Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Cơ hội và thách thức của Thái Lan trên con đường phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.46 KB, 57 trang )

1

Đề bài: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA THÁI
LAN TRÊN CON ĐƢỜNG PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA.

MỤC LỤC Trang
LỜI NÓI ĐẦU: 3
CHƢƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TỰ
NHIÊN, XÃ HỘI CỦA THÁI LAN 5
I - Tổng quan về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của
Thái Lan. 5
1. Vị trí địa lý 5
2. Điều kiện tự nhiên 7
3. Điều kiện văn hóa - xã hội 8
4. Vài nét về thể chế chính trị Thái Lan 10
5. Chính sách ngoại giao và vai trò của nó trong việc phát triển kinh
tế Thái Lan trong lịch sử cũng như hiện tại. 12
CHƢƠNG II: VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ THÁI
LAN 19
II - Đặc điểm về tình hình phát triển kinh tế Thái Lan . 19
1. Khát quát tình hình kinh tế Thái lan trong lịch sử. 19
2. Các chỉ số kinh tế Thái Lan 23
III - Một số chính sách kinh tế góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế Thái Lan. 25
1. Một số chính sách góp phần phát triển kinh tế của Thái Lan 29
2. Tổng kết các đặc điểm kinh tế nổi bật của Thái Lan 29
3. Vai trò của người Hoa trong sự phát triển kinh tế Thái Lan. . 29
4. Tiểu kết. 33
2


III - Những cơ hội và thách thức trong sự nghiệp phát triển
công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Thái Lan. 34
1. Những cơ hội phát triển của nền kinh tế Thái Lan 34
2. Những thách thức của nền kinh tế Thái Lan. 43
3. Tiểu kết. 48
VI - Quan hệ hợp tác của Thái Lan và Việt Nam - những
bƣớc thăng trầm trong lịch sử và hiện tại 48
1. Quan hệ kinh tế của Việt Nam - Thái Lan trong lịch sử 48
2. Nguyên nhân của sự phát triển Thái Lan 52
VII - Bài học kinh nghiệm phát triển kinh tế Thái Lan, bài
học với Việt Nam. 53
1. Kinh Nghiệm thành công của kinh tế Thái Lan 53
2. Bài học từ của Thái Lan trong phát triển kinh tế đối với Việt
Nam 54
3. Giải pháp phát triển mối quan hệ Việt Nam - Thái Lan 56
KẾT LUẬN 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 57












3



DANH MỤC ẢNH Trang
1. Quốc kỳ Thái Lan. 4
2. hiệu Thái Lan. 4
3. Bản đồ đất nước Thái Lan. 6
4. Biểu tình ở Thái Lan. 11
5. Vua Rama V với chính sách cải cách kinh tế (1868 - 1910) 16
6. Người dân đi lại khó khăn trên một con đường bị ngập sâu ở
Bangkok. 44
7. Thủ tướng tạm quyền của Thái Lan Yingluck Shinawatra tới Ủy
ban chống tham nhũng quốc gia.(Nguồn: AFP/TTXVN). 48

DANH MỤC BẢNG
1. Bảng 1.1: Bảng thể hiện chỉ số tăng trưởng kinh tế qua các năm
của Thái Lan. 23
2. Hình 1.1: Biểu đồ thể hiện cơ cấu các ngành của Thái Lan.
3. Bảng 1.2: Bảng thể hiện sự tăng trưởng của ngành thương mại
Thái Lan. 23
4. Biểu đồ Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Thái Lan (USD)24
5. Biểu đồ XK và NK của Thái Lan qua các năm. 25
6. Bảng 1.3: Tỷ lệ các ngành kinh tế trong nền kinh tế Thái lan 27
7. Bảng 1.4: Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm trở lại đây (1997 -
2002). 35
8. Bảng 1.5: Tốc độ phát triển kinh tế từ năm 2001 - 2006 (%). 35
9. Bảng 2.1: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Thái Lan ba năm
gần đây. 38
10. Biểu đồ xuất khẩu và nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan giai
đoạn 2009 - 2011. 50
11. Bảng 2.2: Kim ngạch buôn bán hàng năm với Việt Nam trong ba

năm qua.(USD). 50
4

12. Biểu đồ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam -
TháiLan từ 2009 - 2011.


LỜI NÓI ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hóa và thương mại của nền kinh tế thế giới trong
thế kỉ 21, hiện đang mang đến cho Thái Lan nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng
đặt ra những thách thức không nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế và thực
hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển của khoa học kĩ
thuật và phân công lao động ở mức cao trong nền kinh tế thế giới đã tạo nên
chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu với nhiều khu vực với hàm lượng giá trị gia tăng
khác nhau. Trong bối cảnh đó, Thái Lan được coi là điểm sáng cho sự phát
triển kinh tế. Có thể nói, trong khoảng vài ba thập kỷ trở lại đây, Thái Lan là
một trong những nền kinh tế có nhiều đóng góp vào "sự thần kỳ châu Á". Từ
một nền kinh tế nghèo nàn với thu nhập GDP khoảng 80 USD/đầu người một
năm, vào đầu thập kỷ 60 đã tăng lên tới 3.031 USD/đầu người năm 1996. Có
được thành công đó là cả một sự cố gắng của nhà nước và một hệ thống kinh tế
của Thái Lan trong lịch sử cũng như hiện tại. Điều kiện tự nhiên, điều kiện xã
hội thuận lợi đã tạo điều kiện cho kinh tế Thái Lan phát triển mạnh mẽ như
hiện nay, nhưng trên hết có sự phát triển đó là nhờ phần lớn vào những chính
sách phát triển kinh tế của chính phủ, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
là điều kiện để Thái lan phát triển. Tuy nhiên, đối với mỗi nền kinh tế bên cạnh
mặt thuận lợi đều có những mặt trái của nó. Kinh tế Thái lan cũng vậy, những
khó khăn về khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị trong những năm gần đây đã
làm cho nền kinh tế Thái Lan chững lại. Đó là những nét cơ bản về tình hình
kinh tế Thái Lan.
Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ năm 1986 đến

nay đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, trước những yêu cầu
mới của đất nước và thách thức của thời đại, không ít vấn đề bất cập đã nảy
sinh, đặc biệt trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để vượt
5

qua những khó khăn đó rất cần đến những chính sách của nhà nước và sự cố
gắng của cả hệ thống kinh tế.
Giữa Việt Nam và Thái Lan đang có rất nhiều điểm khác biệt, nhưng
cũng có rất nhiều điểm tương đồng. Vì vậy việc học tập kinh nghiệm của Thái
lan trong việc tận dụng những điều kiện thuận lợi và khắc phục những khó
khăn nhằm đạt đến mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Chính vì những lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài " cơ hội và
thách thức của Thái Lan trên con đường phát triển công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước". để hiểu hơn về kinh tế nước này và bài học cho Việt Nam.


CHƢƠNG I: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TỰ
NHIÊN - XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƢỚC THÁI LAN.






I - Tổng quan về điều kiện tự nhiên và văn hóa - xã hội của
Thái Lan.
1.Vị trí địa lý.
Thái Lan là một trong những nước lớn của khu vực Đông Nam Á. Phía
bắc và đông bắc Thái Lan có biên giới giáp với CHDCND Lào, phía tây bắc

Quốc kỳ Thái Lan
Huy hiệu
6

Bản đồ đất nước Thái lan
giáp với CH Myanma, phía tây với biển Andaman,phía đông với Campuchia và
Vịnh Thái Lan, và phía nam với Malayxia. Thiên nhiên đã phú cho mảnh đất
màu mỡ này với diện tích đất đai là 513.115 km2, kéo dài trên 1.800 km từ Bắc
xuống Nam.





Thái Lan nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ lúc nóng
nhất là 33
0
C và lúc lạnh nhất là 10
0
C, lượng mưa trung bình trong năm là 1.600
7

m. Lãnh thổ Thái Lan được chia thành 4 vùng khác nhau về điều kiện địa lý tự
nhiên.
Vùng Bắc có nhiều núi cao, vùng Trung là châu thổ Chao-phra-gia, vựa
lúa của Thái Lan, vùng Đông Bắc chủ yếu là cao nguyên, Vùng Nam giáp
Malaysia. Bờ biển Thái Lan dài khoảng 2.500 km, Băng Cốc là hải cảng lớn của
vùng Đông Nam á. Vịnh Thái Lan là nguồn hải sản, khí và dầu quan trọng nhất
của Thái Lan.
Nguồn tài nguyên truyền thống quan trọng nhất của Thái Lan là lúa

gạo.Cao su là nông sản quan trọng thứ hai. Ngoài ra Thái Lan còn chú trọng đến
việc trồng rau quả và hoa xuất khẩu.
2. Điều kiện tự nhiên.
1.1.1. Thuận lợi
Về kiến tạo địa hình, Thái Lan và Việt Nam tương đối giống nhau:
thoai thoải từ Bắc xuống Nam gồm cả vùng rừng núi, trung du, đồng bằng ven
biển. Những con sông lớn đặc biệt là sông Chaophaya (Menan) chạy từ miền
Bắc xuống miền Nam đổ vào vịnh Thái Lan, Mê Công, Hồng Hà là những mạch
máu lớn tạo nên những vực lúa nuôi sống dân cư. Tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển giao thông đường thủy, tưới tiêu cho nông nghiệp.
Môi trường tự nhiên như vậy rất thuận lợicho việc phát triển kinh tế, nhất là
nông nghiệp. Đất đai màu mỡ, diện tích canh tác lớn,thời tiết thuận lợi cho cây
lúa, cây ăn quả, cây công nghiệp nhiệt đới phát triển. Hiện Thái Lan đang phát
triển một nền nông nghiệp hoàn chỉnh với sự đa dạng hóa và chuyên môn hóa
nhiều loại vật nuôi, cây trồng ở mỗi vùng miền trong cả nước và hướng vào mục
tiêu xuất khẩu. Với bờ biển dài gần 2000 km, lại tiếp giáp với 5 nước ( Cam
puchia, Lào, Trung Quốc, Myanma, Malaysia) nên Thái Lan có khả năng phát
triển thành đầu mối giao lưu thương mại khu vực và quốc tế.Như vậy, với những
điều kiện tự nhiên đó, Thái Lan có thể phát triển một nền nông nghiệp hoàn
chỉnh với sự đa dạng hóa và chuyên môn hóa của nhiều loại cây trồng và vật
nuôi ở mỗi vùng miền trong cả nước và hướng vào mục tiêu xuất khẩu.
1.1.2. Khó khăn.
8

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi như vậy, Thái Lan cũng có những điều
mà thiên nhiên không ưu đãi.
Nguồn tài nguyên khoáng sản nghèo nàn của đất nước không cho phép
Chính phủ Thái Lan theo đuổi tham vọng xây dựng nền công nghiệp nặng bằng
mọi giá như nhiều quốc gia khác, mặc dù họ ý thức được vai trò của công
nghiệp nặng đối với sự phát triển kinh tế quốc dân.

Như vậy, để phát triển kinh tế đất nước, Thái lan chỉ có thể dựa vào noong
nghiệp và một ít tài nguyên thiên nhiên, trong đó giá trị nhất là những mỏ thiếc
ở Puket thuộc miền Nam Thái Lan.
Bên cạnh đó, cũng như nhiều quốc gia khác, Thái lan luôn phải hứng chịu
những thảm họa thiên tai không mong muốn như: lũ lụt, hạn hán Sự phát
triển kinh tế dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến đời
sống sản xuất, sức khỏe của cư dân Thái lan.
Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của
kinh tế - xã hội Thái Lan. Đòi hỏi Thái Lan cần có những chính sách thiết thực
nhằm khắc phục những khó khăn kể trên, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường.
3. Điều kiện Văn hóa - xã hội.
1.1.3. Thuận lợi.
Về dân cư, Thái Lan là một quốc gia đa dân tộc. Trong đó dân tộc Thái
chiếm đa số, khoảng 85 % cả nước. Trước năm 1939, người Thái gọi là người
Xiêm. Người Thái thích gọi mình là người Thái vì nghĩa gốc của từ này là " tự
do" và không thích người nước ngoài gọi họ với phiên âm là " Tai" vì từ này có
nghĩa là " chết".
Theo sử sách, người Thái xuất hiện ở núi Antai, thuộc đông bắc Tứ Xuyên
(Trung Quốc) ngày nay. Sau đó học di chuyển dần xuống phương Nam và dừng
chân tại đất Thái Lan ngày nay. Vào thế kỉ thứ XIII, họ thành lập vương quốc
đầu tiên của mình ở Sukhothai. Đến thế kỉ sau đó, họ đi xuống miền trung và
thành lập Nhà nước mới với thủ đô Ayuthia. Và đến cuối thế kỉ XVIII, vua Phya
Chacơri (tức Rama I) lập nên triều đại Rama với thủ đô là BangKok.
9

Người Thái ngày nay được phân ra làm bốn nhóm theo phương ngữ gồm
người Thái ở miền trung, người Thái ở miền Bắc, người Thái ở miền Nam,
người Thái miền Đông Bắc. Ngoài người Thái ra, trên lãnh thổ Thái Lan có trên
30 dân tộc khác sinh sống. Người Hoa chiếm đến 8% dân số cả nước. Họ có vị
trí ưu thế trong hoạt động kinh tế của Thái Lan. Người Malaysia có khoảng 1

triệu người, sống tập trung ở các tỉnh phía Nam, theo Hồi giáo, chủ yếu làm
nghề trồng cây và khai thác mỏ. Cộng đồng người Việt có khoảng 4 - 5 vạn
người, chủ yếu sinh sống ở các tỉnh Đông Bắc, là dân di cư đến trước năm 1945
và phần lớn làm nghề buôn bán nhỏ, làm công ăn lương.
Trong lịch sử Thái Lan từng có chính sách đồng hóa người nhập cư và các
dân tộc ít người khác bằng cả hai biện pháp là đồng hóa cưỡng bức và đồng hóa
tự nhiên. Nhìn tổng thể, có thể thấy rằng quá trình hội nhập của các tộc người ở
Thái Lan diễn ra khá êm ả. Môi trường văn hóa tinh thần của người Thái Lan
tương đối thuần khiết, ít khi có xung đột về văn hóa dân tộc.Có khoảng 95%
người Thái Lan theo đạo Phật. Chỉ có khoảng 4% dân số theo Hồi giáo( chủ yếu
có nguồn gốc Mã Lai) và 1% theo Thiên Chúa Giáo. Chùa chiền thờ Phật của
cộng đồng người Thái từ bao đời nay là trung tâm hội tụ của cộng đồng làng bản
cổ truyền, là nơi linh thiêng của người Thái.
Người Thái là dân tộc chủ thể nên ngôn ngữ Thái trở thành Quốc ngữ cho
toàn dân tộc. Một vài năm gần đây, tiếng anh trở nên phổ biến được sử dụng
trong thương mại, giáo dục và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Nói tóm lại, mặc dù Thái Lan là một nước đa sắc tộc nhưng không có xung
đột về văn hóa. Dù là người Thái, người Khmer, người à thuôn hay người Karen,
tất cả họ cùng chia sẻ giá trị chung, coi tiếng Thái như một ngôn ngữ chính
trong giao tiếp, giáo dục, hành chính và thương mại. Môi trường văn hóa tương
đối thuần khiết này có lợi cho việc xây dựng bản sắc dân tộc quốc gia Thái Lan.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta lại gọi Thái lan là “Đất nước của
những vị sư áo vàng”. Điều này đã phản ánh vai trò mang nhiều ý nghĩa của tôn
giáo trong đời sống văn hóa xã hội của người dân Thái Lan.
10

Khoảng 95% dân Thái lan theo Đạo Phật, chủ yếu là theo trường phái
Hindu. Đạo Phật và những nghi lễ của Đạo Phật đã đóng một vai trò quan trọng
trong xã hội Thái hơn 700 năm qua.
Từ xa xưa các vị sư đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực

giáo dục. Các trường học đầu tiên ở Thái lan đều được xây dựng trên mảnh đất
của nhà chùa và các vị sư ngoài bổn phận của người tu hành, họ còn dậy dỗ trẻ
em địa phương học đọc, học viết và đạo làm người.
Đạo Phật là một phần không thể tách rời cuộc sống của người dân Thái
lan bởi vì chính Đạo Phật đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong các giai
đoạn của đời người như ra đời, cưới xin, ma chay Điều đặc biệt là Đạo Phật
dạy những người theo Đạo phải tu nhân tích đức, luôn sẵn sàng giúp đỡ người
khác và hạn chế bớt những đục vọng của con người.
1.1.3. Khó khăn.
Sự bùng nổ công nghiệp Thái lan ngày nay diễn ra với cường độ quá lớn,
tốc độ quá nhanh, Chính phủ lại can thiệp quá ít nên không thể không xuất hiện
những cơn sốt làm rung chuyền tận gốc rễ văn hóa xã xã hội. Môi trường bị hủy
hoại, sự phân hóa giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn gia tăng, sự
phân tầng xã hội sâu sắc, nạn mại dâm lan rộng, giới quân sự bị tước bỏ độc
quyền chính trị, và bùng nổ kinh doanh đã làm giới doanh nghiệp trở thành lực
lượng chính của sự vận động xã hội.
Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra trong xã hội Thái là làm thế nào để nâng
cao “chất lượng cuộc sống” Thái lan đã và đang tích cực theo đuổi mục tiêu này,
một phần thông qua nguồn tài nguyên có giới hạn của mình, mặt khác hợp tác
cùng các tổ chức quốc tế.
4. Thể chế chính trị của Thái Lan.
Nền chính trị Thái lan đã có một bước ngoặt hết sức có ý nghĩa vào ngày
24 tháng 6 năm 1932 khi một nhóm trí thức trẻ tuổi đi du học từ nước ngoài trở
về mang theo tư tưởng dân chủ phương Tây, đã dấy động lên phong trào đòi
thay đổi chế độ quân chủ độc quyền sang quân chủ lập hiến. Để tránh gây ra đổ
máu,Vua Prajadhipok (Rama VII ) đã chấp nhận xóa bỏ chế độ quân chủ độc
11

quyền và chuyển giao quyền lực cho chính phủ mới dựa trên thể chế hiến pháp.
Đến tháng 10 năm 1932, ông đã ký Bản Hiến pháp đầu tiên của Thái lan và kết

thúc 800 năm tồn tại của chế quân chủ độc quyền ở đất nước này.
Mặc dù hàng loạt các văn bản hiến pháp ra đời song sau hơn nửa thế kỷ
tồn tại, những quan điểm chính trị về một thể chế chính phủ vẫn không thay đổi
như nhà Vua là người đứng đầu lực lượng quân sự và bề trên trong tôn giáo.
Nhà Vua thực hiện quyền lập pháp thông qua quốc hội, thực hiện quyền hành
pháp thông qua nội các đứng đầu là Thủ tướng, và quyền xét xử thông qua tòa
án.
Trong suối 6 thập kỷ qua, nền quân chủ lập hiến ở Thái lan đã tạo nên
một quốc gia hiện đại và thịnh vượng ở Đông Nam Á. Thái Lan đã và đang tiếp
nhận những tư tưởng dân chủ của phương Tây trước đòi hỏi của dân tộc song
vẫn giữ được bản sắc dân tộc và nến văn hóa đáng trân trọng. Gần đây, vào
tháng 6 năm 1992, Hiến pháp đã được sửa đổi có điều luật bắt buộc là Thủ
tướng phải là thành viên quốc hội được bầu chọn.
1.1.4. Khó khăn.
Khủng hoảng chính trị ở Thái Lan diến ra thường xuyên. Ví dụ như cuộc
khủng hoảng tài chính nổ ra từ tháng 7/1997 đã kéo theo sự khủng hoảng của
chính phủ. Nhà vua Thái lần nữa lại khuyên Thủ tướng Chavalit từ chức để mở
đường cho chuan Leekpai - một chính
khách kì cựu, đại diện cho phái dân sự trở
lại nắm quyền vào ngày 7/11/1997.
Trong thời gian gần đây, Thái Lan
lâm vào tình trạng bất ổn định về chính trị,
đặc biệt là từ cuộc đảo chính lật đổ thủ
tướng Thaksin vào tháng 9 năm 2006,
Thái Lan chưa bao giờ thực sự có một
chính phủ ổn định được bầu theo thể thức
dân chủ. Một thực tế khi đề cập đến Thái
Lan là: " lịch sử chính trị Thái Lan luôn
Biểu tình ở Thái Lan
12


gắn liền với những cuộc đảo chính, những cuộc tranh giành quyền lực giữa phái
dân sự và phái quân sự, thực chất vẫn là cuộc đấu tranh giữa xu hướng cấp tiến
hay bảo thủ, dân chủ hay độc tài".
Đó là những nét khái quát về tình hình chính trị - xã hội của Thái Lan.
Có thể nói rằng những thuận lợi cũng như khó khăn về điều kiện tự nhiên, và
các vấn đề chính trị - xã hội của Thái Lan cũng đã tạo ra những thuận lợi cũng
như gây ra không ít thách thức đối với nước này trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
5.Vài nét về chính sách ngoại giao của Thái Lan trong lịch sử
cũng nhƣ hiện tại.
Khái quát chung.
Trong lịch sử lập quốc của mình, Thái Lan từng là một nước lớn theo chủ
nghĩa Đại Thái, lấn át các quốc gia láng giềng khi có thể, nhưng Thái Lan luôn
có chính sách ngoại giao khéo léo đối với các cường quốc Tây Âu và Nhật Bản
trong thời cận và hiện đại. Thái Lan luôn biết tận dụng vị thế địa lí để làm trái
độn giữa các cường quốc. Nhờ thế Thái Lan đã tránh được các cuộc xâm lược và
được hưởng thời gian độc lập, hòa bình tương đối lâu dài trong thời kỳ đế quốc
thực dân xâm chiếm thuộc địa và trong Thế chiến thứ hai.
Thái Lan đã kí hiệp ước hữu nghị và thương mại với Anh năm 1826 và
với Mỹ năm 1833, Hiệp ước trao đổi biên giới các tỉnh phía Bắc Malaysia hiện
tại năm 1909, nhờ đó thoát khỏi ách thuộc địa của các nước đế quốc lúc bấy giờ
đang tranh giành nhau vùng Đông Nam Á. Thái Lan cũng đã kí hiệp định phân
định biên giới sông Mê Kông với Pháp và tránh né xung đột với thực dân Pháp
vào cuối thế kỷ 19.
Trong Thế chiến thứ hai, Thái Lan là đồng minh lỏng lẻo của Nhật Bản,
cho Nhật đi qua đất Thái tiến đánh Malaysia, Myanmar. Lợi dụng thế suy yếu
của nước Pháp (bị Đức quốc xã xâm chiếm) và sức mạnh hải quân khá hiện đại
Thái Lan đã gây chiến với Pháp để tranh giành lãnh thổ Đông Dương. Sau khi bị
hải quân Pháp bất ngờ tiến công đánh bại cùng với sự suy yếu của quân đội phát

xít Nhật vào cuối thế chiến, Thái Lan làm đảo chính vào ngày ngày 1 tháng 8
13

năm 1944 và ngay lập tức chuyển nước Thái từ một đồng minh lỏng lẻo của
Nhật trong một đêm trở thành đồng minh của Mỹ và tiếp tục giữ được độc lập và
hòa bình.
Sau thế chiến, Thái Lan bị đối xử như một quốc gia đối địch bởi Anh và
Pháp, mặc dù Mỹ đã can thiệp để giảm nhẹ các điều khoản trừng phạt Thái Lan.
Thái Lan không bị lực lượng Đồng Minh chiếm đóng, nhưng phải trả lại các
lãnh thổ mà họ đã chiếm đóng trong thời gian chiến tranh cho Anh và Pháp.
Thời kỳ hậu chiến cũng là thời kỳ Thái Lan thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ, như
để bảo trợ Thái Lan khỏi nguy cơ chủ nghĩa cộng sản lan truyền từ các quốc gia
lân bang
Lực lượng du kích cộng sản ở Thái Lan hoạt động tích cực trong khoảng
thập niên 1960 cho tới năm 1987 nhưng chưa bao giờ là một mối de dọa nghiêm
trọng cho chính quyền, tại thời kỳ đỉnh điểm họ đã có đến 12 ngàn du kích quân
trong hàng ngũ.
Thứ nhất, chính sách ngoại giao của Thái Lan trong thời kì cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
1.1.1. Đổi mới bước đầu dưới thời vua Rama III (1824 - 1851).
Những chính sách đổi mới bước đầu được thực hiện từ đầu thời kì
vương triều Chakri, đặc biệt trong thời kì vua Rama III (1824 - 1851). Sức ép
của chủ nghĩa tư bản phương tây đượ coi là một xúc tác lịch sử mạnh mẽ, thúc
đẩy nhu cầu cải cách nội sinh vốn có của Xiêm . Trước áp lực đó, vương quốc
Xiêm đã lựa chọn con đường "mở cửa " với phương tây, canh tân đất nước để
hòa nhập , tìm cơ hội tốt để thích nghi và phát triển.
Vua Rama III đã rất năng động khi lựa chọn chính sách ngoại giao "
lựa chiều" khôn khéo. Ông nhận thấy cần phải có một thực lực rất mạnh mới có
thể chống lại mối đe dọa ngày càng tăng của tư bản phương tây. Do đó, ông đã
tranh thủ tiếp nhận một số thành tựu tiên tiến của phương tây, tiến hành những

cải cách tạo cơ sở cho những cải cách của Xiêm dưới thời Moongkut và
Chulalongkon giai đoạn sau này.
14

Trong chính sách đổi mới của mình vua Rama III tiến hành đổi mới về
mọi mặt, cả về lĩnh vực kinh tế, tôn giáo, văn hóa giáo dục, văn học và lĩnh vực
ngoại giao, quân sự.
Những chính sách về kinh tế đã làm cho nền kinh tế đóng kín cổ
truyền Xiêm bắt đầu tiếp cận với nền kinh tế hàng hóa, những mầm mống của
quan hệ kinh tế TBCN cũng bắt đầu nảy nở. Sự phát triển về kinh tế đặc biệt là
trong công nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Nửa đầu thế kỉ
XIX, một số công trường thủ công của cả nhà nước và tư nhân đã bắt đầu xuất
hiện trong các ngành như chế tạo vũ khí, khai thác mỏ, làm đường, đóng tàu,
xay xát gạo. Về thương mại, sau hiệp ước Xiêm - Anh (1826), các tàu buôn
Châu Âu đến Xiêm ngày càng nhiều.
Trong nông nghiệp, việc mở cửa và buôn bán với các nước trong khu
vực và phương tây làm cho nền nông nghiệp truyền thống dần đi vào quỹ đạo
sản xuất hàng hóa với mặt hàng sản xuất quan trọng nhất là gạo. Việc xuất khẩu
gạo đã dẫn đến một bước đột phá trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Thúc đẩy các
hoạt động mở rộng đất đai, kênh rạch và hoạt động xay xát phục vụ công cuộc
xuất khẩu.
Thứ hai, về lĩnh vực tôn giáo, văn hóa, giáo dục và y học. Những phái
đoàn truyền giáo và những nhà truyền giáo Châu Âu được cho phép hoạt động
phối hợp với nhiều lĩnh vực, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
nghề có tính khoa học như quân sự, y học. Thông qua hoạt động truyền giáo,
ảnh hưởng của văn hóa phương tây ở Xiêm ngày càng tăng. Tiếp đó, vua Rama
III đã ban hành những chính sách đổi mới giáo dục, văn hóa, y học, lĩnh vực
quân sự và ngoại giao.
Những chính sách trên của vua Rama III đã thúc đẩy kinh tế Xiêm
phát triển theo hướng tích cực . Tạo điều kiện cho những bước phát triển kinh tế

của Thái Lan sau này.
1.1.2. Cuộc cải cách của Rama V (1868 - 1910).
15

Sau những cuộc cải cách của những người tiền nhiệm, cải cách của vua
Rama V (1868 - 1910) được coi là cuộc cải cách triệt để và ở trên quy mô lớn
nhất.
Trước cuộc cải cách, Xiêm đã phải kí với phương tây những hiệp ước
bất bình đẳng với các nước phương tây. Xiêm bắt đầu từ hiệp ước Xiêm - Anh
(1855), Nhật Bản bắt đầu từ hiệp ước Mỹ - Nhật (1858). Đó là những hiệp ước
với những áp lực mang tính chất toàn cầu của xu thế phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Cũng như Nhật bản, trước áp lực của Phương tây, với chính sách " ngoại
giao pháo hạm" bắt buộc Xiêm kí hiệp ước bất bình đẳng.
Trong cuộc cải cách này, vua Xiêm đã thực hiện mạnh mẽ trên mọi lĩnh
vực, hướng tới mục tiêu hiện đại hóa đất nước, mong muốn rút ngắn khoảng
cách giữa Xiêm với phương Tây, mong muốn Âu hóa, phát triển như các nước
phương Tây. Cũng như Vua Minh Trị của Nhật Bản, những nhân thức ấy đã đưa
cả hai vị vua duy tân lên một tầm cao hơn hẳn các nhà vua phong kiến ở các
nước Châu Á đương thời, họ trở thành những nhà cải cách không chỉ trong khu
vực mà của thời đại, hoàn toàn khác hẳn thái độ " thụ động", "đóng cửa", " tuyệt
giao" với bên ngoài của triều Nguyễn ở Việt Nam, triều Thanh ở Trung Quốc
Những cải cách đó, đã đưa Xiêm thoát khỏi nguy cơ trở thành một nước
bị thực dân phương tây xâm lược thống trị. Với chính sách ngoại giao xuôi chiều
gió, Thái Lan đã thoát khỏi sự đe dọa xâm lược của Anh, ngay từ thời vua
Mongku năm 1855 Xiêm đã quyết định kí hiệp ước thông thương hữu nghị Thái
- Anh. Hiệp ước này đã đi vào lịch sử quan hệ ngoại thương của Xiêm với tên
gọi hiệp ước Bowring. Hiệp ước này mở đường cho Thái Lan ký các hiệp ước
thông thương khác với một loạt các cường quốc sau đó, cho nên đó là mốc khởi
đầu cho quá trình mở cửa của Xiêm. Tuy thành vẫn chưa thoát khỏi nguy cơ
biến thành thuộc địa của Anh nhưng với Thái Lan đó là một thành công lớn. Sự

độc lập của Xiêm giai đoạn này chủ yếu nhờ vào sự thù địch, cạnh tranh của
Anh và Pháp.
Cuộc chiến không cân sức của Xiêm và Pháp với sự thất bại của Xiêm đã
làm cho vua Chulalongkon nhận thấy rõ sự yếu kém của Xiêm và sự lỗi thời
16

Vua Rama V với chính sách cải cách kinh tế (1868 -
1910)

kém hiệu quả của các thể chế cũ. Vua Chulalongkon đã lên đường sang các
nước Phương Tây để tìm hiểu bí quyết khiến người Phương tây trở thành những
dân tộc hùng mạnh. Sau đó, ông đã tiến hành một loạt những cải cách lớn về
mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội: Xóa bỏ chế độ nô lệ - vật cản trên con
đường phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành kinh tế trọng
điểm



Như vậy, với những chính sách như vậy, Xiêm đã trở thành một nước
duy nhất ở Đông Nam Á không bị biến thành thuộc địa của tư bản phương tây,
mặc dù cải cách không có những hạn chế nhất định, nó không được thành công
như cải cách Minh Trị ở Nhật Bản. Nhưng với những gì cải cách đó đưa lại cho
đất nước Xiêm, có thể nói nó đã dọn đường cho kinh tế Xiêm phát triển vượt trội
so với Việt Nam và hầu hết các nước Đông Nam Á khác.
Thái Lan tham gia đầy đủ các tổ chức quốc tế và tổ chức trong vùng.
Thái Lan tăng cường mối quan hệ với các nước ASEAN.
Thái Lan thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ ngày 6.8.1976.
Chính sách kinh tế đối ngoại của Thái Lan trong giai đoạn hiện nay.
17


Nhà nước tăng cường quan hệ với tất cả các nước, tích cực phát huy vai
trò của Thái lan trong khu vực và trên trường quốc tế. Thủ tướng các kỳ đều đi
thăm Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia,
Singapore, Anh Tích cực tham gia các hợp tác khu vực và tiểu vùng (GMS,
ACMECS,EWEC ). Với cương vị của Chủ tịch nhiệm kì ASEAN nhiệm kì
2008 - 2009, Thái Lan đã tổ chức thành công Hội nghị cao cấp ASEAN 14
(27/02 - 10/03/2009). Tuy nhiên, hiện nay, quan hệ Thái Lan - Campuchia còn
nhiều vấn đề nan giải, gây quan ngại cho nhiều nước.
Ngoài việc coi trọng quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, quan hệ
hợp tác với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật, EU Thái Lan cũng rất
chú trọng đến chính sách ngoại giao phục vụ kinh tế, đẩy mạnh thu hút đầu tư,
đẩy mạnh việc tìm kiếm đối tác thương mại nhằm mở rộng thị trường, tăng giá
trị hàng hóa của Thái lan, tạo cơ hội về thương mại cho khu vực tư nhân Thái
Lan.
Về tự do hóa thương mại, Thái lan chú trọng đàm phán thành lập khu
vực tự do thương mại (FTA) với các nước, trong đó đã kí với Nhật, đang đàm
phán với Mỹ, đồng thời tăng cường quan hệ thương mại đa phương trong khôn
khổ WTO.
Chính phủ Thái lan luôn xác định: hướng ra bên ngoài là một yêu cầu
không thể thiếu để phát triển kinh tế quốc gia. Mục tiêu kinh tế đối ngoại Thái
lan có những nội dung sau:
Về chính sách đầu tư: Mở rộng hơn phạm vi đầu tư cho các nhà đầu tư
quốc tế. Những lĩnh vực "bị cấm", chẳng hạn như lĩnh vực tài chính trước kia,
nay các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư.
Tiếp tục khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực kỹ thuật cao
và khuyến khích đầu tư gián tiếp qua việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham
gia nhiều hơn vào thị trường chứng khoán.
Hướng dẫn tạo thêm điều kiện cho các nhà đầu tư Thái lan đầu tư ra
nước ngoài, đặc biệt đầu tư sang các nước láng giềng. Triển khai các dự án đầu
tư trong lĩnh vực năng lượng, giao thông.

18

Về chính sách cơ cấu:
Tiếp tục thực hiện chủ trương chiến lược là thúc đẩy khu vực dịch vụ
phát triển, xây dựng một cơ cấu nghành hiện đại. Mục tiêu phấn đấu của Thái
lan là làm sao để khách nước ngoài coi Thái lan là đất nước du lịch thực sự chứ
không chỉ đơn thuần là thị trường du lịch giá rẻ hơn các nước khác. Thái lan còn
có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc để phát triển du lịch khu vực và tiểu vùng, tăng
cường hợp tác du lịch với các nước ASEAN. Chính phủ Thái lan còn quan tâm
đến dịch vụ vận tải quốc tế, nhất là vận tải đường bộ.
Về chính sách thị trường:
Để tăng cường hoạt động xuất khẩu, giữ vững thị trường tong nước,
Chính phủ Thái lan đã có một số biện pháp như: tập trung thiết kế và đổi mới
sản phẩm xuất khẩu, tìm nguồn nguyên liệu thay thế để hạ giá thành sản phẩm,
tạo dựng uy tín cho thương hiệu xuất khẩu của Thái lan. Với những thị trường
có khả năng, Thái lan chủ trương khai thác tối đa để đẩy mạnh xuất khẩu.
Về chính sách cạnh tranh:
Thái lan luôn có chủ trương tạo ra môi trường cạnh tranh cho nền kinh
tế, tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp và hàng hoá của Thái
lan. Chính sách cạnh tranh của Thái lan là chủ trương tăng cường tính quốc tế
trong ngành tài chính - ngân hàng, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, thực hiện tư
nhân hoá nhiều hơn, làm tăng cường tính minh bạch trong hoạt động của các
ngân hàng nhằm làm cho chúng hoạt động hiệu quả hơn, có năng lực cạnh tranh
cũng như có uy tín cao hơn trong thời gian tới
Như vậy, chúng ta có thể đi tới kết luận, ngay ở thời kì phong kiến, các
vua của Vương triều Chakri đã rất khôn khéo trong việc sử dụng chính sách
ngoại giao "cây sậy", sự mềm dẻo trong chính sách ngoại giao đã đưa Xiêm trở
thành nước duy nhất ở Đông Nam Á không bị biến thành thuộc địa, mặc dù độc
lập chỉ là tương đối, nhưng điều đó cũng thúc đẩy kinh tế phát triển một cách
mau lẹ và độc lập, tận dụng tốt những cơ hội của thời đại để phát triển kinh tế.

Không chỉ trong lịch sử, mà giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu
vực hóa thì chính sách đối ngoại của Xiêm cũng rất rộng mở. Nhà nước mở rộng
19

cửa hội nhập và thu hút đầu tư nước ngoài khiến cho kinh tế phát triển nhanh
hơn bao giờ hết. Tuy vẫn có một số hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung, qua
trường hợp của Xiêm ta thấy rằng một chính sách ngoại giao phù hợp cũng giúp
cho kinh tế phát triển mau lẹ.

CHƢƠNG II: VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA
THÁI LAN.
II - Đặc điểm về tình hình phát triển kinh tế Thái
Lan.
Khác với Việt Nam và một số nước trong khu vực Đông Nam Á, Thái
lan là nước tiến hành công nghiệp hoa trong môi trường quốc tế khá thuận lợi.
Thái Lan đã hưởng các nguồn lợi gián tiếp trong cuộc chiến tranh Đông Dương
thông qua việc Mỹ sử dụng Thái Lan như một căn cứ quân sự và hậu phương
cung cấp nhu yếu phẩm cho chiến tranh. Các khoản viện trợ không hoàn lại, các
khoản đầu tư lớn từ các nước tư bản phát triển đổ vào đây ngoài mục đích lợi
nhuận trước mắt, phương Tây muốn biến Thái Lan thành "hình mẫu của Mỹ và
thế giới tư bản" ở Đông Nam Á. Chính sự lưu tâm của Mỹ và thế giới tư bản
không những là một yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa đất
nước, mà còn có tác dụng củng cố địa vị lâu bền của phái quân sự trong đời sống
kinh tế,chính trị - xã hội của nước này.
1.Khái quát tình hình kinh tế Thái Lan trong lịch sử.
1.1.1.1. Kinh tế Xiêm nửa cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Sau những hiệp ước kinh tế mà Xiêm ( sau này là Thái Lan) kí với các
nước Phương Tây, cánh cửa Xiêm đã " mở toang''. Nền kinh tế Xiêm bị cuốn hút,
hội nhập ngày càng mạnh mẽ hơn vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới.
Kể từ đầu những năm 60 của thế kỉ XIX trở đi trung bình hàng năm có tới 300

đến 400 tàu buôn nước ngoài ghé cảng Băng Cốc, trong đó chủ yếu là tàu Anh,
sau đó là Đức và Mỹ, Đang Mạch, Thụy Điển, Hà Lan và Pháp. Trọng tải của
các tàu buôn nước ngoài đến Xiêm trong những năm 60 của thế kỉ XIX nhiều
20

gấp 2 lần trọng tải hàng của các tàu buôn Xiêm. Thời gian này thị trường ngoại
thương của Xiêm có sự chuyển hướng nhanh chóng. Người phương tây nhập
vào Xiêm các đồ sứ thủy tinh, sắt, thép, đồng và cả đinh cho công nghiệp đóng
tàu và xây dựng nhà cửa và mua xuất khẩu các mặt hàng của Xiêm như lúa,
gạo, đường, tiêu, ớt, da, lông thú, muối Trong xuất khẩu, mặt hàng chủ lực
của Xiêm là lúa gạo. Nhà nước thực hiện nhiều chính sách khuyến khích việc
trồng lúa và sản xuất gạo xuất khẩu. Tính trung bình lượng gạo xuất khẩu của
Xiêm trong nửa sau thế kỉ XIX tăng rất nhanh. Năm 1858 mới có 2,5% thì năm
1875 là 23% và 1895 là 60%. Số lượng gạo xuất khẩu tiếp tục tăng trong thập
niên đầu thập kỉ XIX: 1900 Xiêm xuất 500.000 tấn, từ 1905 đến 1909 mỗi năm
xuất trung bình 882.000 tấn và đến 1910 là 900.000 ngàn tấn.
Hoạt động nhập khẩu vào Xiêm cũng có thể thấy: Lớn nhất là vải bông,
chiếm 33% tổng giá trị hàng nhập khẩu, tiếp đó là thuốc phiện, dầu mỏ, đồ uống
các loại, bao bì đựng lúa gạo, cuối cùng là các sản phẩm từ sắt thép và đồ máy
móc.
Nhìn khái quát bức tranh tổng thể về kinh tế của Xiêm thời kì này, có thể
thấy rằng nền kinh tế của Xiêm, đặc biệt là kinh tế đối ngoại, chịu sự chi phối
mạnh mẽ của tư bản phương tây, đặc biệt là thực dân Anh. Các nước tư bản
phương tây khi vào Xiêm, được vua Xiêm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc
trao đổi buôn bán. Cũng chính vì vậy, tham vọng của các nước này đối với Xiêm
ngày càng lớn. Xem xét các quan hệ của Xiêm với các nước tư bản phương Tây
như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Hà Lan cũng như quan hệ của Xiêm với Nhật Bản
có thể thấy rõ hơn chính sách ngoại giao đa dạng hóa, đa phương hóa cũng như
ngoại giao "đánh đu", "lựa chiều", "cân bằng lực lượng", lợi dụng mâu thuẫn
giữa các kẻ thù, các đối tác của Xiêm nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

1.1.1.2. Quá trình phát triển kinh tế của Xiêm những năm gần đây.
Thái Lan hiện là một nước công nghiệp mới (trước vốn là nước nông
nghiệp truyền thống). Bắt đầu từ năm 1960, Thái Lan thực hiện Kế hoạch phát
triển Kinh tế - Xã hội lần thứ nhất và đến nay là Kế hoạch 9 (2002-2006).
Những năm 1970, Thái Lan thực hiện chính sách “hướng xuất khẩu”, ASEAN,
21

Mỹ, Nhật Bản, châu Âu là thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan. Ngành công
nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và vai
trò của nông nghiệp giảm dần. Ngành du lịch cũng đóng vai trò tích cực.
Từ 1985-1996, kinh tế Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng cao trung bình
gần 9%/năm Nhưng đến năm 1996, tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 5,9%
và sau đó là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 7/1997 làm cho kinh tế Thái Lan
rơi vào tình trạng khó khăn trầm trọng. Chính phủ buộc phải thả nổi đồng Baht:
tỷ giá đồng Baht tháng 1/1998 là 56 Baht = 1 USD (trước là 25,3); mức tăng
trưởng GDP năm 1998 là -10,5%; nợ nước ngoài khoảng 87 tỷ USD; các ngành
sản xuất mũi nhọn như công nghiệp ô tô, dệt, điện tử suy giảm nghiêm trọng;
thất nghiệp gia tăng, tính đến tháng 3/ 1998 đã có tới 2,8 triệu người thất nghiệp,
chiếm 8,8% lực lượng lao động.
Kể từ năm 1998, kinh tế Thái Lan bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Tăng
trưởng đạt 4,2-4,4% vào năm 2000, phần lớn dựa vào xuất khẩu (tăng 20% năm
2000). Năm 2001, mức tăng trưởng bị giảm xuống còn 2,2% do ảnh hưởng của
sự sụt giảm của kinh tế toàn cầu. Nhưng sau đó, kinh tế Thái Lan tăng trưởng
mạnh dưới thời Thủ tướng Thaksin Shinawatra với một số dự án lớn. Từ 2002-
2004, tăng trưởng đạt 5-7%/năm.
Thái Lan xuất khẩu nhiều hơn 105 tỷ đô la hàng năm. Các sản phẩm xuất
khẩu chính bao gồm gạo, hàng dệt may, giầy, dép, hải sản, cao su, nữ trang, ô tô,
máy tính và thiết bị điện. Thái Lan đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo, mỗi
năm xuất khẩu 6,5 triệu tấn gạo tinh chế. Lúa là loại cây lương thực chính được
trồng tại Thái Lan, với 55% đất đai trồng trọt được được sử dụng để trồng lúa.

Đất có thể canh tác được của Thái Lan cũng chiếm tỷ lệ lớn, 27,25% của toàn bộ
khu vực sông Me Kông.
Các ngành công nghiệp chủ yếu gồm có điện dân dụng, linh kiện điện tử,
linh kiện máy tính và ô tô, trong đó, cũng có đóng góp đáng kể từ du lịch
(khoảng 5% GDP Thái Lan). Những người nước ngoài ở lại đầu tư lâu dài cũng
góp phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân.
22

Từ năm 2007, những bất ổn chính trị đã gây ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế của Thái Lan. Tuy nhiên, các yếu tố cơ bản của nền kinh tế vẫn vững.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Thái Lan năm 2007 đạt 4,8%. Do bất ổn chính trị
trong nước và ảnh hưởng tiêu cực bởi khủng hoảng tài chính, tăng trưởng kinh tế
của Thái Lan năm 2008 chỉ đạt 3,6%. Năm 2009, xuất khẩu giảm mạnh, thất
nghiệp gia tăng, tăng trưởng kinh tế Thái Lan giảm 2,4%. Thời gian gần đây,
kinh tế Thái Lan đã dần phục hồi. GDP năm 2010 và 2011 lần lượt tăng 7,8% và
1,5%. Tuy nhiên, đà tăng trưởng kinh tế vẫn còn phụ thuộc vào một số yếu tố
trong đó có sự ổn định chính trị trong nước.
Nổi bật trong tình hình kinh tế của Thái Lan phải kể đến ngành du lịch
của nước này. Ngành Du lịch chiếm khoảng 6,5% GDP toàn quốc. Năm 2011,
đã có hơn 19 triệu khách du lịch tới Thái Lan, tăng 19,84% so với năm 2010
(theo thống kê Cục Du lịch Thái Lan). Thái Lan đã thu được 734,6 tỷ Bat năm
2011, tăng 23,92% so với năm 2010.

















23



2. Các chỉ số kinh tế Thái Lan.
Bảng 1.1: Bảng thể hiện chỉ số tăng trƣởng kinh tế qua các năm của
Thái Lan .
(Đơn vị: USD).


Hình 1.1. Biểu đồ thể hiện cơ cấu các ngành kinh tế của Thái Lan.
(Đơn vị: USD).
24

Bảng 1.2: Bảng thể hiện sự tăng trƣởng của ngành thƣơng mại Thái
Lan.











25

Biểu đồ XK và NK của Thái Lan qua các năm (tỷ USD)


Qua những nét khái quát về tình hình kinh tế Thái lan, ta có thể thấy
rằng, tuy kinh tế Thái Lan luôn có những bước thăng trầm không ổn định, nhưng
xét chung trong cả quá trình phát triển, nền kinh tế luôn có xu hướng phát triển
đi lên.
III. Một số chính sách kinh tế góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế Thái Lan.
1. Một số chính sách phát triển kinh tế.
1.1. Chính sách tài chính
Chính phủ đã áp dụng chính sách khuyến khích tài chính từ năm 1999 và
nó đã trở thành một công cụ chính để phát triển kinh tế đất nước. Năm 2001,
chính sách tài chính này đã đạt được nhiều hiệu quả, tập trung vào những dự án
chính sau:
1. Dự án tăng thu nhập của nền kinh tế
2. Tăng chi ngân sách để phát triển nền kinh tế
3. Duy trì VAT ở mức 7% đến tháng 9/2003 nhằm duy trì sức mua của
nhân dân.

×