988) [46], Gan.E và Sim Boon Liang (1991) [43]
các tác giả đã chỉ ra rằng: Keo lai xuất hiện lá giả (Phyllode) sớm hơn Keo tai
tượng nhưng muộn hơn Keo lá tràm. Ở cây con lá giả đầu tiên của Keo lá
tràm thường xuất hiện ở lá thứ 4-5, Keo tai tượng thường xuất hiện ở lá thứ 8-
9 còn Keo lai thì thường xuất hiện ở lá thứ 5-6. Bên cạnh đó là sự xuất hiện
về tính chất trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm ở các bộ phận sinh
sản (Bowen, 1981) [39].
Theo nghiên cứu của Rufeld (1987) [47] thì không tìm thấy một sự sai
khác nào đáng kể của Keo lai so với các loài bố mẹ. Các tính trạng của chúng
đều thể hiện tính trung gian giữa hai loài bố mẹ mà không có ưu thế lai thật
12
sự. Tác giả đã chỉ ra rằng Keo lai hơn Keo tai tượng về độ tròn đều của thân,
có đường kính cành nhỏ hơn và khả năng tỉa cành tự nhiên khá hơn Keo tai
tượng, song độ thẳng thân, hình dáng tán lá và chiều cao dưới cành lại kém
Keo tai tượng. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Pinso Cyril và Robert
Nasi (1991) thì trong nhiều trường hợp cây keo lai có xuất xứ ở Sabah vẫn giữ
được hình dáng đẹp của Keo tai tượng. Và ưu thế lai thì có thể có nhưng
không bắt buộc vì có thể bị ảnh hưởng của cả 2 yếu tố di truyền lẫn điều kiện
lập địa. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng sinh trưởng của cây Keo lai tự nhiên
đời F1 là tốt hơn, còn từ đời F2 trở đi cây sinh trưởng không đều và trị số
trung bình còn kém hơn cả Keo tai tượng. Khi đánh giá về các chỉ tiêu chất
lượng của cây Keo lai, Pinso và Nasi (1991) thấy rằng độ thẳng của thân,

đoạn thân dưới cành, độ tròn đều của thân, đều tốt hơn giống bố mẹ và cho
rằng Keo lai phù hợp với các chương trình trồng rừng thương mại.
2.1.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến khả năng sinh trưởng của rừng trồng
Để trồng rừng đạt hiệu quả hơn, các nước trên thế giới và vùng nhiệt
đới người ta cần tiến hành phân chia nơi trồng rừng. Mục đích của việc phân
chia nơi trồng rừng là nhằm sử dụng một cách hợp lý. Trên cơ sở việc phân
chia nơi trồng rừng để chọn loài cây trồng và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh
chuẩn xác, nhằm tăng khả năng sinh trưởng và phát triển của rừng trồng, hạ
giá thành sản phẩm gỗ rừng trồng, đồng thời làm cho môi trường sinh thái
ngày một tốt hơn.
Người ta phân chia nơi trồng rừng dựa vào 2 nhóm nhân tố chính: Điều
kiện lập địa và trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng. Ví dụ: Theo Yang Jigao,
1995 nghiên cứu và phân chia ở Nam Quảng Tây - Trung Quốc đã phân chia
điều kiện lập địa thành 17 loại và các loài cây thích hợp với những điều kiện
lập địa ấy
13
Theo Vater (1925) thì: “Lập địa nên hiểu là tất cả các yếu tố ngoại cảnh
thường xuyên tác động tới sự sinh tồn và phát triển của thực vật” cũng có
nghĩa là lập địa bao gồm tất cả các yếu tố như: Khí hậu, địa hình, đất, sinh vật
tạo thành một quần lạc sinh địa. Tất cả các yếu tố trong quần lạc sinh địa có
ảnh hưởng qua lại, tác động lẫn nhau và phụ thuộc vào nhau, trong đó con
người có vai trò đặc biệt quan trọng. Có thể hiểu lập địa như là nơi mà cây
sinh sống và phát triển hay là phạm vi không gian chứa đựng tất cả các yếu tố
ngoại cảnh tác động đến đời sống thực vật.
Tập hợp các kết quả nghiên cứu ở các nước vùng nhiệt đới, tổ chức
nông lương thế giới FAO (1984) [41] đã chỉ ra rằng khả năng sinh trưởng của
rừng trồng, đặc biệt là rừng trồng nguyên liệu công nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan đến điều kiện lập địa là: Khí hậu, địa
hình, loại đất và hiện trạng thực bì.
Khi nghiên cứu về sản lượng rừng trồng Bạch đàn ở Brazil, Golcalves

J.L.M và cs, (2004) cho rằng năng suất rừng trồng là sự “kết hợp” thích hợp
giữa kiểu gen với điều kiện lập địa và kỹ thuật canh tác. Ngoài ra, tác giả còn
chỉ cho thấy giới hạn của sản lượng rừng có liên quan tới các yếu tố môi trường
theo thứ tự mức độ quan trọng như sau: Nước > dinh dưỡng > độ sâu tầng đất.
Qua một số công trình nghiên cứu trên cho thấy việc xác định điều kiện
lập địa phù hợp với từng loài cây trồng là rất cần thiết, đó là một trong yếu tố
quan trọng quyết định năng suất và chất lượng rừng trồng.
2.1.2.3. Nghiên cứu cải thiện giống
Giống là một trong những khâu quan trọng nhất trong trồng rừng thâm
canh, không có giống tốt thì không thể đưa năng suất rừng lên cao.
Ở Công-gô, bằng phương pháp lai nhân tạo đã tạo ra giống Bạch đàn
lai (Eucalyplus hybrids) có năng suất đạt tới 35 m
3
/ha/năm ở giai đoạn tuổi 7.
Bằng con đường chọn lọc nhân tạo, Brazil đã chọn được giống
Eucalyplus grandis đạt tới 55 m
3
/ha/năm sau 7 năm trồng, ở Swaziland cũng
14
đã chọn được giống Pinus patula sau 15 năm tuổi đạt 19 m
3
/ha/năm, giống
Paraserianthes jaicataria trồng ở Malaysia được 7 -10 năm cũng đạt 30
m
3
/ha/năm (Pandrey, 1983) [45]. Ở Zimbabwe cũng đã chọn được giống
E.gradis đạt từ 35 - 40 m
3
/ha/năm, giống E.urophylla đạt trung bình tới 55
m

3
/ha/năm, có nơi lên tới 70 m
3
/ha/năm (Campinhos và Ikemori, 1988).
2.1.2.4. Ảnh hưởng của phân bón đến năng suất rừng trồng
Bón phân cho cây trồng lâm nghiệp là một trong những biện pháp kỹ
thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng đặc biệt là ở những nơi
đất đai khô cằn, ít chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, chúng ta cần lựa chọn loại
phân và cách bón nào cho kết quả, liều lượng bón là bao nhiêu và nên bón vào
lúc nào cho phù hợp nhu cầu sinh lý của cây, cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây
sinh trưởng, bón ít mà thu lợi nhiều không gây lãng phí hoặc làm ô nhiễm hay
suy thoái môi trường. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới
quan tâm, điển hình như công trình nghiên cứu của Mello (1976) ở Brazil cho
thấy bạch đàn Eucaliptus sinh trưởng khá tốt ở công thức không bón phân
nhưng bón NPK thì năng suất có thể lên trên 50%.
Bolstand và cs (1988) [38] cũng đã tìm thấy một vài loại phân có phản
ứng tích cực mang lại kết quả như ở Potasium, phosphate, boron và magnesium.
Khi nghiên cứu bón phân cho rừng trồng Thông P.caribeae ở Cuba.
Herrero và cs (1988) [44] cũng cho thấy phân bón phosphate đã nâng
sản lượng rừng từ 56 lên 69 m
3
/ha sau 13 năm trồng.
Nhận xét: Từ các kết quả nghiên cứu trên đã khẳng định bón phân cho
rừng trồng mang lại những hiệu quả rõ rệt như: Nâng cao tỷ lệ sống, tăng sức
đề kháng của cây trồng, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm rừng trồng.
2.1.2.5. Ảnh hưởng mật độ đến năng suất rừng trồng
Theo Thoommson 1994, các loài Keo và Bạch đàn nên trồng với mật
độ 1111 cây/ha không ảnh hưởng xấu tới sản lượng và chất lượng gỗ.
15
Tác giả Evans.J.(1992), đã bố trí 4 công thức mật độ khác nhau (2985,

1680, 1075 và 750 cây/ha) cho Bạch đàn E.deglupta ở Papua New Guinea, số
liệu thu được sau 5 năm trồng cho thấy đường kính bình quân của các công
thức thí nghiệm tăng theo chiều giảm mật độ, nhưng tổng tiết diện ngang lại
tăng theo chiều tăng của mật độ, có nghĩa là rừng trồng ở mật độ thấp tuy
lượng tăng trưởng về đường kính cao hơn nhưng trữ lượng gỗ cây đứng của
rừng vẫn nhỏ hơn công thức trồng ở mật độ cao.
Nhận xét: Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ trồng ảnh
hưởng khá rõ đến chất lượng sản phẩm và chu kỳ kinh doanh. Vì vậy cần phải
căn cứ vào mục tiêu kinh doanh cụ thể để xác định mật độ trồng cho phù hợp.
2.1.2.6. Ảnh hưởng của biện pháp tưới nước đến sinh trưởng của rừng trồng
Theo Evans.J (1992) cho thấy: Ngoài những biện pháp trên, biện pháp
tưới nước cho cây mới trồng, nhất là ở những vùng khô hạn tuy còn rất ít công
trình nghiên cứu nhưng đã có một vài công trình đề cập đến. Như ở Brazil khi
trồng rừng Bạch đàn E.gadis trên những vùng đất khô hạn người ta đã phải tưới
cho cây con mới trồng 3-4 lít nước/cây, sau đó 3 ngày và 9 ngày phải tưới nước
lại nếu chưa có mưa.
Nguyễn Huy Sơn (2006) [32] Ở Trung Quốc áp dụng biện pháp tưới
nước thấm nhỏ giọt cho rừng trồng cây Dương Lai (Populuseuramericana)
trên vùng đất khô hạn, kết quả thu được sau 6 năm tuổi cho thấy đường kính
ngang ngực tăng trưởng gấp gần 3 lần so với đối chứng.
2.1.2.7. Về vấn đề sâu bệnh hại
Đối với rừng trồng công nghiệp vấn đề sâu bệnh hại đang rất được quan
tâm. Với kĩ thuật tiên tiến hiện đại, nhiều công trình đã nghiên cứu rất sâu ở
mức độ phân tử như chuyển và biến đổi gen để phòng chống sâu bệnh hại. Như
công trình nghiên cứu sâu rầy hại cây Keo dậu (L.leucocephla) ở khu vực Châu
Á Thái Bình Dương của Napompeth.B (1989).
16
Tóm lại: Qua các công trình nghiên cứu ở các nước trên thế giới đã giải
quyết khá đầy đủ các vấn đề liên quan, nhưng hầu hết các công trình được
nghiên cứu trong những hoàn cảnh sinh thái và các điều kiện về kinh tế kỹ

thuật hết sức khác nhau nên không thể ứng dụng một cách máy móc vào điều
kiện cụ thể nước ta.
2.1.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Cây Keo lá tràm và cây Keo tai tượng được nhập vào nước ta từ những
năm 1960 nhưng mãi đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước, giống Keo lai
mới được phát hiện và tập trung nghiên cứu từ các khâu chọn tạo giống cho
đến trồng rừng, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu điển hình sau:
2.1.3.1. Đặc điểm cây Keo lai (Acacia hybrids)
Ở Việt Nam, cây Keo lai tự nhiên được Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn
và các cộng sự thuộc Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (RCFTI) phát
hiện đầu tiên tại Ba Vì (Hà Tây cũ) và vùng đông Nam Bộ vào năm 1992.
Tiếp theo đó, từ năm 1993 cho đến nay Lê Đình Khả và các cộng sự đã
tiến hành nghiên cứu về cải thiện giống Keo lai, đồng thời đưa vào khảo
nghiệm một số giống Keo lai có năng suất cao tại Ba Vì (Hà Tây cũ) được ký
hiệu là BV; Trung tâm nguyên liệu giấy Phù Ninh - Phú Thọ cũng chọn lọc
được một số dòng được ký hiệu là BL.
Lê Đình Khả và các cộng sự [18,19,20,21] khi nghiên cứu về các đặc
trưng hình thái và ưu thế lai của cây Keo lai đã kết luận: Keo có tỷ trọng gỗ
và nhiều đặc điểm hình thái trung gian giữa hai loài Keo bố mẹ. Keo lai có ưu
thế lai về sinh trưởng so với Keo tai tượng và Keo lá tràm. Điều tra sinh
trưởng tại rừng trồng khảo nghiệm 4,5 năm tuổi ở Ba Vì (Hà Tây cũ) cho thấy
Keo lai sinh trưởng nhanh hơn Keo tai tượng từ 1,2 đến 1,6 lần về chiều cao
và từ 1,3 đến 1,8 lần về đường kính, gấp 2 lần về thể tích. Tại Sông Mây
(Đồng Nai) ở rừng trồng sau 3 năm tuổi Keo lai sinh trưởng nhanh hơn Keo lá
17
tràm 1,3 lần về chiều cao và 1,5 lần về đường kính. Một số dòng vừa có sinh
trưởng nhanh vừa có chỉ tiêu chất lượng tốt đã được công nhận là giống Quốc
Gia và giống tiến bộ kỹ thuật là các dòng BV5, BV10, BV16, BV32, BV33.
Khi nghiên cứu sự thoái hoá và phân ly của cây Keo lai, Lê Đình Khả (1997)
[21] đã khẳng định: Không nên dùng hạt cây Keo lai để gây trồng rừng mới.

Keo lai đời F1 có hình thái trung gian giữa hai loài bố mẹ và tương đối đồng
nhất, đến đời F2 Keo lai có biểu hiện thoái hoá và phân ly rõ rệt, cây Keo lai
F2 sinh trưởng kém hơn cây Keo lai F1 và có biến động lớn về sinh trưởng.
Do đó, để có thể phát triển giống Keo lai vào sản xuất thì phải dùng phương
pháp nhân giống bằng hom hoặc nuôi cấy mô từ những cây Keo lai tốt nhất đã
được công nhận là giống Quốc gia và giống tiến bộ kỹ thuật.
2.1.3.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến sinh trưởng rừng trồng
Xác định điều kiện lập địa thích hợp cho các loài cây trồng ở nước ta đã
có nhiều công trình nghiên cứu như: Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế (1994)
[33], tác giả căn cứ vào 3 nội dung: Đơn vị sử dụng đất, tiềm năng sử dụng
đất và độ thích hợp của cây trồng đã chỉ ra vùng Đông Nam Bộ có tiềm năng
sản xuất kinh doanh lâm nghiệp khá lớn, đặc biệt để phát triển các loài cây
cung cấp gỗ nguyên liệu công nghiệp như một số loài Bạch đàn (Eucalyptus),
Keo (Acacia), Tếch (Tectona Grandis)
Phạm Thế Dũng và cs (2004) [10] chỉ ra rằng mặc dù áp dụng biện
pháp kỹ thuật thâm canh như nhau, nhưng trên đất nâu đỏ Keo lai sinh trưởng
tốt hơn trên đất xám phù sa cổ. Nguyễn Huy Sơn và cs (2004) có nhận xét về
năng suất rừng trồng Bạch đàn U6 trên ba loại đất khác nhau ở khu vực Tây
Nguyên là trên đất xám Granit ở An Khê, K

Bang rừng trồng Bạch đàn U6 từ
4 đến 5 năm tuổi đạt 20 - 24 m
3
/ha/năm, nhưng trên đất nâu đỏ phát triển trên
đá Macma acid ở Mang Yang 6 năm tuổi đạt 12 m
3
/ha/năm, trên đất đỏ Bazan
thoái hóa ở Pleicu 4 năm tuổi cũng chỉ đạt 11 m
3
/ha/năm.

18
Nhận xét: Xác định điều kiện lập địa thích hợp cho mỗi loài cây trồng
là một khâu quan trọng để nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.
2.1.3.3. Tiến bộ kỹ thuật trong công tác giống
Việt Nam đã có nhiều công trình và tác giả nghiên cứu để đưa tiến bộ
kỹ thuật vào áp dụng trong trồng rừng. Có tác giả dựa trên nền những cây đã
và đang được trồng rừng sản xuất ở Việt Nam, sau đó cải thiện giống (lai tạo,
cải tiến cách thức nhân giống ) để có được những giống cây rừng và phương
thức nhân giống tiến bộ làm cho cây trồng rừng phù hợp hơn với điều kiện tự
nhiên, có năng suất cao, chất lượng gỗ cao hơn.
Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng (2003) [17] cũng khẳng định rằng:
Trước đây, khi vụ đặt ra cho trồng rừng là “phủ xanh đất trống đồi núi trọc”
chúng ta đã không quan tâm đầy đủ đến công tác giống. Kết quả là chi phí cho
trồng rừng rất tốn kém, nhưng năng suất rừng trồng vẫn rất thấp và thậm chí
nhiệm vụ phủ xanh cũng không thực hiện được. Điều đó một mặt do lấy
giống xô bồ, không chọn loài cây và xuất xứ thích hợp, không chọn giống có
năng suất cao và có tính chống chịu sâu bệnh cũng như thích hợp với điều
kiện sinh thái ở từng vùng để gây trồng, mặt khác do thiếu áp dụng các biện
pháp kỹ thuật thâm canh đồng bộ.
Bộ NN&PTNT (2001) [5] thành tựu lớn nhất và được áp dụng rộng rãi
trong trồng rừng sản xuất trước hết phải nói đến công tác chọn và cải thiện
giống cây trồng lâm nghiệp. Đây là một lĩnh vực mũi nhọn được ưu tiên rất
cao cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong nhiều năm qua, mang lại
những bước nhảy vọt góp phần nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng,
đặc biệt đối với các loài cây mọc nhanh cung cấp nguyên liệu giấy như Keo
lai, Bạch đàn. Các thành tựu và tiến bộ trong lĩnh vực giống cây lâm nghiệp
đã được đúc kết thành hệ thống quy trình, quy phạm và tiêu chuẩn áp dụng có
hiệu quả trong sản xuất.
19
Lê Đình Khả (2006) [16] cho rằng: Giống là một khâu quan trọng nhất

của trồng rừng thâm canh. Không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh
tế thì không thể đưa năng suất rừng lên cao. Các tác giả đã dẫn chứng bằng
việc trồng rừng ở nước ta năng suất rừng trồng chỉ đạt 5 - 10 m
3
/ha/năm,
trong khi đó các nước có nền lâm nghiệp tiên tiến đã tạo được năng suất rừng
trồng 40 - 50 m
3
/ha/năm (như giống Dương lai I - 214 ở Italia và Bạch đàn ở
Công-gô), hoặc thâm chí hơn 100 m
3
/ha/năm (trên một số diện tích thí nghiệm
cho Bạch đàn lai E.Grandis với E.Urophylla ở Brasin (Kageyama, 1984). Mới
đây, việc phát hiện, chọn lọc, nhân giống và khảo nghiệm giống thành công
cho giống lai tự nhiên giữa Keo Tai tượng (Acacia mangium) với Keo lá tràm
(Acacia auriculiformis) đã mở ra một triển vọng lớn cho trồng rừng nguyên
liệu ở nước ta.
Qua nghiên cứu các ông Lê Đình Khả, Nguyễn Đình Hải, Hồ Quang Vinh
(1997) [20] đã có số liệu chứng minh được khả năng kỳ diệu của chúng như:
Sau 4 năm tuổi giống Keo lai có thể tích thân cây là 70 - 80 dm
3
/cây trong khi
những xuất xứ tốt nhất của Keo tai tượng cũng chỉ có thể tích đạt 30 - 40
dm
3
/cây, còn những xuất xứ tốt của Keo lá tràm chỉ đạt 17 - 27 dm
3
/cây. Và
các tác giả kết luận: Cải thiện giống cây rừng nhằm không ngừng nâng cao
năng suất, chất lượng gỗ và các sản phẩm mong muốn khác là một yêu cầu

cấp bách đối với sản xuất lâm nghiệp ở nước ta.
Bình luận: Cải thiện giống cây rừng phải xuất phát từ mục tiêu kinh tế
đặt ra cho mỗi loài mà nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đồng thời
phải phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi vùng, chống chịu được sâu bệnh
hại, mọc nhanh và đảm bảo được mục tiêu trồng rừng sản xuất nhưng đáp ứng
được tính bền vững trong sử dụng đất lâm nghiệp. Giải quyết tốt mối quan hệ
môi trường và xã hội, phát triển và ứng dụng được những tiến bộ vào sản
xuất, đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học.
20
2.1.3.4. Tiến bộ kỹ thuật về lĩnh vực chọn loài cây trồng
Để có giống tốt, phù hợp với mục đích kinh tế trong trồng rừng sản
xuất và thích nghi với điều kiện đất đai, khí hậu của mỗi vùng thì chúng ta
phải chọn loài cây trồng rừng, đây là bước đầu tiên quan trọng trong chương
trình trồng rừng.
Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng (2003) [17] cho rằng: Loài là
nhóm các sinh vật có các đặc trưng hình thái và đặc điểm di truyền giống
nhau, có thể lai giống với nhau để cho đời sau hữu thụ. Mỗi loài thường có
khu phân bố địa lý sinh thái nhất định.
Ví dụ: Bạch đàn Eucalyptus regnans có thể cao hơn 90 mét với thân cây
thẳng hình trụ, còn Bạch đàn E. pyriformis lại là một cây có nhiều thân, ít khi
cao quá 6 mét loại gỗ và các tính chất khác cũng có sự khác biệt rất lớn giữa
các loài. Gỗ các loài như Tếch, Lát hoa, Cẩm lai rất có giá trị để đóng đồ gia
dụng, còn gỗ của các Bạch đàn, Thông, Keo thích hợp cho việc làm bột giấy,
ván dăm, gỗ chống hầm lò
Lê Đình Khả, Hà Huy Thịnh (2005) [16] cho đến nay đã có 67 giống
cây rừng lâm nghiệp được công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật và giống quốc
gia, trong đó có các dòng Keo lai cao sản như: BV10, BV16, BV32, TB3,
TB5, TB6, TB12, KL2; Các dòng Bạch đàn cao sản như: U6, PN2, PN10,
PN14, PN46, PN47 và các dòng Phi lao có năng suất cao là 601 và 701 đã
được gây trồng rộng rãi ở nhiều nơi trong cả nước.

Tổng hợp nghiên cứu của Võ Đại Hải và cộng sự (2005) [13] đã thống
kê được một số nghiên cứu sử dụng ưu thế lai cũng đã đạt được những thành
tựu đáng kể, cụ thể là:
- Đối với Bạch đàn: Các tổ hợp UC, UT, UM, SM, GM cho sinh trưởng
bình quân tăng từ 20 - 30%, đặc biệt có tổ hợp trồng nơi lập địa tốt cho sinh
trưởng tăng 70 - 80 % so với giống sản xuất hiện hành sau 5 năm khảo nghiệm.
21
- Đối với Keo: Các tổ hợp AM1, AM2, MA1, MA2 cho sinh trưởng
tăng bình quân 30% so với giống sản xuất hiện hành.
- Đối với Tràm: Tổ hợp LC sinh trưởng bình quân tăng 25 - 30% so với
giống sản xuất hiện hành.
Đặc biệt trong năm 2005 cũng đã công nhận được 2 dòng Bạch đàn vừa
sinh trưởng nhanh vừa kháng nấm bệnh tốt là SM16 và SM23.
Các tác giả còn khẳng định: Các thành tựu trong lĩnh vực khảo nghiệm
và cải thiện giống đã áp dụng và tạo ra nhiều diện tích rừng trồng sản xuất có
năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
Bộ NN&PTNT (2005) ban hành: Danh mục các loài cây chủ yếu cho
trồng rừng sản xuất theo 9 vùng sinh thái lâm nghiệp (Ban hành kèm theo
Quyết định số 16/2005/QĐ-BNN ngày 15 tháng 3 năm 2005). Ví dụ như:
Vùng Đông Bắc (ĐB) gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Quảng Ninh, Bắc Giang. Gồm có 15 loài cây khác nhau.
Bình luận: Chúng tôi cùng nhất trí và thay cho lời kết về công tác
chọn loài cây rừng trong trồng rừng sản xuất với kết luận của Trần Văn Con
và cộng sự (2006) [7] cho biết: Bộ NN&PTNT đã ban hành danh sánh các
loài cây chủ lực trồng rừng sản xuất ở chín vùng sinh thái lâm nghiệp (như
trình bày ở trên cho vùng Đông Bắc). Tuy nhiên việc áp dụng danh sách này
trên thực tế vẫn gây nhiều lúng túng cho các chủ rừng, chủ dự án. Hạn chế
này là do:
(i) Các cơ sở khoa học kỹ thuật để đề xuất danh sách loài cây trồng
được nghiên cứu ở cấp vĩ mô; mối quan hệ của cây và lập địa ở quy mô vi mô

chưa được nghiên cứu kỹ;
(ii) Thiếu cơ sở kinh tế - xã hội nên chưa được sự quan tâm sử dụng
của người dân;
22
(iii) Nhiều loài cây trong danh sách đề nghị chưa có quy trình hoặc
hướng dẫn ký thuật gây trồng;
(iv) Rất ít thông tin về các loài cây bản địa. Hoặc: Cây trồng rừng chủ
yếu hiện nay đều là cây nhập nội mọc nhanh như: Keo và Bạch đàn, rất ít cây
bản địa được sử dụng cho trồng rừng kinh tế. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ
trong lĩnh vực cải thiện giống, nhìn chung giống sử dụng trong trồng rừng vẫn
rất xô bồ, kém chất lượng dẫn đến năng suất và chất lượng rừng còn thấp.
Chúng ta vẫn còn thiếu các vườn giống có chất lượng cao để cung cấp cho
nhu cầu trồng rừng.
2.1.3.5. Tiến bộ kỹ thuật về lĩnh vực nhân giống và tạo cây con
Giống là tư liệu sản xuất đặc biệt của công tác trồng rừng, bởi vì
giống là một tư liệu sinh vật, một thực thể sống. Giống cũng là một khâu
quan trọng nhất của sản xuất nông lâm nghiệp. Nhờ có giống được cải thiện
và áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh khác mà năng suất các loài cây
trồng tăng nhanh.
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2004) [27] cho rằng: Trồng rừng, phục hồi rừng
hiện đang là một nhu cầu cấp bách và là một nhiệm vụ lớn lao của ngành Lâm
nghiệp nước ta. Theo Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng tới năm 2010, hàng
triệu ha rừng trồng sẽ được thiết lập với tốc độ hàng trăm nghìn ha mỗi năm
cho các mục tiêu kinh tế khác nhau như cung cấp gỗ nguyên liệu cho công
nghiệp giấy, ván nhân tạo, gỗ xẻ xây dựng, gỗ trụ mỏ và cả đồ mộc
Trần Văn Con (2005) [8] khẳng định: Bên cạnh những thành tựu trong
lĩnh vực chọn và cải thiện chất lượng giống, kỹ thuật tạo cây con cũng đạt
được những thành tựu vượt bậc. Các kỹ thuật cây con có bầu trong vườn
vươm cho các loài cây trồng rừng chủ yếu như: Thông, Mỡ, Bồ đề, các cây
bản địa lá rộng khác đã phát triển và xây dựng quy trình quy phạm áp dụng

23
trong sản xuất. Đặc biệt công nghệ sản xuất cây con bằng kỹ thuật cao như
giâm hom, nuôi cấy mô cũng được phát triển nhanh chóng, nhất là đối với các
loài cây mọc nhanh như Keo lai, Bạch đàn urophylla, pelissta, Bạch đàn lai
không kể các vườn ươm công nghệ cao quy mô nhỏ, đã có khoảng 10 vườn
ươm nhân giống bằng công nghệ cao (hom, mô) có công suất hàng triệu cây
giống/năm rải rác trên các vùng Bắc Trung Nam để trồng rừng sản xuất tập
trung đối với một số loài cây chủ lực.
Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng (2003) [17] khẳng định: Tất cả
thực vật bậc cao đều có hai phương thức sinh sản chủ yếu là sinh sản hữu
tính (bằng hạt) và sinh sản sinh dưỡng (bằng giâm hom, chiết, ghép, nuôi
cấy mô phân sinh).
Giâm hom có hệ số nhân giống cao, song lại khó vượt được giới hạn của
tuổi non, vì vậy để nhân giống hàng loạt thường phải làm trẻ hoá cho cây mẹ
bằng cách chặt ngang thân cho ra các chồi mới. Đây là phương thức đang được
dùng rộng rãi để nhân giống cho các cây lai của Bạch đàn (Eucaluptus), Keo
(Acacia), Dương (Populus) và một số cây rừng khác. Cần thấy rằng nhân giống
bằng hom chỉ phát huy tác dụng tốt khi làm một công cụ cho chọn giống để
nhân các giống được chọn lọc hoặc các giống quý hiếm mà không thể sinh sản
bằng hạt. Bên cạnh đó người ta còn áp dụng phương pháp chiết, ghép và đặc
biệt tiên tiến là nuôi cấy mô
Như vậy, theo các tác giả thì mỗi một phương pháp đều có những ưu
điểm nhưng đồng thời cùng có những nhược điểm mà người thực hiện cần lưu
ý để khi nhân giống khắc phục được phần nào nhược điểm của nó. Cần phải
chọn loài, khảo nghiệm giống và chọn lọc cây mẹ một cách cẩn thận.
Bình luận: Từ những nghiên cứu trên chúng tôi thấy, hiện nay công tác
nhân giống và tạo cây con có nhiều tiến bộ đã giúp cho công tác trồng rừng
24
ngày càng đẩy mạnh, đặc biệt một số giống cây rừng được lai như Bạch đàn,
Keo đang là những loài cây chủ yếu trong trồng rừng sản xuất và được trồng

hầu khắp trên toàn quốc vì chúng có chu kỳ ngắn (khoảng 6 - 7 năm), đáp ứng
được các mục tiêu chọn loài cây trồng rừng sản xuất, lại có năng suất cao nếu
chúng ta thực sự trồng rừng thâm canh.
Công tác giống cây rừng hiện nay ở Việt Nam đang ngày càng đẩy
mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong công tác giống như chọn giống, lai
giống, vừa nhân giống vừa khảo nghiệm giống và cung cấp giống. Bên cạnh
đó nghiên cứu và tận dụng những thành quả đã có trong nước về chọn giống
và nhập thêm một số giống có năng suất cao của các nước có điều kiện sinh
thái tương tự để khảo nghiệm và làm đa dạng, phong phú thêm nguồn giống
cây rừng phục vụ cho việc đẩy nhanh trong tác trồng rừng.
Ngoài ra cần tận dụng tối đa giống từ các rừng giống đã được Bộ
NN&PTNT công nhận để nhân giống, đóng góp vào công tác chọn tạo
giống cho trồng rừng nhằm mục tiêu phủ xanh đất trống đồi trọc, tăng năng
suất, chất lượng và sản lượng rừng đáp ứng nhu cầu về gỗ ngày càng tăng
lên trong nước và xuất khẩu.
2.1.3.6. Tiến bộ kỹ thuật về trồng rừng
Những tiến bộ khoa học công nghệ lâm sinh phục vụ cho công tác
trồng rừng và phát triển ngành Lâm nghiệp đã được các viện khoa học, các
trường, trung tâm và các địa phương, cơ sở sản xuất tổng kết xây dựng và ban
hành gần 100 tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và hướng dẫn kỹ thuật lâm
sinh. Đáng chú ý nhất là quy phạm về giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng
sản xuất, quy phạm về thiết kế trồng rừng, xây dựng vườn giống, rừng giống
và chuyển hoá rừng giống, ngoài ra còn có hơn 50 quy trình, quy phạm,
hướng dẫn kỹ thuật tạo cây con trồng rừng, tái sinh chồi cho 40 loài cây, quy
25
trình tỉa thưa, phòng chống sâu bệnh hại cho một số loài cây và quy phạm
phòng chống cháy rừng.
Trần Văn Con (2005) [8] tổng kết về các thành tựu trong kỹ thuật trồng
rừng như sau: Các nghiên cứu về chọn loài cây trồng và lập địa thích hợp
trong trồng rừng đã ưu tiên nghiên cứu và đã có những thành tựu nhất định.

Tuy nhiên, phần lớn các kết quả nghiên cứu này chưa được chuyển thành quy
trình hay hướng dẫn kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất áp dụng. Vì vậy rất nhiều
chủ rừng vẫn còn khá lúng túng trong việc chọn lập địa và chọn loài cây trồng
thích hợp
Phương thức trồng rừng đã có những tiến bộ từ trồng rừng thuần loài
(Thông, Bồ đề, Mỡ, Bạch đàn, Keo ) đến trồng hỗn loài, trồng cây phù trợ
“tạo áo” nâng cao độ ổn định sinh thái của hệ sinh thái rừng trồng. Các kỹ
thuật về thời vụ trồng, mật độ trồng tối ưu, tiêu chuẩn cây con đem trồng
cũng đã được ứng dụng. Một số loài cây đã có quy trình trồng rừng và quản
lý rừng trồng như: Thông, Bồ đề, Mỡ, Bạch đàn, Keo và được các cơ sở
sản xuất áp dụng.
Các thành tựu trong trồng rừng thâm canh với suất đầu tư cao để nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm rừng trồng đã được áp dụng đối với
trồng rừng cung cấp nguyên liệu. Các biện pháp kỹ thuật mũi nhọn trong
trồng rừng thâm canh là giống, phân bón và kỹ thuật làm đất.
Về kỹ thuật bón phân, đã có những thành tựu trong việc xác định lượng
phân hữu cơ vi sinh và NPK tổng hợp để bón lót và bón thúc cho các cây trồng.
Tuy nhiên, đối với từng loài cụ thể, trên từng lập địa và điều kiện đất đai cụ thể
và từng giai đoạn phát triển thì kỹ thuật bón phân từ việc chọn loại phân, lượng
phân, thời điểm bón vẫn chưa được xác định một cách hợp lý, có căn cứ.

×