Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Phân biệt cách dùng shall, will, should và would trong tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 32 trang )

Phân biệt cách dùng Shall, Will, Should và Would trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh, Shall và Will đều sử dụng cho thì tương lai đơn, Shall thì đi với ngôi 1 (số ít và số nhiều), Will đi
với các ngôi còn lại.
Linh: Anh John thân mến, mấy hôm nay không thấy kiểm tra hòm thư điện tử hả? Ngập trong thư của bạn đọc rồi đây này. You should check mail as
soon as possible! (1)
John: I shall tomorrow. (2)
Linh: No, you shall check mail today! (3)
John: Thôi được rồi, chiều nay anh sẽ làm luôn, trước khi ăn cơm luôn nhé!
Linh: Thế còn được. Mà chiều là việc của chiều, giờ anh John tranh thủ giải đáp thắc mắc này của bạn đọc luôn nhé:
“Phân biệt sự khác nhau, cách sử dụng của Shall, Will, Should và Would?”
John: Câu hỏi này khá hay. Để anh xem nào…
Đều sử dụng cho thì tương lai đơn, Shall thì đi với ngôi 1 (số ít và số nhiều), Will đi với các ngôi còn lại.:
- (2)
- He will be here around 3 o’clock.
John: Tuy nhiên, lưu ý rằng khi diễn tả như một quyết tâm, một lời hứa hay một sự quyết đoán, Will lại được sử dụng với ngôi 1 và Shall được sử dụng
với các ngôi còn lại (tức là ngược lại so với bình thường).
- I will marry her, no matter what! (Dù gì đi nữa tôi cũng sẽ cưới cô ấy - không ai có thể cản tôi)
- It shall be done by tomorrow! (Sẽ xong vào ngày mai - bằng mọi giá tôi sẽ hoàn thành việc đó)
John: Trong tiếng Anh hiện đại, Will gần như không có sự phân biệt khi sử dụng với tất cả các ngôi, trong khi Shall rất ít được sử dụng.
Linh: Rất ít tức là vẫn dùng đúng không anh?
John: Đừng nóng, “từ từ rồi khoai sẽ nhừ”. Shall vẫn được sử dụng trong thể nghi vấn với ngôi 1 để diễn tả một lời, một sự gợi ý, đề nghị hay yêu cầu
lời khuyên.
- Shall we dance? (Chúng ta hãy cùng nhảy chứ? - Tên một bộ phim rất nổi tiếng)
- Shall I get some chicken on the way back? (Anh sẽ mua thêm ít thịt gà trên đường về nhé? - Anh đang hỏi ý kiến em đấy em yêu, không biết có
cần thêm thịt gà không?)
John: Shall còn đôi khi dùng để yêu cầu người khác làm một việc gì đó với nghĩa mạnh gần như Must:
- (3) (Anh phải kiểm tra hòm thư ngay ngày hôm nay - Việc đó thực sự là cần thiết, thực sự quan trọng)
- You shall finish your homework before you do anything else! (Con sẽ làm xong bài tập trước khi làm bất cứ cái gì khác! - Đó là mệnh lệnh đấy con
trai, con không có lựa chọn nào khác đâu)
John: Shall cũng hay được sử dụng trong các văn bản pháp luật hoặc liên quan đến pháp luật (hợp đồng, biên bản thỏa thuận…) khi nói về những yêu
cầu bắt buộc.


- All fees shall be paid in full 5 days prior to departure date. (Tất cả các loại phí sẽ được nộp đủ trước ngày khởi hành 5 ngày - Tất cả các loại phí
phải được nộp đủ, nếu không nộp đủ và đúng hạn sẽ không được khởi hành)
Linh: Ồ, hóa ra là như thế. Vậy còn Should và Would thì sao?
John: Should cũng thường được dùng để thay thế Shall với ý gợi ý, đề nghị hay tìm lời khuyên (một cách lịch sự hơn Shall):
- Should I open the window? (Tôi sẽ mở cửa nhé - Tôi đang muốn hỏi xem bạn có lạnh không, nếu không thì tôi sẽ mở cửa nhé)
Should được dùng với nghĩa là “nên”:
- You should open a bank account. You shouldn’t keep that much cash at home. (Chị nên mở một tài khoản ngân hàng đi. Chị không nên giữ nhiều
tiền mặt như vậy ở nhà.)
John: Should còn được dùng sau if nếu người nói không dám chắc lắm về một việc có xảy ra trong tương lai không nhưng vẫn có một cơ hội nhỏ rằng
sự việc đó sẽ xảy ra:
- If you should see him at the party, please kindly send him my regards. (Nếu có gặp anh ấy ở buổi tiệc, phiền hãy gửi lời hỏi thăm của tôi nhé - Tôi
không chắc là anh ta có đến đó không, tuy nhiên nếu anh ta đến thì hãy chuyển lời giúp tôi.)
John: Would thỉnh thoảng được dùng thay cho used to khi nói về thói quen trong quá khứ:
- When we were just kids, we would spend hours every morning searching for seashells by the seashore. (Khi còn là những đứa trẻ, mỗi sáng
chúng tôi thường ra bờ biển nhặt vỏ sò hàng giờ liền)
Would dùng khi yêu cầu một cách lịch sự:
- Would you be so kind as to help me on my moving day?
- Would you go out and check the mailbox?
Linh: Cũng không quá phức tạp như Linh nghĩ nhỉ.
Cám ơn anh John nhé! Các bạn đừng quên hòm thư của John & Linh là nhé!
Cách diễn đạt thích/không thích trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh, like - thích (và dislike - không thích) có những mức độ diễn đạt rất phong phú. Ví dụ, khi thích
thứ gì đó theo kiểu một niềm đam mê, đàn ông tuyên bố I am attached to/addicted to + football/drinking beer còn
phụ nữ thì nói I am crazy about/fancy/in love with + shopping/fashion/cosmetics.
Linh: Anh John có nhớ lâu lâu rồi, có một hôm Linh đi vắng và anh John ở nhà trò chuyện với bạn đọc một mình không? Hôm đó anh John “tâm sự” về
tình yêu All about love. Hôm nay Linh muốn anh John giúp Linh All about “like” được không? Linh thấy cách diễn đạt like của Linh vẫn chưa phong phú
lắm.
John: Thế Linh thường sử dụng những “like” nào rồi?
Linh: Linh thì hay sử dụng like/enjoy/be fond of/be keen on + reading/watching TV chẳng hạn.
John: Trong tiếng Anh like - thích (và dislike - không thích) có những mức độ diễn đạt phong phú lắm đấy Linh ạ.

Những gì Linh vừa đề cập đến chỉ là mức độ bình thường của like mà thôi. Khi thích một thứ gì đó theo kiểu một niềm đam mê, đàn ông sẽ tuyên bố I
am attached to/addicted to + football/drinking beer còn phụ nữ sẽ lên tiếng ngay I am crazy about/fancy/in love with + shopping/fashion/cosmetics.
Linh: Vậy khi “like” một cô gái nào đó chẳng hạn, anh John thường sử dụng những cách diễn đạt nào?
John: Đàn ông thường “yêu” bằng mắt, chính vì vậy mà các anh hay thốt lên rằng I think I fall for/love/fall in love with her. I am enchanted by her
beauty; I am captivated by her eyes…
Tuy nhiên, sau khi khỏi thời gian “say nắng” ban đầu thì người phụ nữ giữ được trái tim các anh chính là người mà làm cho các anh phải thốt lên I am
fascinated with her charming personality. I adore/worship her.
John: Đối với những món quà, những kỷ vật hay chỉ đơn giản là những kỷ niệm ngọt ngào mà chúng ta muốn gìn giữ, ta có thể nói I will
cherish/treasure + our memories/your present…
Linh: Nếu thích ai theo kiểu thần tượng, ví dụ như thần tượng ca sĩ ABC nào đó chẳng hạn, thì nói thế nào anh?
John: Rất đơn giản: I adore/idolize singer ABC.
Linh biết không, ngược lại với like là dislike cũng có những cách diễn đạt đa dạng không kém.
John: Một cách lịch sự, khi nói không thích một thứ gì đó, người ta thường dùng thể phủ định của những câu mang ý like. Ví dụ như I don’t really like it;
I am not very fond of it; it’s not really my favorite thing…
Đối với những trường hợp mạnh dạn và thẳng thắn hơn nữa thì ta có thể dùng dislike/hate/detest hoặc I can’t stand/bear it.
Linh: Mạnh nữa thì có không anh John?
John: Mạnh hơn nữa thì có thể sử dụng I am disgusted with; I nauseate; I am sick of nhưng phải rất cẩn trọng vì thường ở mức độ này, các câu nói
hay mang nghĩa khinh khi, miệt thị.
Linh: Thế có cái kiểu mà không like hẳn cũng chả dislike hẳn không anh?
John: Lại định hỏi khó người ta hả! Nhưng mà “phong độ chỉ là nhất thời, đẳng cấp mới là mãi mãi” nhé!
Ở mức độ này, sự thực là chúng ta không hứng thú với việc được đề cập, tuy nhiên, có chấp nhận nó cũng chả sao, cũng không gây sự phiền phức gì
cả. Ví dụ như I don’t mind helping her; I’m not bothered with looking after your house; It’s ok/alright, I suppose.
John: Khi nói hoặc nghe người khác nói những câu này, chúng ta nên chú ý “sắc mặt” một chút. Do chúng mang tính chất chung chung, ở giữa nên sắc
mặt có thể cho người nghe thấy được thực sự người nói đang nghiêng về phía like hay dislike.
Linh: Cám ơn anh John nhiều nhé!
John: Hy vọng qua buổi nói chuyện của John&Linh ngày hôm nay, các bạn độc giả sẽ có thêm nhiều lựa chọn để diễn đạt nhưng gì mình thích hay
không thích.
Linh: Các bạn đừng quên có thể gửi thư đóng góp, thắc mắc vào hòm thư
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại!
Like/enjoy/be fond of/be keen on: Thích

Be attached to/addicted to: Nghiện
Fancy/be crazy about/be in love with: Cuồng nhiệt với, điên lên vì, (say) mê
Be enchanted/captivated by: Bị bỏ bùa, mê đắm, quyến rũ
Cherish/treasure: Trân trọng, nâng niu
Stand/bear: Chịu đựng được, chịu đựng nổi
Be fascinated: Bị mê hoặc
Charming: Quyến rũ
Adore/worship: Sùng bái
Idolize: Thần tượng ai đó
Detest: Ghét cay đắng
Be disgusted with/nauseate: Ghê tởm
Be sick of: Chán ốm, phát ốm với cái gì
Mind/be bothered: Thấy phiền với
Sự khác nhau giữa 2 từ Start và Begin trong tiếng Anh
Start thường mang đến một cảm giác nhanh, mạnh và bất ngờ, như là một hành động xảy ra vào một thời điểm.
Còn Begin thường mang đến cảm giác từ từ hơn, chậm rãi hơn và nói về một quá trình
Linh: Xin chào các bạn! Tuần vừa rồi, hòm thư lại đầy ắp thư của bạn đọc khắp nơi gửi về.
John: Một lần nữa John & Linh lại phải xin lỗi vì không thể phản hồi tất cả số lượng thư đã gửi đến được.
Linh: Hôm nay, John & Linh xin được phản hồi thư của bạn Phan Thuc Dinh (xin được giấu địa chỉ email). Trong thư bạn đã chia sẻ thắc mắc về sự
khác nhau giữa 2 từ Start - Begin.
John: Sự khác biệt đầu tiên là Start có thể được sử dụng như một động từ và cả như một danh từ còn Begin chỉ là động từ mà thôi.

Về nghĩa, hầu như không có sự khác biệt, 2 từ này có thể dùng thay thế cho nhau. Tuy nhiên, theo quan điểm của John thì cần lưu ý một số điểm như
sau:
- Về mức độ, Start thường mang đến một cảm giác nhanh, mạnh và bất ngờ, như là một hành động xảy ra vào một thời điểm. Begin thường mang
đến cảm giác từ từ hơn, chậm rãi hơn và nói về một quá trình.
Linh: Ví dụ:
You should start doing it now or you’ll be late! (Bạn nên bắt đầu làm việc đó luôn đi không có là muộn đó) - nghe như có sự giục giã, sự cấp
bách.
She begins to cry when Jack makes Rose promise she will survive. (Cô ấy bắt đầu khóc khi Jack bắt Rose hứa sẽ phải sống sót) - cô ấy từ từ

bắt đầu khóc chứ không khóc òa lên luôn.

John:
- Begin không được dùng thay cho Start trong các trường hợp:
o Dùng với máy móc (Press the button and the engine will start - Bấm cái nút và máy sẽ khởi động).
o Dùng với nghĩa là khởi hành một chuyến đi (Let’s start early before the traffic gets worse - Hãy khởi hành sớm trước khi giao thông trở nên tệ
hơn).
o Khi nói về một người mở màn, bắt đầu một sự kiện nào đó hay bộ phận khởi động, món khai vị… chúng ta chỉ dùng Starter.
o Khi bắt đầu từ một điểm xác định nào đó, ví dụ: This collection is very expensive with prices start from £5000. (Bộ sưu tập này rất đắt với giá bán
bắt đầu từ 5000 bảng Anh trở lên)
Linh:
- Start không được dùng thay cho Begin trong các trường hợp:
o Nói về một người mới hoàn toàn trong một lĩnh vực nào đó (English for beginners - tiếng Anh cho người mới học).

- Khi dùng với Talk, Start to talk sử dụng đối với những em bé đắt đầu biết nói còn Begin to talk mới có nghĩa là bắt đầu nói:
o My baby started to talk 2 weeks ago and her first word was mama - Con tôi mới biết nói 2 tuần trước và từ đầu tiên mà nó nói là gọi mẹ.
o He began to talk 30 minutes ago and never stopped - Anh ta bắt đầu nói từ 30 phút trước và chưa hề dừng lại.
John: Mong rằng với những chia sẻ vừa rồi, các bạn có thể tự tin hơn nữa khi sử dụng các cặp từ đồng nghĩa Start - Begin.
Linh: Suýt chút nữa là quên mất! Trong thời gian vừa rồi, hòm thư cũng nhận được rất nhiều thư của phụ huynh các bạn học sinh
cấp 1 và cấp 2 bày tỏ băn khoăn trong việc làm thế nào để có thể giúp con em mình học và sử dụng tốt tiếng Anh. Quý vị phụ huynh quan tâm tới chủ
đề này xin đừng ngần ngại gửi thư về hòm thư của John & Linh. John & Linh sẽ chọn ra các thư tiêu biểu nhất để cùng chia sẻ với quý vị và các bạn.
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại!
Lưu ý khi tả diện mạo trong tiếng Anh
Skinny và slim đều có nghĩa là gầy nhưng mức độ có khác nhau đôi chút. Khi nói ai đó slim có nghĩa là khen người
đó có thân hình thon thả, nhưng nếu nói skinny thì có nghĩa là chê người đó quá gầy, chỉ còn da (skin) bọc xương.
John: “Trông mặt mà bắt hình dong” có nghĩa là sao hả Linh?
Linh: “Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon” - Câu này có ý là nhìn vẻ bề ngoài mà phán đoán được về tính cách và con người bên trong.
John: Vậy hả? Tiếng Anh thì lại có một câu ngược lại là “Appearances can be deceiving” - Mọi thứ có thể không như vẻ bề ngoài.
Linh: Nhân tiện nói chuyện về vẻ bề ngoài, anh John giải thích giúp Linh xem slim và skinny khác nhau thế nào?

John: Skinny và slim đều có nghĩa là gầy nhưng mức độ có khác nhau đôi chút. Slim mang nghĩa tích cực còn skinny mang nghĩa hơi tiêu cực. Khi nói
ai đó slim có nghĩa là khen người đó có thân hình thon thả, nhưng nếu nói skinny thì có nghĩa là chê người đó quá gầy, chỉ còn da (skin) bọc xương.
Linh: Vậy tức là khi miêu tả ai đó, chúng ta nên thận trọng trong cách dùng từ của mình. Còn chú ý gì khi nói về bề ngoài của người khác không anh
John?
John: Theo John thì miêu tả bất kể thứ gì, chúng ta cũng phải miêu tả làm sao để người khác hình dung ra được. Nhất là miêu tả người!
Chúng ta nên miêu tả theo trình tự nhất định để người nghe có thể hình dung ra được. Đừng đang tả mặt lại chuyển sang tả người rồi lại quay lại tả
mặt.
Linh: Theo thói quen, mỗi người sẽ có một trình tự riêng. Có người tả hết chi tiết và chốt lại bằng tổng thể.
Nếu là Linh thì Linh sẽ miêu tả tổng thể, cho người nghe có cái nhìn khái quát, rồi mới đến chi tiết. Ví dụ như là đầu tiên sẽ tả tổng thể diện mạo bên
ngoài rồi đến dáng người, chiều cao hoặc tuổi tác. Tiếp đến sẽ là nước da, gương mặt và tóc. Nếu cần thì có thể đề cập thêm các chi tiết trên khuôn
mặt hoặc các chi tiết đặc biệt dễ nhận biết.
John: Đúng rồi đấy. Linh cũng nhanh trí thật đấy nhé!
Linh: Anh John có thể ví dụ cho Linh, miểu tả thử một ai đó, để Linh và bạn đọc có thể có cái nhìn rõ ràng hơn và mở rộng vốn từ hơn được không?
John: Nói về từ ngữ để miêu tả thì vô cùng vô cùng rộng lớn, không biết nên nói cái nào bỏ cái này. Thế nên tốt nhất là chúng ta phải tự mở rộng vốn
từ thông qua quá trình sử dụng tiếng Anh mà thôi. John sẽ cụ thể hơn một chút để mọi người hình dung rõ hơn nhé.
John: Tả tổng thể một người, hãy chọn nét đặc trưng nào đó mà xuất hiện ngay trong đầu bạn, có thể là hình dáng hoặc cũng có thể là cái phong thái
toát ra:
- - She’s a very smart, attractive woman (cô ấy là một người phụ nữ thông minh và rất thu hút).
- He looks like a mess (Anh ấy trông rất nhếch nhác).
John: Khi nói về chiều cao hay hình thể, chúng ta cần lưu ý trong cách dùng từ (như John đã chia sẻ ở trên). Ví dụ như muốn nói về ai đó hơi béo một
chút, nên lịch sự tránh dùng fat hay obese, mà nên nói thành He’s a bit overweight - Anh ta hơi quá cân một chút.
John: Một người có cơ thể rắn chắc, ta có thể dùng well-built, cơ bắp hơn chút nữa ta dùng muscular. Nếu ai đó hơi to nhưng nhìn vẫn chắc chứ không
“nhão” thì cũng có thể dùng stocky (to và chắc).
Một người vừa phải thì hãy dùng average:
- He’s average height/weight - Anh ấy cao/nặng trung bình.
John: Để miêu tả về tuổi, người ta thường không dùng tuổi chính xác (vì tả theo hình dáng bên ngoài chứ ít khi biết tuổi thật) mà dùng khoảng:
- She’s around 23 - Cô ấy khoảng 23 tuổi.
- He’s in his 40s - Ông ta ngoài 40 tuổi.
- She’s in her early 30s - Cô ấy khoảng hơn 30 tuổi một chút.
John: Để tả màu da ngăm đen, ta không dùng black mà dùng dark. Tương tự, để nói về màu da sáng, trắng, ta dùng fair chứ không dùng white. Cũng

có thể dùng olive-skinned cho những người có nước da “bánh mật”:
- She’s fair skinned/olive-skinned.
John: Với khuôn mặt, có thể tả về hình dáng nói chung của khuôn mặt: mặt vuông chữ điền (square face); khuôn mặt thô, hơi xấu (plain face); gương
mặt gầy (thin face) hay gương mặt tròn (round face).
Cần lưu ý sử dụng cho đúng dạng của từ: tính từ hay danh từ.
- She’s got a round face = She’s round-faced
Linh: Để kết luận, anh John thử tả một người nào đó xem nào. À, đúng rồi, tả bạn gái cũ của anh ý!
John: Như có lần John đã chia sẻ:
She’s a woman of taste (cái này là do John đã biết nên mới nói được), always well-dressed.
She’s in her early 20s, about 5.5 feet tall, average weight and fair-skinned.
She’s got a beautiful face with long, straight dark brown hair.
What I really love are her eyes. They look so intense (Trông chúng thật đầy nhiệt huyết, đầy cảm xúc).
Linh: Các bạn hãy cùng thử miêu tả “người ấy” của mình xem mức độ “hâm mộ” đối với “người ấy” đến đâu nhé.
John & Linh: Hẹn gặp lại vào tuần sau.
John & Linh trả lời thắc mắc của bạn đọc
Hôm nay John & Linh chọn ra một số câu hỏi “khó nhằn” của bạn đọc để giải đáp.
Linh: Trong thời gian vừa rồi, John & Linh đã nhận được rất nhiều thư qua hòm thư , ngoài việc bày tỏ sự yêu mến đối với John & Linh nói riêng và chuyên mục của chúng ta nói
chung, hầu hết các bạn đều có những băn khoăn, những thắc mắc hay những câu hỏi “khó nhằn” nhờ John & Linh giải đáp.
John & Linh: Xin một lần nữa cám ơn các quý vị độc giả.
John: Hôm nay, John & Linh sẽ chọn ra phản hồi một số câu hỏi của bạn đọc.
Linh: Bạn Nguyen Hien (xin được phép giữ kín địa chỉ email của bạn Hien) có hỏi thành ngữ “Show me a bunlded_up kid and I'll show you a cold mother”.
John & Linh: Trước tiên, John & Linh chắc rằng chính xác bạn đang muốn nhắc đề cập đến câu “Show me a bundled-up kid and I'll show you a cold mother” (chứ không phải bunlded_up).
Tiếp đến, chúng tôi không dám chắc đây có phải là một thành ngữ hay không vì thực sự chúng tôi chưa thấy câu này được sử dụng như một thành ngữ bao giờ. Sẽ tốt hơn nếu bạn cung cấp được cho
chúng tôi ngữ cảnh của câu nói trên. Có thể đây chỉ là cách nói “văn hoa” để nhấn mạnh ý muốn nói của một người nào đó mà thôi.
Câu nói này có nghĩa là “Chỉ cho tôi 1 đứa bé được mặc ấm và tôi sẽ chỉ cho bạn thấy một bà mẹ đang bị lạnh”. Theo John & Linh, câu nói này muốn đề cao đức hy sinh cao cả, tình yêu thương bao la
của những người mẹ, rằng các bà mẹ luôn dành những gì tốt đẹp nhất cho con cái của mình và chính mình nhận lấy những phần thiệt thòi hơn.
John: Bạn Nguyen Nam chia sẻ băn khoăn rằng có nên sử dụng thành ngữ trong giao tiếp hàng ngày hay chỉ nên sử dụng những câu với cấu trúc đơn giản.
John & Linh: Bạn Nam thân mến. Trong giao tiếp, chú trọng nhất đến khả năng diễn đạt và hiệu quả nghe-hiểu, chính vì vậy bạn có thể sử dụng các câu đơn giản nếu chúng giúp bạn diễn đạt được tốt
hơn ý của mình.
Tuy nhiên, ít nhất có 2 lý do để nếu có điều kiện, bạn nên tìm hiểu thêm về cách dùng các thành ngữ:

Thứ nhất, nắm bắt các thành ngữ sẽ giúp bạn dễ dàng hơn trong việc nghe hiểu. Thứ hai, việc sử dụng các thành ngữ sẽ làm cho giao tiếp tiếng Anh của bạn được phong phú hơn, làm cho việc “học và
hành” trở nên thú vị hơn. Khi bạn thấy cái gì đó thú vị, tin chắc rằng bạn sẽ thích học và thích dùng nó hơn.
Linh: Bạn Bui Van Anh thì lại muốn hỏi về sự khác nhau giữa would rather và would prefer.
John & Linh: Về nghĩa, giữa chúng gần như không có sự khác biệt (thích hơn), chúng ta có thể sử dụng cách nào cũng được. Về cấu trúc ngữ pháp thì lại có sự phân biệt nhất định.
- Would rather do A (than do B) - Tôi thích làm việc A (hơn là làm việc B).
I would rather stay at home and study.
- Would rather + mệnh đề (lưu ý về thì)
Mum would rather that we would go tomorrow - Tomorrow là dấu hiệu của thì tương lai, đáng nhẽ phải dùng will nhưng do sử dụngwould rather, ta phải giảm thì của mệnh đề sau xuống: will => would.
- Would prefer to do A (rather than do B) - Tôi thích làm việc A (hơn là làm việc B)
Chúc các bạn thêm yêu thích tiếng Anh và sử dụng tiếng Anh thật tốt trong học tập, trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày của mình.
John & Linh: Hẹn gặp lại vào tuần sau!
Tìm hiểu từ “Look” trong tiếng Anh
Theo đề nghị của nhiều bạn đọc, hôm nay John và Linh sẽ cùng các bạn trao đổi về từ “Look” trong tiếng Anh
nhé.
John: Sau khi bài viết Thú vị từ Make trong tiếng Anh, đã có khá nhiều comment và email gửi về địa chỉ để động viên và yêu cầu giải đáp các thắc mắc cũng như đóng góp ý tưởng
cho chuyên mục của chúng ta.
Linh: John & Linh rất cảm ơn các bạn đã thực sự dành sự quan tâm tới chuyên mục cũng như dành tình cảm yêu mến cho John & Linh.
John: Do có nhiều bạn chia sẻ rằng muốn John & Linh có một bài tương tự về từ Look, hôm nay John và Linh sẽ cùng trao đổi về từ này nhé.
Linh: Về cơ bản thì có thể tra từ điển chúng ta cũng biết được nghĩa và cách dùng của các từ rồi. Tuy nhiên, trong giao tiếp hàng ngày, nếu sử dụng linh hoạt các từ ghép hay các cách diễn đạt mang
tính thực tế cao sẽ làm cho việc nói tiếng Anh của các bạn trở nên nhiều màu sắc và hứng thú hơn nữa.
John: Một số từ ghép hay sử dụng là look for; look after và look into với nghĩa theo thứ tự là là tìm kiếm; chăm sóc, trông nom và xem xét kỹ, nghiên cứu, điều tra.
Look up ngoài nghĩa là nhìn lên còn có nghĩa là tra cứu (ví dụ use the dictionary to look it up - lấy từ điển mà tra từ đó đi), là đi thăm (look up grandma - thăm bà).
Look up nếu sử dụng với to sẽ có nghĩa là kính trọng, ngưỡng mộ, coi người nào đó là tấm gương sáng để noi theo (He’s the kind of person that people look up to - Ông ấy là kiểu người mà mọi người
luôn kính trọng/Ông ấy luôn là tấm gương sáng cho mọi người).
Linh: Ngược với nó là look down on/upon - xem thường ai đó, tỏ ra kẻ cả đối với ai đó.
John: Hôm vừa rồi anh thấy Linh gọt hoa quả, vừa gọt vừa “ăn vụng” nhé. May cho Linh là anh tốt bụng đã look the other way (cố tình làm lơ) đấy nhé, cuối cùng đĩa hoa quả còn có một nửa!
Linh: Look who’s talking (Xem ai đang nói kìa - ý là người kia cũng đã từng mắc lỗi lầm tương tự)! Hôm trước mẹ Linh làm nộm, thấy anh John cũng “ăn vụng” trong bếp đấy thôi. Don’t look daggers at
me (nhìn một cách tức giận - ánh mắt hình viên đạn), Linh không kể cho ai nghe đâu (cười).
Giờ quay trở lại chủ đề chính nhé, anh John có biết look what the cat's dragged in! có ý gì không?
John: Có ý mỉa mai, miệt thị ai đó có bộ dạng lôi thôi lếch thếch như là cái thứ con mèo nó vừa kéo lê vào.

Linh: Đấy! Ấy thế mà hôm rồi Linh đi dự tiệc, có một bà này xấu tính lắm nhé. Thấy một bà khác đi vào, bà ấy nói thầm với bạn là Look what the cat's dragged in!
Xong rồi lúc bà kia đi tới, bà ta liền nói: Look who’s here (Trông ai đến này - có ý thu hút sự chú ý đến người mới đến)! You look like a million dollars in that dress (Trông chị mặc cái váy đó thật tuyệt)!
John: Thôi chết, còn có 15 phút nữa là đến giờ chiếu phim rồi! Look alive!(nhanh lên, khẩn trương lên)
Linh: Phim này chán bỏ xừ!
John: Này, don’t look a gift horse in the mouth! (đừng chỉ trích, đừng coi thường, đừng tỏ ra vô ơn đối với đồ được tặng hay những thứ không mất tiền để có)
Linh: Đùa tí mà đã dỗi rồi à! Thôi đi nào, anh John đã mua vé rồi thì Linh sẽ mời nước nhé!
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại các bạn!
Thú vị từ “Make” trong tiếng Anh
Hôm nay John và Linh chia sẻ với các bạn những cách sử dụng hay của các động từ ghép, các thành ngữ với từ
make.
John: Chào Linh, sao lúc nào trông cũng không vui thế nhỉ? Phụng thể lại bất an à (mới học được từ này phải tranh thủ dùng ngay)?
Linh: Linh thi trượt bằng lái xe rồi anh John ạ, phải buồn chứ!
John: Tưởng gì, make light of it đi rồi mai kia lại thi tiếp chứ có gì đâu.
Linh: Make light of it là sao anh?
John: Linh không biết à? Make light of = treat as unimportant (xem như là không quan trọng). Ngược với nó là Make much of=treat as very important.
Cheer up! Trông kìa, mặt bí xị như sắp khóc rồi, lêu lêu!
Linh: Don’t make fun of me (make fun of= chế nhạo) - đừng có mà lôi em ra làm trò cười!
John: Á à, cũng biết dùng tiếng Anh quá nhỉ. Thế còn biết những “make” gì nữa nào?
Linh: Hơi bị siêu đấy! Linh còn biết make sense(hợp lý, có thể hiểu được): It doesn’t make any sense - Chẳng hợp lý gì cả, chẳng hiểu gì cả. Hay là make up someone’s mind là quyết định.
John: Đúng rồi. Make up trong các trường hợp khác còn có các nghĩa khác nữa:
Make up a story: Dựng nên một câu chuyện
She’s making up for a big show: Cô ấy đang trang điểm cho một buổi biểu diễn lớn.
Let me make it up to you: Để tôi đền cho bạn nhé.
You should make up with her: Hãy làm lành với cô ấy đi.
John: Nếu tra từ điển thì Make có rất nhiều nghĩa tương ứng với các cách dùng khác nhau nhưng có một số cách dùng hay và thường gặp trong thực tế, ví dụ như make believe ≈ pretend đã gặp trong
bài hát nổi tiếng Thank you for loving me:
“If I tried, you'd make believe - Nếu như anh thử (nói dối), em sẽ vờ như
That you believed my lies - Rằng em tin những lời nói dối của anh”
Linh: Vậy make my peace with có nghĩa là gì?
John: Make someone’s peace with có nghĩa là cam chịu với cái gì đó.

Linh: Có cái make nào vui hơn không hả anh?
John: Make someone’s day chắc vui hơn. Ví dụ như Thank you very much for your gift. It really made my day! Có nghĩa là Rất cám ơn bạn về món quà. Nó làm tôi thực sự hạnh phúc!
Make ends meet (= make both ends meet) cũng vui nữa. Có nghĩa là xoay sở đủ sống, tức là những gì bạn làm ra thì đủ trang trải cho cuộc sống của bạn mà không thiếu thốn hay phải mắc nợ.
Linh: Linh cho 2 ví dụ, anh John thử giải thích cho Linh với từ make trong đó nhé:
- The appointment was at 6 p.m but she couldn’t make it there in time because of the traffic jam.
- After 10 years of striving, finally he made it as the most successful talent agent in town.
John: Make it trong 2 trường hợp này có nghĩa là thành công hay đạt được một cái gì hay một việc gì đó.
Trường hợp 1, cô ấy đã không thành công trong việc đến điểm hẹn: Có hẹn lúc 6 giờ tối nhưng cô ấy đã không thể đến đó kịp giờ vì kẹt xe quá.
Trường hợp 2, anh ấy đã thành công trong việc phấn đấu lập nghiệp của mình: Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, cuối cùng anh ấy đã trở thành người đại diện cho các nghệ sĩ thành công nhất trong thành
phố.
John: Hôm nay dừng lại tại đây thôi nhé, anh phải đi rồi. Cố gắng make the most of (tận dụng hết, sử dụng tối đa) what you’ve learnt today!
Linh: Anh John đi mất rồi, chỉ còn Linh với các bạn, các bạn hãy cùng chia sẻ với Linh những cách sử dụng hay của các động từ ghép, các thành ngữ với make nhé!
Các bạn có thể gửi các đóng góp hay các mong muốn về những chủ đề để John và Linh cùng chia sẻ vào địa chỉ email Dù rất muốn nhưng John và Linh cũng không thể trả lời hết
các email hay phản hồi tất cả các chủ đề, các đóng góp của các bạn được. Mong rằng vẫn tiếp tục nhận được những sự ủng hộ nhiệt tình từ các bạn để chuyên mục của chúng ta ngày một phát triển.
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại vào tuần sau
Luôn nhìn vào mặt sáng của cuộc sống
Trong tiếng Anh có một số câu hay được dùng để động viên người khác. Có thể là nói trực tiếp theo kiểu “hãy vui
lên” hoặc cũng có thể theo kiểu văn hoa hơn một tí, đi vòng vèo một tí.
John: Hết Tết rồi mà Linh mua hoa đào làm gì thế?
Linh: Hoa đào đẹp mà anh John, một năm chỉ có một mùa.
John: Thấy bảo đào Hà Nội năm nay mất mùa, thế mà cuối cùng cũng không đến nỗi tệ lắm nhỉ.
Linh: Thì cuộc sống lúc nọ lúc kia, cứ lạc quan thì thể nào may mắn cũng đến, nhỉ!
John: Đúng rồi, always look on the bright side of life - luôn nhìn vào mặt sáng của cuộc sống!
Linh: À, đúng rồi, nhân tiện đây, anh John dạy Linh một số cách để khích lệ, an ủi người khác nhé.
John: Đơn giản thôi. Trong tiếng Anh có một số câu hay được dùng để cheer somebody up (động viên ai đó). Có thể là nói trực tiếp theo kiểu “hãy vui lên” hoặc cũng có thể theo kiểu văn hoa hơn một tí,
đi vòng vèo một tí.
Linh: Cụ thể là như thế nào hả anh John?
John: Bình tĩnh nào. Khi thấy ai đó mặt mày “bí xị”, để động viên, đơn giản ta có thể nói Cheer up! (hoặc Chin up!), Lighten up! hay bảo bạn hãy cười lên Smile! Đây là những phương án thân mật và đơn
giản nhất.
John: Khi có những chuyện không hay xảy ra, để an ủi, có thể nói rằng “Chưa phải ngày tận thế đâu” (It's not all doom and gloom! Hay It's not the end of the world!). Trong trường hợp này tiếng Anh có

một câu rất hay đó là Worse things happen at sea với hàm ý rằng “bạn vẫn còn may mắn chán, những người đi biển còn có khả năng gặp phải những điều không hay hơn nữa kìa”.
Tương tự còn có It could be worse, có nghĩa là như vậy vẫn còn may chán. Câu này rất hay được dùng trong giao tiếp.
Linh: Người Việt Nam có câu Trong cái rủi vẫn có cái may, dịch sang tiếng Anh có câu nào tương tự không anh?
John: Để anh nghĩ xem nào… À, có câu Every cloud has a silver lining!
Linh: Để nói rằng cái xấu đã qua đi, ngày mai tươi sáng còn ở trước mặt thì nói thế nào hả anh?
John: Nếu như việc không may đã qua đi, có thể nói We've turned the corner, với ý rằng từ giờ trở đi mọi việc sẽ tốt đẹp. Hoặc cũng có thể nói There's no use crying over spilt milk để nói rằng việc xấu
đã qua đi rồi, không đáng để than khóc, để buồn nữa.
Trong trường hợp chúng ta muốn khích lệ một người bạn đang gặp chuyện khó khăn, chúng ta có thể nói Nothing lasts forever! tức là chuyện gì cũng sẽ qua nhanh thôi. Hay cũng có thể động viên rằng
There's a light at the end of the tunnel - qua cơn mưa trời lại sáng.
Linh: Linh thấy người ta hay nói April showers, có nghĩa là gì hả anh John?
John: April showers là rút gọn của câu April showers bring May flowers. Ở nước Anh, tháng 4 thường có rất nhiều mưa lớn, mưa đá, mưa tuyết… nhưng tháng 5 thì cây cối bắt đầu đơm hoa rất đẹp nên
mới có câu này, ngụ ý rằng khi giông tố qua đi cũng là lúc một sự khởi đầu tốt lành đang đến.
Linh: Nhắc mới nhớ, có một bài hát mà Linh rất thích là bài Always look on the bright side of life. Mỗi khi buồn chán, Linh đều bật bài này lên nghe. Nghe rất “nhộn”, cảm thấy vui vẻ hẳn. Mời các bạn
cùng nghe nhé!
Trò chơi dân gian trong tiếng Anh
Tết này John đã may mắn có thêm nhiều bạn Việt Nam, được các bạn mời đến nhà chơi và được biết thêm rất
nhiều phong tục tập quán của ngày Tết. John cũng biết nhiều trò chơi dân gian ở Việt Nam
John: Chào Linh, chúc mừng năm mới!
Thế là một năm nữa đã qua đi, đáng ra John đã “nhớn” thêm 1 tuổi từ hơn 1 tháng trước rồi, nhưng sống ở Việt Nam phải theo văn hóa của Việt Nam, hơn nữa John cũng thích trẻ nên nhất định đợi đến
Tết “ta” John mới thèm… nhớn thêm 1 tuổi!
John: Tết này John đã may mắn có thêm nhiều bạn Việt Nam, được các bạn mời đến nhà chơi và được biết thêm rất nhiều phong tục tập quán (traditions and customs không biết dịch thế đúng không
nhỉ) của ngày Tết, lại còn được 3 quà tặng lì xì năm mới từ AAC nữa. Thế còn Tết của Linh thì sao?
Linh: Linh thì Tết năm nay cũng như mọi năm khác thôi. À quên mất, năm nay Linh có một kỷ niệm vừa vui vừa buồn. Đấy là hôm mùng 3 Tết, Linh đang về quê thì bị ném đất bẩn hết cả quần áo.
John: Thế thì có gì mà vui?
Linh Ờ thì cũng hơi buồn vì bộ cánh đẹp bị bẩn hết. Nhưng mà vui vì đã lâu lắm rồi Linh mới được thấy lại cảnh chơi pháo đất ầm ĩ và hào hứng như thế. Pháo đất là mud banger đó anh.
John: À, vậy thì bẩn hết cả quần áo rồi. Các trò chơi dân gian ở Việt Nam anh cũng biết nhiều lắm đấy nhé, anh đã từng tới Hội chợ trò chơi dân gian của AAC 2 lần rồi còn gì, anh cũng được xem nhiều
trên tivi nữa.
Flying kite.
Linh Vậy anh John “dạy” Linh mấy trò bằng tiếng Anh nhé, Linh biết không nhiều lắm!
John: “Ok” ngay! Cho trẻ em thì có mấy trò: bamboo jacks, blind man’s buff, cat & mouse game, chanting while sawing wood, spinning tops, Mandarin square capturing, dragon snake…

Linh Linh biết mấy trò mà cả người lớn và trẻ em đều chơi nhé: tug of war, bag jumping, stilt walking, bamboo dancing…
Bamboo dancing.
John: Còn một số trò thì John thấy hơi khó và thấy tính ganh đua cao chỉ thường thấy người lớn chơi như là human chess, flying kite, racing boat, cock fighting, buffalo fighting. À, John cũng đã từng
được xem rice cooking competition rồi đấy!
Linh Vậy là anh John cũng biết khá nhiều trò chơi dân gian của Việt Nam rồi đấy. Bây giờ John & Linh sẽ gợi ý và các bạn độc giả hãy cùng đoán xem các trò chơi dân gian nói trên là gì nhé!

Bamboo jacks: Trò chơi với 10 que tre nhỏ và một vật tròn (quả bóng, quả trứng gà, thậm chí là viên sỏi, cục đất sét) trên nền một số bài đồng dao như: Cái mốt, cái mai; Con trai, con hến; Con nhện
chăng tơ; Quả mơ, quả mận…
Blind man’s buff: Nếu dịch đơn thuần từ tên tiếng Việt sang tiếng Anh thì trò này sẽ là catching a goat while blindfolded.
Cat & mouse game: Trò chơi với nhiều người đứng nắm tay thành vòng tròn, có 2 người đuổi bắt nhau, người chạy là chuột, người đuổi là mèo, mèo phải chạy qua đúng chỗ mà chuột đã chạy.
Chanting while sawing wood: … ông thợ nào khỏe, thì ăn cơm vua, ông thợ nào thua, thì về bú mẹ.
Spinning tops: Cái này thì dễ rồi, là trò “bổ quay”, “chơi quay”, “con quay”…
Mandarin Square Capturing: Vẽ 1 hình chữ nhật to bao gồm 10 hình vuông chia thành 2 hàng mỗi hang 5 ô. 2 đầu hình chữ nhật vẽ 2 nửa vòng tròn. Mỗi nửa vòng tròn đặt 1 viên sỏi to khác màu nhau,
mỗi ô vuông đặt 5 viên sỏi con, mỗi nửa hình chữ nhật có sỏi cùng 1 màu giống màu viên sỏi to…
Dragon snake: Người chơi nắm áo nhau (hoặc bám vào vai, hông) thành 1 hàng dài. Sau khi đọc bài đồng dao đến hết đoạn “Xin khúc đuôi - Tha hồ mà đuổi”, nhân vật thầy thuốc sẽ đuổi và cố bắt cho
được người chơi cuối cùng trong hàng.
Tug of war: Người chơi chia làm 2 phe, nắm vào 2 đầu của sợi dây thừng. Khi có hiệu lệnh, 2 bên cùng kéo xem bên nào thắng.
Bag jumping: Người chơi đứng vào bao tải (túi lớn), tay cầm miệng bao, thi xem ai nhảy về đích trước.
Stilt walking: 2 thanh tre (gỗ) dài được tạo mấu để đứng. Người chơi sẽ đứng lên 2 mấu đó, 2 tay cầm đầu gậy và bước đi trên đó.
Human chess: Cờ tướng với các quân cờ là người thật, chơi trên sân rộng có kẻ ô mô phỏng bàn cờ.
Cock fighting/Buffalo fighting: Chọi gà/trâu.
Trời lạnh, tự dưng John thấy nhớ nhà
Những ngày trời lạnh như thế này, tự dưng John lại thấy nhớ nhà, nhớ được cùng bạn bè gather around the
fireplace, toast our hands and feet in front of the fire, enjoy a mug of coffee…
Linh: Sắp Tết rồi mà vẫn lạnh quá anh John nhỉ. Mùa này ở Anh chắc đang mưa nhiều lắm đúng không anh John? Đợt vừa rồi Hà Nội cũng gần giống nước Anh rồi đấy nhỉ, lạnh ơi là lạnh?
John: Đúng rồi Linh ạ, không những lạnh mà London gần như lúc nào cũng bị bao phủ bởi một màn dense mist.
Linh: Ở Hà Nội lạnh chút chút như vậy mà các cửa hàng quần áo ấm đã bán hàng không xuể. Vậy chứ ở Anh mọi người hay làm gì để cho đỡ lạnh hả anh?
John: Ở Anh có một hệ thống heating system để sưởi ấm. Ra đường thì mọi người luôn bundle up với many layers of clothes, luôn nhớ put on scarf và gloves. Những ngày trời lạnh như thế này, tự
dưng John lại thấy nhớ nhà, nhớ được cùng bạn bè gather around the fireplace, toast our hands and feet in front of the fire, enjoy a mug of coffee…
Linh: Còn ở Việt Nam thì phần lớn đi lại bằng xe máy nên mọi người cũng trang bị cẩn thận lắm anh ạ! Những loại đồ ấm đều được trưng dụng hết công suất: sweater (pullover, jersey, cardigan),

chân thì có stockings, boots, tay thì có mittens, gloves. À, một số người còn đeo cả gauze mask và wool hat để giữ ấm đầu nữa.
John: Đúng vậy, việc giữ ấm là vô cùng quan trọng, không thì rất dễ catch a cold, get a running (runny) nose, sneeze hoặc là have a bad cough…
Linh: Nhưng anh John biết không, theo Linh thì “trang bị” như vậy chỉ là điều kiện cần thôi chứ quan trọng nhất là nên vận động nhiều để cơ thể tự sinh ra nhiệt. Đó mới chính là cách tốt nhất để giữ ấm
và tránh bệnh trong mùa đông.
John: Ừ, phải đấy. Running, jogging hay walking đều tốt cả.Nếu có điều kiện hơn thì chúng ta nên đến tập tại fitness center (gym) để có một sức khỏe tốt, có thể thích nghi tốt hơn với thời tiết và môi
trường. Vào mùa lạnh, các chị các cô còn hay take a sauna, hay go to some hot spring để thư giãn và tránh rét nữa.
Cảm nhận của John về Tết Việt Nam
Hôm nay, John chia sẻ cảm nhận về Tết “ta” dưới góc nhìn của một người không sinh ra và lớn lên ở Việt Nam…
Tết “ta” sắp đến, một năm nữa sắp đi qua. Đối với John thì năm cũ đã qua được gần 1 tháng rồi nhưng dường như cảm giác háo hức đón chờ cái Tết một lần nữa lại quay trở lại khi không khí chuẩn bị
cho Tết Nguyên Đán của Việt Nam đang nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Đi đến đâu John cũng nghe thấy câu “chỉ còn hơn 10 ngày nữa là Tết rồi!” hay “Tết đến nơi rồi!”.
Hôm nay, John xin chia sẻ cảm nhận về Tết “ta” dưới góc nhìn của một người không sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Tiếng Việt của John chưa giỏi lắm nên có nhiều từ còn chưa biết đã dịch đúng chưa
nên vẫn để nguyên cả tiếng Anh, các bạn kiểm tra giúp John nhé.
Ấn tượng đầu tiên của John về Tết “ta” là khi John về quê một người bạn và thấy người ta set up a pole at the front of the house với rất nhiều joss paper và amulet treo trên ngọn, hỏi ra mới biết đó là
Tet pole (Lunar New Year Pole).
Khi về đến Hà Nội thì John lại rất ngạc nhiên khi thấy mọi người buy carp and then go to the lakes to set them free. Thì ra đó là để cho the Kitchen God, he rides the carp to fly back to heaven.
Để đón chào một năm mới, mọi người thường dọn dẹp, sửa sang nhà cửa cho sạch đẹp, sắm đồ đạc và quần áo mới cũng như chuẩn bị đồ ăn, thức uống đặc trưng của Tết. Một số thứ không thể thiếu
đó là sugar - preserved fruits, square glutinous rice cake, pickled onion, peach-blossom (ở miền Bắc), ochna (ở miền Nam), kumquat tree, paperwhite flower… Một số gia đình còn treo Dong
Ho painting hay calligraphy picture.
On New Year’s Eve, John thấy gia đình cũng rất trang trọng perform a ritual offering to their ancestors, để mời họ về “ăn Tết” với gia đình?
Trước đây, một năm mới được chào đón bởi những tiếng nổ giòn dã của fire-cracker. Bây giờ, thay vào đó chỉ còn là fireworks (vì fire-cracker đã bị cấm).
Người Việt Nam tin rằng the first visitor - the first caller - sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của cả gia đình trong năm mới (chính vì vậy mà John thường không dám tự ý đến chơi nhà ai vào mùng 1 Tết
cả). Người ta thường chọn một người with matching age and fate with the host’s to be the first caller. Nếu không chọn được người đó thì tự người chủ nhà sẽ make the departure of the New Year
và sau đó sẽ quay về nhà như là the first visitor.
Năm mới John thích nhất là được nhận Lucky money (lì xì) và rất thích go to the Temple of Literature to see old scholars compose parallel sentences. Nhắc đến mới nhớ, người Việt Nam có một
phong tục rất hay là Khai bút đầu xuân (begin a new-year writing) với mong muốn có một năm mới “công thành danh toại”. Với ý nghĩa này, Tập đoàn Ngôn ngữ và Kỹ năng AAC cũng tổ chức một
chương trình Khai bút đầu xuân, các bạn có thể tham khảo.

×