Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Bài giảng ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP - đại học Duy Tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.58 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC DUY TÂN
Khoa Ngoại ngữ
Bài giảng
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
Giảng viên biên soạn: Ths.Nguyễn Đình Bá
1
GIỚI THIỆU
Ngày nay sự phát triển của xã hội đòi hỏi tính bền vững. Môi trường sống của
trái đất đang bị đe dọa bởi những công ty sản xuất và kinh doanh ô nhiễm. Thực phẩm
các loại đầy dẫy những nguy hại đến sức khỏe cộng đồng. Mỗi quốc gia cho đến toàn
thế giới đều đang phối hợp góp sức xây dựng những môi trường sống lành mạnh, đấu
tranh với những việc sản xuất và kinh doanh vô đạo đức làm ảnh hưởng đến sức khỏe và
cuộc sống của cộng đồng. Đã qua rồi tư tưởng làm việc, kinh doanh “Sống chết mặc bây
tiền thầy bỏ túi”, mỗi sinh viên chúng ta cần ý thức được việc làm của mình, mỗi công
ty đơn vị càng cần phải ý thức những hoạt động của mình sao cho không làm tổn hại
đến sự phát triển chung của xã hội. Do vậy việc tìm hiểu và nghiên cứu “Đạo đức nghề
nghiệp” là rất cần thiết cho mỗi sinh viên để sống làm việc và ứng xử một cách đạo đức
nhằm bảo vệ cho sự phát triển chung của xã hội trong đó có chính bản thân mình.
MỤC TIÊU
Sau khi học xong học phần này, bạn sẽ:
- Hiểu được tầm quan trọng của đạo đức trong nghề nghiệp;
- Những chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh;
- Sẽ làm việc, kinh doanh một cách có đạo đức.
SÁCH GIÁO KHOA & TÀI LIỆU
Giáo trình “Đạo đức kinh doanh” (Business Ethics) do nhóm dịch thuật DTU
dịch từ sách “Business Ethics” của Laura P. Hartman và Joe DesJardins viết nhà xuất
bản Mc. Graw Hill và nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm
2008 - Đọc các tài liệu, bài mẫu được phân về nhà cuối mỗi buổi học.
2
Chương 1: Đạo đức kinh doanh
A. Mục tiêu của chương


1. Giải thích tại sao đạo đức rất quan trọng trong môi trường kinh doanh.
2. Giải thích được bản chất của đạo đức kinh doanh như là một nguyên tắc
chuẩn mực.
3. Phân biệt giữa đạo đức cá nhân với đạo đức trách nhiệm xã hội.
4. Tìm thấy điểm khác biệt giữa các quy chuẩn và giá trị đạo đức với các quy
chuẩn và giá trị kinh doanh khác.
5. Phân biệt thế nào là trách nhiệm pháp luật và thế nào là trách nhiệm đạo đức.
6. Lý giải tại sao trách nhiệm đạo đức lại quan trọng hơn cả trách nhiệm tuân
thủ pháp luật.
7. Phân biệt thế nào là tình huống đưa ra trách nhiệm đạo đức và thế nào là tình
huống đưa ra những quyết định thực tế khác.
B. Các bài học
1.1. Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội
Khái niệm “đạo đức kinh doanh” và “trách nhiệm xã hội” thường hay bị sử
dụng lẫn lộn. Trên thực tế, khái niệm trách nhiệm xã hội được nhiều người sử dụng
như là một biểu hiện của đạo đức kinh doanh. Tuy nhiên, hai khái niệm này có ý nghĩa
hoàn toàn khác nhau.
Nếu trách nhiệm xã hội là những nghĩa vụ một doanh nghiệp hay cá nhân phải
thực hiện đối với xã hội nhằm đạt được nhiều nhất những tác động tích cực và giảm tối
thiểu các tác động tiêu cực đối với xã hội thì đạo đức kinh doanh lại bao gồm những
quy định và các tiêu chuẩn chỉ đạo hành vi trong thế giới kinh doanh. Trách nhiệm xã
hội được xem như một cam kết với xã hội trong khi đạo đức kinh doanh lại bao gồm
các quy định rõ ràng về các phẩm chất đạo đức của tổ chức kinh doanh, mà chính
những phẩm chất này sẽ chỉ đạo quá trình đưa ra quyết định của những tổ chức ấy.
Nếu đạo đức kinh doanh liên quan đến các nguyên tắc và quy định chỉ đạo
những quyết định của cá nhân và tổ chức thì trách nhiệm xã hội quan tâm tới hậu quả
của những quyết định của tổ chức tới xã hội. Nếu đạo đức kinh doanh thể hiện những
3
mong muốn, kỳ vọng xuất phát từ bên trong thì trách nhiệm xã hội thể hiện những
mong muốn, kỳ vọng xuất phát từ bên ngoài.

Tuy khác nhau nhưng đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội có quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Đạo đức kinh doanh là sức mạnh trong trách nhiệm xã hội vì tính liêm chính và
sự tuân thủ đạo đức của các tổ chức phải vượt xa cả sự tuân thủ các luật lệ và quy
định. Có nhiều bằng chứng cho thấy trách nhiệm xã hội bao gồm đạo đức kinh doanh
liên quan tới việc tăng lợi nhuận.
Các vụ tranh cãi về các vấn đề đạo đức hoặc trách nhiệm đạo đức thường được
dàn xếp thông qua những hành động pháp lý dân sự. Các ví dụ:
Tổng công ty Bausch & Lomb đã phải chịu một vụ thua lỗ khoảng 54% thu
nhập sau khi các nhà quản lý “đùa giỡn và bỏ qua các quy định kế toán và đạo đức”.
Công ty Pennzoil đã phải chi trả 6,75 USD để dàn xếp vụ kiện về phân biệt
chủng tộc, công ty này đã bị quy kết là đã trả lương cho những nhân viên người da đen
thấp hơn và cho họ ít cơ hội đựoc thăng tiến hơn so với những nhân viên da trắng.
Với tư cách là một nhân tố không thể tách rời của hệ thống kinh tế - xã hội,
doanh nghiệp luôn phải tìm cách hài hoà lợi ích của các bên liên đới và đòi hỏi, mong
muốn của xã hội.
Khó khăn trong các quyết định quản lý không chỉ ở việc xác định các giá trị, lợi
ích cần được tôn trọng, mà còn cân đối, hài hoà và chấp nhận hy sinh một phần lợi ích
riêng hoặc lợi nhuận. Chính vì vậy, khi vận dụng đạo đức vào kinh doanh, cần có
những quy tắc riêng, phương pháp riêng là đạo đức kinh doanh, và các trách nhiệm ở
phạm vi và mức độ rộng lớn hơn, trách nhiệm xã hội.
1.2. Lịch sử ngành đạo đức kinh doanh
1
Thuật ngữ " đạo đức kinh doanh" được dùng trong rất nhiều trường hợp và lịch
sử của nó thay đổi tùy theo những vấn đề liên quan nào sẽ được bàn thảo. Lịch sử này
sẽ cũng thay đổi phần nào tùy theo quan điểm người viết trong từng trường hợp cá
biệt, cũng như tùy theo quan điểm của sử gia về quan niệm đạo đức, cộng với những
dữ kiện họ sẵn có trong tay hoặc sẽ tìm ra, hoặc mức độ quan trọng mà người viết sử
gán cho những sự kiện đó. Vì thế, dựa trên những chi tiết khác nhau, câu chuyện tôi kể
hôm nay sẽ không giống với câu chuyện của những người khác sẽ kể, và có thể dẫn

1
Richard T. De George
4
đến những cuộc bàn luận vì nhiều người không đồng ý kiến với tôi. Như thế chẳng tốt
hơn là ai cũng cùng một ý kiến, cùng lập đi lập lại mãi những chi tiết giống nhau?
Câu chuyện tôi kể sẽ có ba hướng, vì tôi tin là thuật ngữ đạo đức kinh doanh
được sử dụng ít ra trong ba ý nghĩa khác nhau, nhưng vẫn liên quan với nhau. Những ý
nghĩa này đương nhiên sẽ là những điểm chính để bàn thảo về đề tài trên đây.
Ý nghĩa đầu tiên của thuật ngữ này liên quan đến những sự phát triển trong thời
gian gần đây và liên quan đến giai đoạn từ khoảng chừng đầu thập niên 1970, khi mà
thuật ngữ "đạo đức kinh doanh" được sử dụng thường xuyên ở Hoa Kỳ. Nguồn gốc
của ý nghĩa này có thể tìm thấy trong môi trường học viện, nơi xuất phát những bài
khảo luận hay hội thảo có tính chất hàn lâm trong lãnh vực giảng dạy, nghiên cứu và
xuất bản. Đó là một hướng của câu chuyện.
Khi thuật ngữ này được dùng rộng rãi trong giới truyền thông và công chúng,
nó thường trở thành đồng nghĩa với những vụ bê bối trong doanh nghiệp hay tổng quát
hơn, có thể cho là "những luật lệ trong kinh doanh." Bằng ý nghĩa rộng này, lịch sử
của chữ đạo đức kinh doanh trở về cái nguồn gốc của chữ kinh doanh, là những trao
đổi thương mại và sau này cũng có nghĩa là những hệ thống kinh tế. Đó là một hướng
khác của câu chuyện.
Hướng thứ ba của câu chuyện liên quan đến ý nghĩa thứ ba của đạo đức kinh
doanh. Nó hướng đến một phong trào trong phạm vi thương trường hay là phong trào
nhằm tạo dựng rõ ràng một nền đạo đức trong cơ cấu của doanh nghiệp qua những quy
phạm và cùng những viên chức và hội đồng kiểm tra đạo đức doanh nghiệp. Thêm vào
đó, thuật ngữ này đã được dùng rộng rãi trên toàn thế giới, cho dù cái ý nghĩa của nó
bên Âu châu thì phần nào khác cái ý nghĩa dùng ở Hoa Kỳ.
Ý nghĩa "Quy luật đạo đức" trong "đạo đức kinh doanh"
Theo nghĩa rộng, quy luật đạo đức trong doanh nghiệp đơn giản chỉ là sự áp
dụng những điều đạo đức hàng ngày hay quy phạm đạo đức vào việc kinh doanh. Có
lẽ thí dụ dễ nhớ nhất là những luật lệ đạo đức từ Mười Điều Răn trong Kinh Thánh,

mà ngày nay vẫn còn là điều hướng dẫn được nhiều người dùng đến. Cụ thể như điều
khuyên về sự trung thực và thành thật, hoặc điều ngăn cấm về trộm cắp hay ganh tỵ là
những điều vẫn thường được áp dụng. Một vài khái niệm về quản lý có thể tìm thấy
trong Kinh Thánh, cũng như những khái niệm đã được áp dụng vào kinh doanh.
Những truyền thống hay tôn giáo khác cũng có những văn bản thiêng liêng hay cổ xưa
5
dùng để hướng dẫn con người trong mọi lãnh vực, kể cả kinh doanh, qua nhiều thế kỷ,
và vẫn còn tiếp tục được áp dụng.
Nếu chuyển từ lãnh vực tôn giáo sang triết lý, chúng ta cũng có một truyền
thống lâu đời tương tự. Plato được biết đến qua những cuộc thảo luận về pháp luật của
ông trong tác phẩm "Cộng Hòa Luận" và Aristotle đã bàn thật rõ ràng những mối quan
hệ kinh tế, thươmg mại và mậu dịch dưới nhan đề "hộ gia đình" trong tác phẩm
"Chính Trị Luận" của ông. Nhận định của Aristotle về mậu dịch, trao đổi, sở hữu,
trưng thu, tiền tệ và tài sản hầu như cũng còn ảnh hưởng đến ngày nay. Ông đưa ra
nhiều điều phán xét về sự tham lam và việc lạm dụng quá đáng sức lực con người để
theo đuổi sự giàu có. Ông cũng chỉ trích việc cho vay nặng lãi vì nó liên quan đến lợi
nhuận của bản thân tiền tệ hơn là từ quá trình trao đổi mà trong đó đồng tiền chỉ là một
phương tiện
2
. Aristotle cũng đưa ra định nghĩa cổ điển về sự công bằng: những người
đồng đẳng phải được đối xử bình đẳng, sòng phẳng trong giao dịch "tiền nào của nấy,"
và sự tưởng thưởng tương xứng với công lao
3
.
Ở phương Tây, sau khi La Mã suy tàn, giáo lý Cơ Đốc trở thành tư tưởng chủ
đạo, và dù đã có nhiều sự thảo luận khác nhau về sự giàu nghèo, về chủ quyền và sở
hữu, vấn đề kinh doanh vẫn chưa được nói đến một cách có hệ thống, ngoại trừ trong
nội dung của pháp lý và dựa theo sự thành thật trong việc mua bán. Ta thấy điều này
trong lập luận của Thomas Aquinas về việc bán hàng hóa đắt hơn giá trị thật của
chúng với giá bán cao hơn là giá mua. Và dựa trên lập luận của Aristotle, Aquinas chỉ

trích vấn đề cho vay nặng lãi
4
. Tuy nhiên, ông cũng biện minh cho sự vay mượn hợp lý
từ những người sẵn sàng cho vay lấy lời.
Luther, Calvin và John Wesley, là ba trong số những người theo chính sách Cải
Cách cũng đã bàn thảo về vấn đề mậu dịch và kinh doanh và đã đi tiên phong trong
việc phát triển quy luật đạo đức trong công việc (lương tâm nghề nghiệp) của người tín
đồ đạo Tin Lành
5
. Tác phẩm "Tôn giáo và Sự Phát triển của Chủ nghĩa Tư bản"
6
của
R. H. Tawney lý giải một cách thuyết phục rằng tôn giáo là một phần căn bản trong sự
phát triển chủ nghĩa cá nhân và của nền thương mại như ta thấy trong giai đoạn hiện
2
Aristotle, Politics, Book I, especially Ch. 8-10.
3
Aristotle, Nicomachean Ethics, ed. Roger Crisp (Cambridge: Cambridge University Press, 2000), p. 88.
4
Summa Theologiae, II-II, Question 77.
5
See Max L. Stackhouse, Dennis P. McCann and Shirley J. Roels, with Preston N. Williams, eds., On Moral
Business: Classical and Contemporary Resources for Ethics in Economic Life (Grand Rapids, Mich.: William B.
Eerdmans Publishing Company, 1995).
6
New York: Harcourt, Brace and Co., 1926.
6
đại này. Tuy nhiên, giai đoạn này lại tìm cách ly khai tôn giáo khỏi thế gian và ly khai
chính trị khỏi tôn giáo. Trong quá trình này, kinh tế và hoạt động kinh tế cũng bị tách
biệt khỏi tôn giáo và liên kết với chính trị để tạo nên cái gọi là kinh tế-chính trị học.

John Locke đã khai triển chính sách cổ điển về quyền bảo vệ tài sản như là một
quyền hạn tự nhiên. Theo ông, con người có được tài sản nhờ kết hợp sức lao động với
những gì họ tìm thấy trong thiên nhiên
7
. Adam Smith, người được xem là cha đẻ của
nền kinh tế hiện đại qua tác phẩm "Khảo sát về Nguồn gốc và Bản chất của sự Giàu có
của Quốc gia," khai triển khái niệm sức lao động của Locke thành một "lý thuyết về
giá trị của lao động." Hiện thời, các nhà bình luận xem ông là người cổ xúy cho nền
kinh tế "tự do" và chú trọng vào thành ngữ "bàn tay vô hình" của ông. Nhưng các nhà
bình luận này quên rằng Smith cũng từng là một triết gia về đạo đức và là tác giả của
tác phẩm "Lý thuyết về Tính chất Đạo đức của Tình cảm". Theo ông, hai lãnh vực đạo
đức và kinh tế không thể tách biệt được. John Stuart Mill, Immanuel Kant, G. W. F.
Hegel đều viết về những đề tài kinh tế và sự phân phối tài sản công bằng. Tuy nhiên,
Karl Marx, nổi bật lên như một người phê phán chủ nghĩa tư bản sắc bén nhất khi chủ
nghĩa này phát triển trong thế kỷ 19. Sự phê phán của Marx dưới hình thức này hay
hình thức khác vẫn tiếp diễn đến ngày nay, ngay cả khi không đề cập đến Marx.
Marx nhận định rằng chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên sự bóc lột sức lao
động. Đó là một nhận định thật sự hay chỉ là một lời phê phán đạo đức, cũng là điều
còn phải bàn cãi, nhưng có lẽ nó đã được xem là lời chỉ trích về đạo đức vì "sự bóc
lột" là một thuật ngữ tố cáo có tính cách đạo đức và hình như Marx có vẻ thiên về tố
cáo sự bất công. Nhận định của Marx dựa trên sự phân tích của ông về "lý thuyết về
giá trị thặng dư lao động", qua đó tất cả giá trị kinh tế có được từ sức lao động của con
người mà ra. Theo Marx, món hàng hóa duy nhất không được bán đúng giá là sức lao
động. Các công nhân được trả công ít hơn là giá trị họ sản xuất ra. Sự sai biệt giữa giá
trị mà các công nhân sản xuất ra và giá mà họ được trả công là nguồn gốc của lợi
nhuận cho chủ hãng hay chủ của những phương tiện sản xuất. Nếu các công nhân được
trả công bằng giá trị mà họ sản xuất ra thì sẽ không có lợi nhuận và chủ nghĩa tư bản
sẽ biến mất. Thay vào đó là chủ nghĩa xã hội và dần dà là chủ nghĩa cộng sản, trong
đó, mọi tài sản đều là của chung toàn xã hội (trái ngược với của cá nhân), và trong đó
mọi thành viên của xã hội sẽ làm việc theo khả năng và hưởng theo nhu cầu của họ.

7
John Locke, "Of Property," Second Treatise: An Essay Concerning the True Original, Extent and End of Civil
Government.
7
Kết quả sẽ là sẽ có một xã hội (từ từ sẽ là cả thế giới) không còn sự bóc lột cùng sự
phân biệt mà giới công nhân trong những xã hội tư bản phải chịu đựng.
Khái niệm "bóc lột" đã được Lenin khai triển trong tác phẩm "Chủ Nghĩa Đế
Quốc: Giai đoạn Tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản", trong đó ông đã nhận định rằng sự
bóc lột công nhân trong những nước phát triển đã giảm bớt và điều kiện làm việc của
giới công nhân đã được nâng cao vì sự bóc lột tồi tệ nhất đã được đem qua các thuộc
địa. Sự phê phán của ông đã được nhiều nhà phê bình đương thời áp dụng; họ cho rằng
những công ty đa quốc gia thâu được lợi nhuận bằng cách bóc lột công nhân tại những
nước kém phát triển hơn.
Lập luận của Marx ảnh hưởng mạnh mẽ tới giới công nhân thời đó và góp phần
lập ra phong trào lao động, qua đó giúp cải thiện điều kiện làm việc của công nhân.
Frederich Engels, người cộng tác với Marx, nhận định thế giới được phân chia bởi
những người theo Marx và những người theo tôn giáo. Rồi những người theo lý thuyết
Marx tìm cách chinh phục tâm hồn của giới công nhân. Đức Giáo Hoàng Leo XIII,
không chấp nhận để đạo đức bị mất vị thế cao cả và vai trò của đạo đức trên hành vi
của con người, đã ban hành Tông thư Giáo hoàng đầu tiên về vấn đề công bằng xã hội:
Rerum Novarum. Tông thư này nhằm phản đối lập luận của Marx và biện minh cho
quyền tư hữu, đồng thời đưa ra câu trả lời cho sự bóc lột qua khái niệm đồng lương
hợp lý, là tiền lương đủ nuôi sống người công nhân cần kiệm và lương thiện cùng với
vợ con họ
8
. Những đức giáo hoàng sau này đã theo gương Giáo hoàng Leo. Năm 1931,
Đức Giáo Hoàng Pius XI viết Quadegesimo Anno (Tông thư sau 40 năm) đả kích, cả
hai chủ nghĩa xã hội xô-viết và chủ nghĩa tư bản "tự do" về phương diện đạo đức.
Luận đề này được tiếp nối bởi Đức Giáo Hoàng John Paul đệ II trong Laborem
Exercens (Tông thư về Lao động, 1981) và Centesimus Annus (Tông thư kỷ niệm 100

năm, 1991). Năm 1984 Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cũng đã ban hành một Lá Thư
Giám Mục với cùng quan điểm, nhưng cởi mở hơn đối với hệ thống kinh doanh tự do
của Hoa Kỳ. Mục đích của những tông thư này không đề cử ra một hệ thống kinh tế
nào cả, mà chỉ để nhấn mạnh rằng bất kỳ hệ thống kinh tế nào cũng không được mâu
thuẫn với những nguyên lý đạo đức Thiên Chúa Giáo và cải thiện những điều kiện làm
việc của quảng đại quần chúng, nhất là cho những người nghèo người kém may mắn.
Cho nên, dù những đức giáo hoàng phê phán các cấu trúc kinh tế hiện hữu, điều các
8
Rerum Novarum, nos. 45-46.
8
ngài khẳng định vẫn chủ yếu là mọi cá nhân phải sống theo những quy luật đạo đức,
kể cả phải làm những việc từ thiện.
Mặc dù không có một quyền lực trung ương để ban hành nhữnh chỉ thị như
tông thư giáo hoàng, truyền thống đạo Tin Lành cũng vẫn giống truyền thống bên
Thiên Chúa giáo. Có lẽ nhân vật trong đạo Tin Lành có nhiều ảnh hưởng nhất trong
vấn đề này là Reinhold Niebuhr mà tác phẩm "Con người Đạo đức và Xã hội Vô
luân"
9
phê phán sắc bén chủ nghĩa tư bản của ông đã trở thành giáo trình căn bản trong
những hội nghị hay học viện thần học. Năm 1993, Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới đã
đưa ra bản "Tuyên ngôn Đạo đức Toàn cầu" để lên án sự phá hoại những hệ thống môi
sinh của trái đất, sự nghèo túng, đói khát và sự bất bình đẳng đã đưa nhiều gia đình
vào cảnh tan nát.
Quan niệm đạo đức trong kinh doanh tiếp tục cho đến ngày nay. Nói chung, ở
Hoa Kỳ điều này tập trung vào những cách hành xử đạo đức hay luân lý của các cá
nhân. Chính trong ý niệm này mà nhiều người khi bàn thảo về vấn đề đạo đức kinh
doanh, đã đưa ra tức khắc các thí dụ về những hành vi vô đạo đức hay vô luân của
nhiều cá nhân. Trong khái niệm đó, cũng có sự phê phán các công ty đa quốc gia đã sử
dụng sức lao động của trẻ em hay là trả mức lương chết đói cho công nhân ở những
nước kém phát triển Sự phê phán này cũng nhắm vào những công ty đã mua nguồn

hàng từ những hãng xưởng bóc lột sức lao động công nhân. Nhiều người trong giới
kinh doanh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi đức tin theo tôn giáo và những quy thức luân
lý trong hoạt động kinh doanh của họ. Aaron Feuerstein là một điển hình. Khi hỏa
hoạn thiêu hủy hầu hết cơ xưởng Malden Mills của ông, ông đã trả lương đều cho các
công nhân cho đến khi ông có thể xây dựng lại. Ông thường công khai nói rằng ông
chỉ làm điều mà đức tin trong đạo Do Thái của ông chỉ dạy.
Hướng này của câu chuyện có lẽ là hướng đầu tiên trong suy nghĩ của một
người bình thường khi nghe thuật ngữ đạo đức kinh doanh. Giới truyền thông truyền
bá những câu chuyện về ban lãnh đạo Enron làm việc vô đạo đức hay về những hoạt
động phi đạo đức của Arthur Andersen hay WorldCom,vân vân, và công chúng xem
như đây là điều tiêu biểu cho sự hiện diện và cho những nhu cầu về đạo đức kinh
doanh. Điều họ đề cập là sự cần thiết của đạo đức trong kinh doanh.
Đạo đức Kinh Doanh - Một Ngành Học Thuật
9
New York: Scribner's, 1932.
9
Nếu ta xem Đạo đức kinh doanh như là một ngành học thuật hoặc là một phong
trào trong doanh nghiệp, thì nó có một lịch sử gần hơn. Trong hướng thứ hai của câu
chuyện này, ta sẽ xét xem đạo đức kinh doanh như một ngành học thuật.
Thập niên 1960 đánh dấu một sự thay đổi thái độ về xã hội ở Hoa Kỳ và về
thương mại. Thế chiến thứ hai đã qua, chiến tranh lạnh đang hiện diện và chiến tranh
Việt Nam là lý do đưa đến nhiều sự chống đối về chính sách công và đến cái gọi là sự
kết hợp quân sự-công nghiệp; những sự chống đối này khiến cho quần chúng gia tăng
sự phê phán và đòi hỏi kiểm soát chính quyền nhiều hơn nữa. Phong trào Đòi Dân
quyền đã được công luận để ý. Hoa Kỳ ngày càng trở nên một lực lượng kinh tế thống
lãnh trên trường quốc tế. Những công ty đa quốc gia có gốc ở Mỹ đang lớn lên cả về
tầm vóc lẫn tầm quan trọng. Công ty lớn hình thành thay thế những công ty nhỏ và vừa
trong hình ảnh xã hội của thương mại. Kỹ nghệ hóa chất mở mang với nhiều sáng chế
và trong sự vươn lên đó mang theo những tai họa môi sinh trong tầm mức chưa từng
có trước đây. Tinh thần của những sự chống đối dẫn đến phong trào bảo vệ môi sinh,

đến sự hình thành quyền của người tiêu thụ và sự chỉ trích những công ty đa quốc gia.
Các công ty chịu sự công kích và chỉ trích của công chúng đã phản ứng bằng cách khai
triển khái niệm về trách nhiệm xã hội. Họ khởi xướng những chương trình này và chi
phí nhiều tiền nhằm quảng cáo cho những chương trình này và những ảnh hưởng tốt
trong việc phục vụ đời sống xã hội. Cái nghĩa chính xác của "trách nghiệm xã hội"
thay đổi tùy theo ngành kỹ nghệ và công ty. Nhưng cho dù đó là việc trồng lại rừng
hay cắt giảm ô nhiễm hay nâng cao sự đa dạng trong lực lượng nhân công, tinh thần
trách nhiệm xã hội đã là thuật ngữ dùng để phản ánh những hoạt động có ích cho xã
hội của một công ty và thường thường, những hoạt động đó được ngầm hiểu là để bù
đắp cho những hoạt động vô luân lý hay đi ngược lại lợi ích xã hội mà công ty đó đang
bị kiện cáo. Những học viện về kinh doanh đáp ứng bằng cách khai triển những khóa
học về trách nhiệm xã hội hay những chủ đề về xã hội trong ngành quản trị - những
khóa học đó ngày nay vẫn còn thịnh hành. Trong thập niên 1960, phần nhiều những
khóa học đó nhấn mạnh về luật lệ và quan điểm của giới quản lý, mặc dù chẳng bao
lâu quan điểm của giới công nhân, giới tiêu thụ và công chúng đã được đưa thêm vào.
Các sách giáo khoa đã không chú tâm một cách hệ thống đến lý thuyết đạo đức, và đã
có khuynh hướng chú trọng đến những nghiên cứu thực nghiệm hơn là đến sự phát
10
triển hay sự bênh vực cho những tiêu chuẩn dùng để đánh giá những hoạt động của
doanh nghiệp.
Lịch sử của phong trào tinh thần trách nhiệm xã hội là một câu chuyện của
chính nó và là câu chuyện mà mỗi người viết lại một cách khác nhau. Một câu chuyện,
viết bởi Archie Carroll, mô tả tinh thần trách nhiệm xã hội như là một kim tự tháp kết
nối bốn loại trách nhiệm mà các cơ sở kinh doanh có: Phần đáy là kinh tế, rồi đến pháp
lý và đạo đức và rồi là lòng nhân đạo. Và mặc dù nhiều người đại diện cho tinh thần
trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp cho rằng họ đã áp dụng đạo đức trong kinh
doanh trước khi vấn đề này trở thành phổ thông và tuyên xưng rằng những điều họ làm
chính là đạo đức kinh doanh. Nhưng chắc chắn đấy không phải là loại đạo đức kinh
doanh mà tôi sắp kể dưới đây.
Đạo đức kinh doanh được xem là một ngành học thuật trổi lên vào thập niên

1970. Trước thời này cũng đã có vài khóa học được gọi bằng tên này; và có vài nhân
vật, như Raymond Baumhart
10
, đã bàn tới lãnh vực đạo đức và kinh doanh. Phần lớn
những vấn đề đạo đức, nếu được bàn thảo đến, đã được giải quyết trong những khóa
học về vấn đề xã hội. Những nhà thần học hay nghiên cứu về tôn giáo cũng như các
chuyên gia về truyền thông tiếp tục viết và giảng dạy vấn đề này; các giáo sư trong
ngành quản trị tiếp tục viết và nghiên cứu vấn đề trách nhiệm xã hội của cơ sở kinh
doanh. Thành phần và chất xúc tác mới dẫn đến lãnh vực đạo đức kinh doanh là sự
xuất hiện của một số lượng đáng kể những triết gia đã đem lý thuyết về đạo đức và
những phân tích triết lý để bàn luận về nhiều loại đề tài kinh doanh khác nhau. Sự xuất
hiện của ngành đạo đức kinh doanh nàylà kết quả của sự giao tiếp của lý thuyết đạo
đức với những việc nghiên cứu thực nghiệm và sự phân tích các trường hợp và vấn đề
được khảo sát…
Norman Bowie định ngày sinh của ngành đạo đức kinh doanh học là vào tháng
11 năm 1974, qua hội nghị đầu tiên về chủ đề đạo đức kinh doanh được tổ chức ở
trường Đại học Kansas. Kết quả đạt được là một tuyển tập luận đề đầu tiên đã được
dùng trong những khóa học mới về ngành này mở ra ào ạt về sau. Chỉ từ lúc đó những
hoạt động rộn ràng kể trên mới được khai triển chỉ trong một khoảng thời gian ngắn.
Năm 1979, ba tuyển tập trong ngành đã xuất hiện: Lý thuyết Đạo đức và Kinh doanh
của Tom Beauchamp và Norman Bowie, Các Vấn đề Đạo đức trong Kinh doanh: Qua
10
How Ethics Are Businessmen?" Harvard Business Review, 39 (4) (1961) and Clarence Walton Corporate
Social Responsibilities (Belmont, CA: Wadsworth Publishing Co., 1967).
11
Lăng kính Triết học của Thomas Donaldson và Patricia Werhane, và Các Vấn dề Đạo
đức trong Doanh nghiệp của Vincent Barry. Năm 1982, những quyển sách đầu tiên
trong ngành học này viết bởi một tác giả duy nhất xuất hiện; đó là Đạo đức Kinh
doanh của Richard De George và Đạo đức Kinh doanh: Khái niệm và Các Trường
hợp Khảo sát của Manuel G. Velasquez. Những quyển sách này có ngay một thị

trường đang sẵn sàng đón nhận và những khóa học về đạo đức kinh doanh trong những
phân khoa triết học và những trường dạy kinh doanh đã phát triển một cách nhanh
chóng. Như thế, số lượng sách giáo khoa đã theo đó mà gia tăng gấp bội.
Ngành học này đã phát triển tương tự như ngành đạo đức trong y khoa, cũng đã
trổi lên mười năm trước trong thập niêm 1960, và cái danh xưng cũng song hành với
ngành học trước - mặc dù ngay cả một điều là thuật ngữ "đạo đức kinh doanh" có nên
được chấp nhận hay không cũng đã được bàn thảo trong vòng một nhóm tương đối
nhỏ những người đã xúc tiến khởi xướng điều cơ bản để trở thành một ngành học
thuật. Công trình tiên khởi của John Rawls năm 1971, Một Lý thuyết về Công lý, đã
giúp cho việc áp dụng vấn đề đạo đức và những đề tài kinh tế và kinh doanh được các
triết gia ở học viện chấp nhận hơn trước. Trong khi phần lớn những tác giả viết về đề
tài xã hội là các giáo sư trong lãnh vực kinh doanh, thì phần lớn những tác giả viết về
đạo đức kinh doanh đầu tiên lại là các giáo sư triết học, một số những người này giảng
dạy trong các học viện về kinh doanh. Điều phân biệt ngành đạo đức kinh doanh, một
ngành riêng biệt, với những vấn đề xã hội trong lãnh vực quản trị là:
1) Dù tinh thần trách nhiệm xã hội có thể đã và sẽ được những doanh nghiệp
định nghĩa nhằm che giấu những việc không tốt đẹp đã làm và để có thể trình bày
trước công luận là họ đang giúp ích cho xã hội, đạo đức tự nó có những tiêu chuẩn độc
lập mà doanh nghiệp không thể ảnh hưởng được.
2) Trong chiều hướng đó, ngành đạo đức kinh doanh đã khiến cho doanh
nghiệp, ít nhất phải đắn đo về cách thức làm ăn của họ - hơn rất nhiều so với cái
khuynh hướng của tinh thần trách nhiệm xã hội từng có. Nếu chúng ta nhìn lại cái kim
tự tháp của Archie Carroll, ta không thể xem đạo đức là một điều đi theo sau kinh tế và
pháp luật, nhưng nó phải là những hạn chế trên các hoạt động kinh tế hay là cơ sở để
biện minh cho việc ban hành các đạo luật về hành xử đạo đức trong doanh nghiệp và
để đề cử ra thêm những hạn chế pháp lý khác nhằm đáp ứng với thực tế. Kết quả là
ngành đạo đức kinh doanh và những nhà nghiên cứu về nó không được giới kinh
12
doanh tiếp đón nồng hậu, vì ngành này mang đến nhiều sự đe dọa cải cách, lại được
thuyết giảng bởi những người không phải đối mặt với những khó khăn thực tế của

công ty.
Sự phát triển của ngành học này không được dễ dàng và những học giả nghiên
cứu trong ngành cũng trước tiên chịu sự đón tiếp lạnh nhạt của các bạn đồng nghiệp
trong các khoa triết học, những người trong lãnh vực kinh doanh và trong các học viện
kinh doanh. Nhóm người đầu tiên trong khoa triết không xem vấn đề kinh doanh có
giá trị về mặt triết lý đáng để theo đuổi, và rất nhiều người đã có định kiến chống kinh
doanh. Nhóm những người sau chất vấn các nhà triết học có được gì hay ho từ vấn đề
này để đem vào lãnh vực kinh doanh. Những cố gắng ban đầu gặp nhiều khó khăn, và
càng ngày càng nhiều người theo vào ngành học này trong đó thường là những người
thiếu hiểu biết hay thực sự đi theo những cuộc bút chiến nhằm công kích hoặc bênh
vực giới kinh doanh. Nhiều nhà quan sát cho rằng ngành đạo đức kinh doanh chỉ là
một phong trào thời thượng rồi cũng sẽ mau chóng phai tàn. Nhiều người khác hiểu
lầm mục đích của ngành học này và xem nó như là phương tiện cung ứng sự biện minh
hay một lý lẽ cho bất kỳ chuyện gì mà giới kinh doanh muốn làm. Ngành học này đã
trải qua nhiều năm để tự khẳng định chính mình, để định ra những tiêu chuẩn học tập
khắt khe theo đúng chuẩn mực, và đã được công nhận. Là một ngành học, nó bao gồm
những căn bản về đạo đức trong kinh doanh, trong quyền tư hữu, và trong nhiều hệ
thống kinh tế khác nhau.
3) Mặc dù ngành học này có quan tâm đến giới quản lý và công nhân như là
những con người đứng đắn có trách nhiệm cũng như có quyền lợi, nó chú trọng nhiều
hơn đến công ty, với cấu trúc và những hoạt động, kể cả những chức năng kinh doanh
bao gồm thị trường, tài chánh, quản trị và sản xuất. Những vấn đề liên quan, như môi
trường bị ảnh hưởng qua những hoạt động kinh doanh được trình bày trong hầu hết các
khóa học hay sách giáo khoa, và vấn đề đuợc chú trọng ngày càng nhiều là hoạt động
của các công ty đa quốc gia.
Những cuộc thảo luận ban đầu giới thiệu cho các sinh viên hai kỹ năng cơ bản
để thảo luận về luân lý, một dùng bởi phe chủ trương "công lợi" (những người cho
rằng hoạt động để cung cấp ích lợi nhiều nhất cho nhiều người nhất là đúng) và một
bởi phe "đạo nghĩa" (cho rằng bổn phận, công lý và quyền hạn không thể bị giảm thiểu
theo tác động của lợi ích). Những khuynh hướng khác chẳng bao lâu cũng đã được

13
giới thiệu, bao gồm luật tự nhiên, đức hạnh đạo đức (dựa theo Aristotle) và lòng nhân
hợp đạo lý (thường được giới chủ trương nam nữ bình quyền sử dụng). Cuộc thảo luận
triết lý ban đầu liên quan đến tình trạng đạo đức của các công ty, về vấn đề sử dụng
ngôn ngữ đạo đức có thích hợp không khi nói về hành vi của các công ty này, hay là
đối tượng đúng đắn nhất cho việc đánh giá phương diện đạo đức chỉ là con người và
các hành động của nó. Điều tranh cãi đó không được giải quyết hoàn toàn nhưng phần
nhiều các tác giả chấp nhận là đã có nhiều tư tưởng đóng góp vào các hoạt động và
chính sách cho các công ty cũng như vào những cá nhân làm việc trong đó.
Sự phát triển ngành đạo đức kinh doanh, để hỗ trợ cho một nền đạo đức thông
thường, đã bị bế tắc ở điểm nào? Và ai là đối tượng?
Những người trong ngành triết học đưa thêm một khuôn mẫu lý thuyết vào
những lãnh vực còn khiếm khuyết. Trong khuôn mẫu đó, họ kết hợp cả khuynh hướng
trách nhiệm cá nhân (đã được chú trọng trong đạo đức doanh nghiệp) lẫn khuynh
hướng trách nhiệm xã hội (áp dụng đạo đức vào các hệ thống kinh tế, vào các định chế
doanh nghiệp, và vào sự hoạt động của các công ty).
Vấn đề đạo đức thông thường và đạo đức trong kinh doanh như đã được trình
bày là những chuyện bình thường, liên quan đến mọi khía cạnh đạo đức trong doanh
nghiệp. Nhân viên không nên ăn cắp của công ty và công ty thì không nên lường gạt
khách hàng. Không ai cần một chuyên gia đạo đức để chỉ cho họ chuyện này cả.
Nhưng nếu đó chỉ là những điều mà khoa đạo đức học kinh doanh đóng góp cho ngành
học này thì sự đóng góp đó quả thực là nông cạn. Thực ra, những nhà đạo đức học
trong kinh doanh không những đã đưa ra thêm những luận cứ chứng minh rằng những
quyết định theo lẽ thường là những quyết định đúng đắn, mà còn cung cấp thêm
phương tiện lý luận để thảo luận một cách khôn ngoan hơn về tính cách đạo đức của
những vấn đề mới. Họ có thể tham gia và đã tham gia vào những cuộc tranh luận như
vậy-thí dụ như cuộc thảo luận về tính chất hợp lý của những chính sách "hành động
tích cực"
11
nhằm trợ giúp thành phần thiểu số, hay một cách cơ bản hơn thảo luận về

định nghĩa của hành động tích cực. Những nhà đạo đức học phân tích và bảo vệ quyền
của công nhân, như quyền đình công, tính chất đạo đức trong việc quyết định lương
bổng của phụ nữ trong doanh nghiệp tương đương với nam giới, thế nào là hối lộ và tố
11
"Affirmative action" là một tập hợp những chính sách nhằm tạo bình đẳng về cơ hội cho dân chúng tại Mỹ bất
kể sắc tộc, giới tính, hay tôn giáo. Thuật ngữ này được tổng thống Kennedy dùng lần đầu tiên năm 1961. Theo
chính sách này, một công ty, trường học của Mỹ phải hội đủ chỉ tiêu thu dụng bao nhiêu phần trăm người da
màu, phụ nữ, vân vân.
14
cáo sai phạm, vân vân. Ta có thể thấy được những đóng góp này qua những tạp chí
chuyên đề bao gồm nhiều vấn để đã được thảo luận, soi sáng, và đã đưa đến kết luận.
Tính chất đạo đức của những việc như mua lại những công ty đang thua lỗ với giá rẻ,
đe dọa chiếm hữu doanh nghiệp bằng cách mua đa số cổ phiếu
12
, xuất cảng việc làm,
tái phối trí cơ cấu doanh nghiệp đều là những vấn đề phức tạp mà quy luật đạo đức
thông thường chưa có câu trả lời rõ ràng hay có những sự phán xét đúng sai rõ rệt.
Thật là lạ khi ta thấy rằng chẳng có công ty nào trước khi quyết định bỏ một số tiền
lớn đầu tư mà lại không nghiên cứu cẩn thận và chu đáo, nhưng cũng có những người
nghĩ rằng những sự phán xét đạo đức phải được thực hiện tức khắc không cần thì giờ
để suy nghĩ, thảo luận gì hết. Hãng Levi-Strauss, nổi tiếng lâu năm về việc bảo vệ uy
tín và giá trị, đã thành lập một ủy ban cao cấp nghiên cứu trong suốt ba tháng để xem
có nên đầu tư vào Trung Hoa hay không.
Tuy nhiên, nếu những người trong ngành đạo đức kinh doanh chỉ viết bài cho
chính họ, người ta có thể chất vấn về sự thiết thực của những điều đó. Những gì họ
viết giúp chuyển tải tài liệu đến một số lớn giảng viên dạy ngành này, và qua đó, ảnh
hưởng một số lớp sinh viên sau này sẽ trở thành giảng viên. Thêm nữa, nhiều người
trong giới kinh doanh cũng tìm đọc những tài liệu về đạo đức kinh doanh và nhờ
những tác giả này làm cố vấn về những vấn đề đạo đức hay nhờ họ soạn những quy
luật đạo đức cho công ty hoặc soạn thảo những chương trình huấn luyện về đạo đức.

Giới truyền thông cũng thường nhờ những người trong ngành học này hướng dẫn, giúp
đỡ hay đưa ra những lời trích yếu ngắn gọn để đưa tin (sound bite). Các học giả trong
ngành này cũng đã có những nỗ lực để mở ra cuộc đối thoại với giới kinh doanh và
cho tới nay thường thì cũng thành công. Do thế, đối tượng của những học giả đó
không chỉ còn là các đồng nghiệp hay giới sinh viên mà còn là giới quản trị công ty và
công chúng nói chung. Trung gian giữa các học giả trong thư phòng và người điều
hành công ty là giới tư vấn không nằm trong môi trường học viện, mà phần nhiều
trong số đó sử dụng những tài liệu chuyên đề này để thu thập tin tức mới mẻ nhất và
theo dõi những lập luận theo hay chống lại những phe phái khác nhau. Những người
này không chỉ đóng vai trò trung gian nhưng theo một ý nghĩa nào đó, còn là người
12
Thuật ngữ "greenmail" là một thuật ngữ mới gồm blackmail và greenback (đồng đô-la), tức là dùng tiền để đe
dọa một công ty bằng cách mua đủ số cổ phiếu để nắm quyền kiểm soát khiến cho công ty này phải tìm cách
mua lại số cổ phiếu với giá cao hơn.
15
thông dịch để chuyển hóa những thuật ngữ khô khan thành ra ngôn ngữ của giới kinh
doanh.
Hơn nữa, sự phát triển của một ngành học thuật không chỉ giới hạn trong các
sách giáo khoa và các khóa học. Điều khác biệt giữa những bài viết rời rạc, riêng rẽ lúc
ban đầu và những hội nghị xuất phát từ sự phát triển của ngành đạo đức kinh doanh
sau những năm giữa của thập niên 1970 chỉ là do chính trong thời gian sau này ngành
đã được định chế hóa ở nhiều mức độ khác nhau. Vào giữa thập niên 1980, đã có ít
nhất là 500 khóa học trong ngành được giảng dạy trên toàn quốc cho 40,000 sinh viên.
Không những chỉ có ít nhất là 20 sách giáo khoa và ít ra là 10 tủ sách, mà còn có
những hội đoàn, trung tâm, và tạp chí riêng cho ngành này nữa.
Đạo đức Kinh doanh Hội được thành lập vào năm 1980. Cuộc hội nghị đầu tiên
của Hội đã được tổ chức chung với hội nghị của Hiệp hội Triết học Mỹ vào tháng 12 ở
Boston. Những hội đoàn khác đã chú tâm nhiều đến vấn đề đạo đức kinh doanh, kể cả
khoa Những Vấn Đề Xã Hội trong Ngành Quản Trị, của Học Viện Quản Trị, thành lập
năm 1976. Những hội đoàn khác cũng mọc lên, như là Hiệp hội Quốc tế về Doanh

nghiệp và Xã hội. Lại còn có những hội đoàn khác nữa, hội thì chuyên môn hóa, hội
thì bao quát, cũng được hình thành. Một số học giả bên Âu châu cũng đã bắt đầu chú ý
đến sự phát triển này bên Hoa Kỳ và đã tổ chức hội nghị đầu tiên năm 1987. Nhiều
quốc gia riêng biệt ở Âu châu dần dần cũng lập nên những hệ thống hay hội đoàn về
đạo đức kinh doanh cho riêng họ. Nhìn chung thì phương cách của Âu châu trong lãnh
vực này chú trọng nhiều hơn vào kinh tế và những cấu trúc xã hội và ít để ý hơn đến
các hoạt động của các công ty, so với phương cách bên Hoa Kỳ. Cả hai phương cách
đều được góp chung lại trong Hiệp hội Quốc tế về Doanh nghiệp, Kinh tế và Đạo đức
được thành lập năm 1989. Hội đoàn này đã giúp cho các hội đoàn quốc gia trên toàn
thế giới lập nên các hội đoàn chuyên về đạo đức kinh doanh ở mức độ địa phương hay
trên địa bàn lớn hơn, cho nên bây giờ đã có nhiều hội đoàn như thế ở cả những nước
đã phát triển hay kém phát triển.
Song song với những sự phát triển này là sự thiết lập những trung tâm về đạo
đức kinh doanh ở nhiều học viện và sự thành lập một số các tạp chí chuyên ngành,
thêm vào những tạp chí khác đã từng có đăng tải các bài vở về lãnh vực này. Trung
Tâm Đạo Đức Kinh Doanh của trường Bentley College đã được thành lập năm 1976
và tiếp tục là một trong những trung tâm dẫn đầu trong ngành này. Hơn một chục
16
những trung tâm như thế đã xuất hiện trong vòng 10 năm sau đó, và nhiều trung tâm
nữa đã được thiết lập trong Hoa Kỳ và tại nhiều quốc gia trên thế giới. Các tạp chí như
Tạp chí Đạo đức Kinh doanh phát hành số đầu tiên tháng 2 năm 1982, Tứ Nguyệt San
Đạo đức Kinh doanh phát hành số đầu tiên tháng 1 năm 1991 và Đạo đức Kinh
doanh: Những Vấn đề tại Âu châu, tháng 1 năm 1992. Vài tạp chí khác trong cùng
ngành cũng đã xuất hiện sau đó.
Ngành học này đã tiếp tục phát triển theo với sự kinh doanh. Vào giữa thập niên
1980, kinh doanh hiển nhiên đã có tầm vóc thế giới và những chủ đề về ngành đạo dức
kinh doanh đã theo đó được mở rộng. Tác phẩm của Thomas Donaldson, Đạo đức
trong Đạo đức Kinh doanh (1989), đã là công trình đầu tiên trình bày lãnh vực đạo
đức kinh doanh thế giới một cách có hệ thống và theo sau đó là tác phẩm của Richard
De George, Cạnh tranh Lành mạnh trong Thị trường Quốc tế (1993). Dưới nhãn quan

của vấn đề toàn cầu hóa trong kinh doanh, các công ty đa quốc gia đã chú tâm đến
những vấn đề luân lý liên quan đến những tổ chức quốc tế, như Cơ Quan Mậu Dịch
Thế Giới. Tương tự, khi mà kinh doanh đã hướng ngày càng nhiều đến Thời Đại Tin
Học, ngành đạo đức kinh doanh cũng đã chuyển hướng chú tâm đến những vấn đề do
sự chuyển hướng này tạo nên.
Vào năm 1990, đạo đức kinh doanh đã được hoàn chỉnh thành một ngành học
thuật. Mặc dù những học giả từ buổi ban đầu đã tìm cách mở rộng mối quan hệ với
cộng đồng doanh nghiệp, lịch sử về sự phát triển của ngành này như là một phong trào
trong doanh nghiệp, dù có liên hệ với sự phát triển trong học thuật, vẫn được xem là có
một tiểu sử riêng của nó.
Đạo Đức Kinh Doanh - Một Phong Trào
Đạo đức kinh doanh được xem như một phong trào có liên quan đến sự hình
thành những cơ cấu trong doanh nghiệp để giúp cho cả doanh nghiệp lẫn nhân viên
hoạt động có đạo đức nhằm đối trọng lại với những cơ cấu đem lại phần thưởng cho
những hành vi vô đạo đức. Những cơ cấu đạo đức gồm có sự phân biệt trách nhiệm rõ
rệt giữa những phần vụ, một bộ quy luật đạo đức doanh nghiệp được công bố hẳn hoi,
một chương trình huấn luyện về đạo đức trong doanh nghiệp, một chức vụ pháp quan
đạo đức của công ty, một đường dây liên lạc khi nhân viên cần giúp đỡ (hot line), một
phương tiện nhằm chuyển tải những giá trị trong phạm vi nội bộ và để xây dựng và
duy trì một nền văn hóa doanh nghiệp của công ty. Một số công ty đã luôn luôn cổ võ
17
và phát huy đạo đức doanh nghiệp và đã xây dựng công ty và văn hóa doanh nghiệp
theo những mô thức nhằm khuyến khích và kiện toàn những hành vi đạo đức của toàn
doanh nghiệp. Bảng Tín Điều nổi tiếng của công ty Johnson & Johnson được Chuẩn
tướng Robert Wood Johnson soạn thảo và ấn hành năm 1943
13
. Nhưng đa số những
doanh nghiệp trong thập niên 1960 chẳng quan tâm lắm đến việc tổ chức những cơ cấu
như vậy trong doanh nghiệp của họ. Điều này đã dần dần được thay đổi và sự thay đổi
này đã trở thành một phong trào khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp trước áp lực của

công luận, của giới truyền thông, của chính lương tâm của giới chủ nhân và nhất là của
các đạo luật đã tổ chức những cơ quan phụ trách đạo đức doanh nghiệp trong công ty
của họ. Ta đã thấy những đại doanh nghiệp đưa ra những chương trình trách nhiệm xã
hội để ứng phó với những chỉ trích về hành vi đạo đức của doanh nghiệp trong thập
niên 1960, phong trào đạo đức doanh nghiệp cũng có nguồn gốc và xuất phát trong
giai đoạn này.
Đạo luật về Dân Quyền của Hoa Kỳ năm 1964 là đạo luật đầu tiên góp phần
vào việc khởi xướng phong trào đạo đức kinh doanh. Đạo luật này đã cấm kỳ thị dựa
trên chủng tộc, màu da, tôn giáo hay quốc gia gốc của người dân trong các cơ sở công
cộng có liên hệ đến nền thương mại cấp liên bang, cũng như ở những phương tiện hay
nơi giải trí công cộng. Nhiều công ty cũng đã thành lập thêm những bộ phận lo về vấn
đề bình đẳng cơ hội trong các ban quản lý nhân sự để bảo đảm áp dụng đúng theo luật
lệ trên, và tổng quát là bảo đảm giới kinh doanh thấu đáo về những chuyện như kỳ thị,
bình đẳng cơ hội và lương bổng đồng đều cho cùng công việc làm. Điều này trở lại
cũng đã dẫn đến những sự thấu đáo hơn về các quyền lợi của giới công nhân nói
chung, và về sự cần thiết để các công ty Hoa Kỳ chấp nhận các quyền đó. Đạo luật của
Hoa Kỳ về sự An Toàn và Sức Khỏe Nghề Nghiệp vào năm 1970 đã củng cố thêm
những đòi hỏi phải công nhận các quyền lợi của giới công nhân một cách nghiêm
chỉnh hơn. Trong cùng năm, đạo luật về Bảo Vệ Môi Sinh cũng đã buộc giới kinh
doanh bắt đầu thay đổi phương cách tính toán, bao gồm luôn những chi phí mà trước
đây được xem là tạo ra ảnh hưởng ngoại vi, thí dụ việc thải ra những chất độc hại có
ảnh hưởng đến môi trường.
13
Chuẩn tướng Robert Wood Johnson là con trai của Robert Wood Johnson đệ nhất, người sáng lập ra công ty
dược phẩm Johnson & Johnson năm 1886. Tướng Johnson gia nhập quân đội năm 1942.
18
Năm 1977, sau một loạt những chuyện tai tiếng bao gồm cả việc hối lộ của
những công ty Hoa Kỳ ở nước ngoài, kể cả chuyện hối lộ 12 triệu Mỹ kim của công ty
Lockheed đã đưa đến sự sụp đổ của chính phủ Nhật thời đó, chính quyền Hoa Kỳ đã
thông qua "Đạo luật chống Hối lộ ở Ngoại quốc." Đạo luật này có tính cách lịch sử vì

nó là văn kiện đầu tiên nhằm khống chế hoạt động của các công ty Hoa Kỳ ở nước
ngoài. Đạo luật này ngăn cấm các công ty Hoa Kỳ trả một số tiền lớn (hay giá trị
tương đương) cho những viên chức cao cấp của những nước khác để được ưu đãi đặc
biệt. Trước khi có đạo luật này, nhiều công ty đã chấp nhận chính sách khước từ trả
tiền hối lộ như là một nguyên tắc luân lý. Công ty IBM, công ty Motorola cũng như
những công ty khác đã được xem là theo sát chính sách này. Đạo luật này bắt buộc
mọi công ty phải tuân thủ những quy thức đạo đức hiện hành. Tuy nhiên, phe chống
đối phàn nàn là điều này làm cho các công ty Hoa Kỳ chịu thiệt thòi khi đối diện với
các công ty các nước khác cho phép trả tiền hối lộ. Chính quyền Hoa Kỳ cũng đã cố
gây áp lực để khuyến khích các nước khác cùng áp dụng theo, và cuối cùng thì hai
mươi năm sau, những nước trong khối OECD
14
đã đồng ý thừa nhận những đạo luật
tương tự.
Năm 1978, công ty General Motors và một nhóm những công ty khác của Hoa
Kỳ đã công nhận cái gọi là Sullivan Principles, những nguyên lý quyđịnh hoạt động
của các công ty này ở Nam Phi châu. Những công ty ký tên vào đó đồng ý là họ sẽ
không theo chính sách kỳ thị và đàn áp chủng tộc ở Nam Phi và sẽ thực thi vấn đề bình
quyền để khống chế chính sách đàn áp chủng tộc, không chỉ bằng cách không theo
chính sách đó mà còn là vận động chính phủ Nam Phi thay đổi chính sách. Thực thi
đúng những Nguyên Lý này là một cách mà các công ty Hoa Kỳ có thể biện minh cho
việc kinh doanh của họ ở Nam Phi. Những nguyên lý này được các công ty chấp nhận
một phần vì áp lực của công luận nhằm buộc những công ty này không được làm ăn và
phải ra khỏi Nam Phi. Nguyên Lý này cũng đã trở thành một mẫu mực cho những luật
lệ tự nguyện khác về các hoạt động của những công ty trong rất nhiều tình huống mà
tính chất đạo đức không rõ ràng.
Vào khoảng thập niên 1980, nhiều công ty đã bắt đầu đáp ứng tới những lời kêu
gọi phải lập ra những cơ quan liên quan đến đạo đức, và ngày càng nhiều công ty chấp
14
OECD (Organization of Economic Co-operation and Development): Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển

được thành lập năm 1961, gồm có 34 nước thành viên, đa số là những nước thuộc Âu châu. Chỉ có Nhật và Nam
Hàn là 2 nước Á châu tham dự trong tổ chức này.
19
nhận những quy luật đạo đức và tổ chức những chương trình huấn luyện cho nhân viên
về đạo đức doanh nghiệp. Mỗi một làn sóng về những chuyện tai tiếng, hình như xảy
ra khoảng mỗi mười năm một lần, càng tạo thêm áp lực cho các công ty phải đưa vấn
đề này vào trong cấu trúc của họ. Năm 1984, thảm họa của công ty Union Carbide xảy
ra ở một cơ xưởng ở Bhopal, Ấn Độ,
15
giết hàng ngàn người và làm bị thương hàng
trăm ngàn người khác, đã làm thế giới chú trọng vào ngành kỹ nghệ hóa chất. Điều
nầy đã đưa đến việc chấp nhận luật lệ tự nguyện về các hành vi đạo đức của ngành kỹ
nghệ hóa chất, gọi là Responsible Care, trở nên một khuôn mẫu cho các ngành kỹ nghệ
khác. Năm 1986, để đáp ứng với một loạt các sự việc bất thường được tường trình
trong các hợp đồng trong ngành quốc phòng, một bản tường trình của ủy ban đặc
nhiệm về tình trạng bất thường đã dẫn đến việc thiết lập một Dự Thảo của Kỹ Nghệ
Quốc Phòng về vấn đề Đạo Đức và Hành Vi trong Kinh Doanh và đã được hai phần ba
các hãng thầu chủ yếu cho quốc phòng ký kết (và chẳng bao lâu sau, số lượng đó đã
tăng lên đến con số 50). Mỗi công ty ký vào văn kiện đó đồng ý sẽ có một bản luật lệ
về đạo đức, sẽ thực hiện những chương trình huấn luyện về đạo đức cho nhân viên của
họ, thiết lập những cơ cấu giám sát để phát hiện những việc làm bất chính đáng, chia
sẻ với nhau những phương thức có hiệu quả nhất và chịu trách nhiệm trước công luận.
Dự Thảo của Kỹ Nghệ Quốc Phòng là một khuôn mẫu cho một nỗ lực quan
trọng nhất của chính quyền và góp phần vào sự phát triển của phong trào đạo đức kinh
doanh; đó chính là đạo luật Quy định Xử phạt của Liên bang đối với các công ty vào
năm 1991.
Đạo luật đó nhằm khuyến khích các công ty thiết lập một hệ thống kiểm soát
đạo đức bên trong cơ cấu tổ chức của họ. Nếu một công ty có thể chứng tỏ là đã có
những bước tiến hợp lý để ngăn chặn và phát hiện những hành vi vô đạo đức, và nếu
chẳng may bị buộc tội về những hành động bất hợp pháp, tội trạng của công ty đó có

thể được giảm khinh đáng kể. Những bước tiến hợp lý gồm có quy luật về đạo đức hay
tư cách nhân viên, có viên chức cao cấp giám sát tổng quát, có chương trình huấn
luyện đạo đức, có hệ thống giám sát và báo cáo (như là "đường dây nóng-hot line") và
có hệ thống chế tài cũng như ứng phó với những trường hợp vi phạm. Tiền phạt có thể
lên đến 290 triệu Mỹ kim và có thể được giảm cho đến 95% nếu một công ty có thể
15
Union Carbide, một công ty hóa chất của Mỹ có liên doanh với chính phủ Ấn Độ, và có xưởng chế tạo hóa
chất tại Bhopal, Ấn Độ. Biến cố xảy ra vào đêm mùng 2 rạng sáng mùng 3 tháng 12, 1984, khi hóa chất độc hại
bị rò rỉ và tác hại đến cả hàng trăm ngàn người. Con số người chết ngay lập tức là 2259 người; các cơ quan của
chính phủ Ấn ước tính có khoảng 15 ngàn người chết trong thảm họa này.
20
chứng minh một cách cụ thể là có lập ra những cơ cấu hành chánh rõ ràng để giúp
ngăn chận những hành vi vô đạo đức và phạm pháp.
Kết quả là những nỗ lực được phối hợp hài hòa trong hầu hết những công ty lớn
nhằm kết hợp những cấu trúc phụ trách về đạo đức vào cơ cấu tổ chức của các công ty.
Điều đó dẫn đến sự hình thành một chức vụ mới trong công ty là Corporate Ethics
Officer (Giám Đốc chuyên về Đạo đức Doanh nghiệp) và đến năm 1992 thì đã có sự
thành lập Hội Đoàn của các Giám Đốc Đạo đức Doanh nghiệp.
Phần thưởng trên mặt pháp lý gần đây nhất về vấn đề đạo đức trong các công ty
là Đạo Luật Sarbanes-Oxley vào năm 2002, được thông qua sau những sai phạm của
các công ty Enron, WorldCom, Arthur Andersen và những công ty sáng giá khác. Một
trong những điều mà đạo luật này đòi hỏi là các CEO và CFO phải xác nhận sự ngay
thẳng và chính xác của những những bản tường trình tài chính (sẽ là tội hình sự nếu họ
biết có những điểm vi phạm mà không báo cáo) và một bộ quy luật về đạo đức cho các
viên chức cao cấp của công ty, đồng thời báo cáo hoạt động của công ty mở rộng cho
công chúng giám sát nhiều hơn.
Những công ty có những cách thức khác nhau để đáp ứng với áp lực của luật
pháp và công luận. Nhưng ngôn ngữ nói về trách nhiệm xã hội thay vì đạo đức vẫn là
ngôn ngữ thường được sử dụng hơn. Biện pháp tự đề ra những chuẩn mực đạo đức
kinh doanh và tự kiểm soát vẫn là biện pháp phổ thông được những công ty áp dụng,

nhưng cũng có một số công ty tình nguyện mời những giám sát viên độc lập theo dõi
và đánh giá hoạt động của họ về phương diện đạo đức trên cả ba lãnh vực chính sách,
thực hành và tại những phân xưởng. Khái niệm "Báo cáo Tài chính Ba điểm" gồm có
tài chính, xã hội, và môi trường, thay vì chỉ có báo cáo tài chính lời lỗ, đang được một
số công ty áp dụng. Những phương thức báo cáo khác cũng rất thịnh hành gồm có báo
cáo về tình trạng bảo vệ môi sinh và kiểm toán xã hội; nhưng những báo cáo loại này
khác nhau rất nhiều về nội dung cũng như hình thức. Công cuộc đầu tư vào quỹ đạo
đức là một khía cạnh khác của phong trào đạo đức kinh doanh; nhà quản lý những quỹ
đầu tư đạo đức đề nghị cổ đông khuyến khích những công ty hoạt động có đạo đức
hơn bằng những khuyến nghị của mình.
Phong trào đạo đức kinh doanh không phải chỉ hạn hẹp trong Hoa Kỳ. Những
nước khác cũng đã đề ra những chính sách tương tự như của Hoa Kỳ, và Liên Hiệp
Quốc cũng đã khai triển một hiệp ước tự nguyện, Global Compact for Corporations.
21
Hiệp ước này được chính quyền của nhiều nước ủng hộ và có chín nguyên tắc chỉ đạo
tập trung vào các vấn đề nhân quyền, tiêu chuẩn lao động và bảo vệ môi sinh. Hơn
1500 công ty trên toàn thế giới đã tham gia hiệp ước này, và có lẽ hình như là ngày
càng nhiều công ty cảm nhận áp lực phải ký nhận nó và tôn trọng những tiêu chuẩn đã
được yêu cầu.
Phong trào đạo đức kinh doanh, cũng như ngành học về nó đã bắt rễ sâu rộng.
Những quan tâm về vấn đề đạo đức trong doanh nghiệp vẫn còn tiếp tục. Ngành Đạo
đức Kinh doanh học đã đóng góp cho những cuộc hội thảo, nghiên cứu và giảng dạy
thông tin về những vấn đề liên quan đến đạo đức trong doanh nghiệp và phong trào
đạo đức kinh doanh. Phong trào đạo đức kinh doanh đáp ứng hai ngành kể trên và trở
lại tương tác với chúng. Cả ba ngành cùng nhau dựng nên lịch sử của đạo đức kinh
doanh trong cái nghĩa rộng rãi nhất.
Trên phương diện học thuật, nhìn lại khoảng ba mươi năm qua, rất nhiều vấn đề
đã được đúc kết. Một sử gia quan tâm về quá khứ chứ không phải tương lai. Nhưng
nhìn về tương lai, ta dễ dàng thấy là còn nhiều chuyện để làm. Cả hai việc toàn cầu
hóa và bước vào Thời Đại Tin Học đang thay đổi phương cách kinh doanh và những

vấn đề mà đạo đức kinh doanh phải đối diện. Nếu đạo đức kinh doanh có thể tồn tại và
thích hợp với thời đại mới, nó cũng cần phải chuyển hướng theo.
Nếu có một điều mà câu chuyện tôi vừa kể mà ta có thể học được, đó là vấn đề
đạo đức trong kinh doanh không phải chỉ là một thời trang như bị gán lúc ban đầu hay
cũng không phải là một lối nói nghịch hợp đã bị giễu cợt là vô ích. Nó là một địa bàn
hoạt động rất linh hoạt và phức tạp và đang phát triển trên nhiều mức độ, bởi ba hướng
mà tôi vừa đề cập quyện vào nhau một cách phức tạp, sinh động và tuyệt vời. Chúng ta
có thể trông đợi tất cả ba hướng đó vẫn còn linh động và tương tác nhau trong tương
lai tới đây.
1.3. Vai trò của đạo đức kinh doanh
1.3.1. Vai trò của đạo đức kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp
Lợi nhuận là một trong những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của một doanh
nghiệp và là cơ sở đánh giá khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu người quản lý doanh nghiệp hiểu sai bản chất của lợi nhuận và coi đấy
là mục tiêu chính và duy nhất của hoạt động kinh doanh thì sự tồn tại của doanh
nghiệp có thể bị đe doạ.
22
Tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh đối với một tổ chức là một vấn đề gây
tranh cãi với rất nhiều quan điểm khác nhau. Nhiều giám đốc doanh nghiệp coi các
chương trình đạo đức là một hoạt động xa xỉ mà chỉ mang lại lợi ích cho xã hội chứ
không phải doanh nghiệp. Vai trò của sự quan tâm đến đạo đức trong các mối quan hệ
kinh doanh tiếp tục bị hiểu lầm.
Chúng ta sẽ xem xét ở các nội dung dưới đây về vai trò của đạo đức kinh doanh
trong hoạt động quản trị doanh nghiệp.
1.3.2. Vai trò của đạo đức trong hoạt động kinh doanh
Công trình nghiên cứu của họ cho thấy, trong vòng 11 năm, những công ty "đạo
đức cao" đã nâng được thu nhập của mình lên tới 682% (trong khi những công ty đối
thủ thường thường bậc trung về chuẩn mực đạo đức chỉ đạt được 36%). Giá trị cổ
phiếu của những công ty "đạo đức cao" trên thị trường chứng khoán tăng tới 901%
(còn ở các đối thủ "kém tắm" hơn, chỉ số này chỉ là 74%). Lãi ròng của các công ty

"đạo đức cao" ở Mỹ trong 11 năm đã tăng tới 756% (1%).
Như vậy, đầu tư vào cơ sở hạ tầng đạo đức trong tổ chức sẽ mang lại cơ sở cho
tất cả các hoạt động kinh doanh quan trọng của tổ chức cần thiết để thành công. Có
nhiều minh chứng cho thấy việc phát triển các chương trình đạo đức có hiệu quả trong
kinh doanh không chỉ giúp ngăn chặn các hành vi sai trái mà còn mang lại những lợi
thế kinh tế. Mặc dù các hành vi đạo đức trong một tổ chức là rất quan trọng xét theo
quan điểm xã hội và quan điểm cá nhân, những khía cạnh kinh tế cũng là một nhân tố
cũng quan trọng không kém. Một trong những khó khăn trong việc dành được sự ủng
hộ cho các ý tưởng đạo đức trong tổ chức là chi phí cho các chương trình đạo đức
không chỉ tốn kém mà còn chẳng mang lại lợi lộc gì cho tổ chức. Chỉ riêng đạo đức
không thôi, sẽ không thể mang lại những thành công về tài chính, nhưng đạo đức sẽ
giúp hình thành và phát triển bền vững văn hóa tổ chức, phục vụ cho tất cả các cổ
đông.
1.3.3. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền KTQD
Một câu hỏi quan trọng và thường được nêu ra là liệu hành động đạo đức trong
kinh doanh có tác động đến kinh tế của một quốc gia hay không
Các nhà kinh tế học thường đặt câu hỏi tại sao một số nền kinh tế thị trường mang lại
năng suất cao, công dân có mức sống cao, trong khi đó các nền kinh tế khác lại không
như thế.
23
Các thể chế xã hội, đặc biệt là các thể chế thúc đẩy tính trung thực, là yếu tố vô
cùng quan trọng để phát triển sự phồn vinh về kinh tế của một xã hội. Các nước phát
triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống các thể chế, bao gồm đạo đức
kinh doanh, để khuyến khích năng suất. Trong khi đó, tại các nước đang phát triển, cơ
hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng, hạn chế tiến bộ
cá nhân cũng như phúc lợi xã hội.
Niềm tin là cái mà các cá nhân xác định, có cảm giác chia sẻ với những người
khác trong xã hội. ở mức độ hẹp nhất ở niềm tin trong xã hội là lòng tin vào chính
mình. Rộng hơn nữa là thành viên trong gia đình và họ hàng. Các quốc gia có các thể
chế dựa vào niềm tin sẽ phát triển môi trường năng suất cao vì có một hệ thống đạo

đức giúp giảm thiếu các chi phí giao dịch, làm cạnh tranh trở nên hiệu quả hơn. Trong
hệ thống dựa vào thị trường có niềm tin lớn như Nhật Bản, Anh Quốc, Canada, Hoa
Kỳ, Thuỵ Điển, các doanh nghiệp có thể thành công và phát triển nhờ có một tinh thần
hợp tác và niềm tin.
Chúng ta tiến hành so sánh tỷ lệ tham nhũng trong các thể chế xã hội khác
nhau, Nigêria và Nga có tỷ lệ tham nhũng cao trong khi đó Canada và Đức có tỷ lệ
tham nhũng thấp, ta có thể thấy được điểm khác biệt chính giữa các cấp độ về sự vững
mạnh và ổn định kinh tế của các nước này chính là vấn đề đạo đức. Điểm khác biệt
giữa sự vững mạnh và ổn định về kinh tế của các nước này cho ta một minh chứng là
đạo đức đóng một vai trò chủ chốt trong công cuộc phát triển kinh tế. Tiến hành kinh
doanh theo một cách có đạo đức và có trách nhiệm tạo ra niềm tin và dẫn tới các mối
quan hệ giúp tăng cường năng suất và đổi mới.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh đối với
các cá nhân, đối với doanh nghiệp và đối với xã hội và sự vững mạnh của nền kinh tế
quốc gia nói chung. Các cổ đông muốn đầu tư vào các doanh nghiệp có chương trình
đạo đức hiệu quả, quan tâm đến xã hội và có danh tiếng tốt. Các nhân viên thích làm
việc trong một công ty để họ có thể tin tưởng được và khách hàng đánh giá cao về tính
liêm chính trong các mối quan hệ kinh doanh.
Môi trường đạo đức của tổ chức vững mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng
và nhân viên, sự tận tâm của nhân viên và sự hài lòng của khách hàng, mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Tư cách công dân của doanh nghiệp cũng có mối quan hệ
tích cực với lợi nhuận mang lại của các khoản đầu tư, tài sản và tăng doanh thu của
24
doanh nghiệp. Đạo đức còn đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng
của một quốc gia. Đạo đức kinh doanh nên được tập thể quan tâm trong khi lập kế
hoạch chiến lược như các lĩnh vực kinh doanh khác, như sản xuất, tài chính, đào tạo
nhân viên, và các mối quan hệ với khách hàng.
1.4. Các khía cạnh thể hiện đạo đức kinh doanh
Trong hoạt động tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự sẽ xuất hiện một vấn đề đạo
đức khá nan giải, đó là tình trạng phân biệt đối xử.

Phân biệt đối xử là việc không cho phép của một người nào đó được hưởng
những lợi ích nhất định xuất phát từ định kiến về phân biệt. Biểu hiện ở phân biệt
chủng tộc, giới tính, tôn giáo, địa phương, vùng văn hoá, tuổi tác
Có những trường hợp cụ thể, sự phân biệt đối xử lại là cần thiết và không hoàn
toàn sai. Chẳng hạn như một người quản lý không bao giờ để tôn giáo trở thành một
cơ sở để phân biệt đối xử khi tuyển chọn nhân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp phải
chọn nhân sự cho Nhà thờ đạo Tin lành thì việc để tôn giáo là một cơ sở để lựa chọn là
hoàn toàn hợp lý. Tương tự vậy, một nhà quản lý kiên quyết chỉ phỏng vấn những phụ
nữ để tuyển người cho vị trí giám đốc chương trình giáo dục phụ nữ hoặc một người
gốc Phi cho chương trình giáo dục người Mỹ gốc Phi là hợp lý.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người quản lý dựa trên cơ sở phân biệt
đối xử để tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự. Quyết định của họ dựa trên cơ sở người
lao động thuộc một nhóm người nào đó, đặc điểm của nhóm người đó sẽ được gán cho
người lao động đó bất kể họ có những đặc điểm đó hay không và dựa trên giả định là
nhóm người này kém cỏi hơn nhóm người khác. Ví dụ, như phụ nữ dường như không
thể đưa ra được những quyết định hợp lý vì họ quá thiên về tình cảm. Người da màu
kém cỏi hơn người da trắng. Như vậy quyết định của người quản lý dựa trên cơ sở
phân biệt đối xử chứ không phải dựa trên khả năng thực hiện công việc. Quyết định
như vậy ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động như vị trí, thu nhập
Một vấn đề đạo đức khác mà các nhà quản lý cần lưu ý trong tuyển dụng, bổ
nhiệm và sử dụng người lao động đó là phải tôn trọng quyền riêng tư cá nhân của họ.
Để tuyển dụng có chất lượng, người quản lý phải thu nhập thông tin về quá khứ
của người lao động xem có tiền án tiền sự không, về tình trạng sức khoẻ xem có thích
hợp với công việc không, về lý lịch tài chính xem có minh bạch không Đó là tính
chính đáng của công tác quản lý. Song sẽ là phi đạo đức nếu người quản lý từ thông tin
25

×