Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

chính trị và hệ thống kế toán thuế ở đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.93 KB, 7 trang )

ĐẶC ĐIỂM CHÍNH TRỊ ẢNH HƯỞNG TỚI
HỆ THỐNG KẾ TOÁN ĐỨC
I) Hệ thống chính trị, môi trường xã hội ảnh hưởng tới hệ thống kế
toán thuế của Đức.
Nhắc tới người Đức chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ tới những con người lạnh lùng,
khó tính, khó gần, kỷ luật cao và cực kỳ đúng giờ. Nếu bạn làm việc lười biếng
đồng nghiệp sẽ nhắc nhở ngay hay khi gặp mặt ngoài đườn họ sẽ nhìn bạn theo
kiểu “không quen biết” nên có thể nói rằng bản chất của Đức khá “hướng nội” và
bốc đồng. Chính bản chất về con người như vậy nên nó đã ảnh hưởng tới hệ thống
kế toán tài chính cũng như kế toán thuế, rất nhiều học giả cho rằng hệ thống kế
toán Đức trước đây “đóng” không “mở”, không hòa nhập với quốc tế. Điều này,
cũng thể hiện trong việc lựa chọn và trình bày các khoản mục tài sản, nguồn vốn
trên BCTC của Công ty Đức. Qua tìm hiểu, người Đức thường lựa chọn việc trình
bày tài sản theo thứ tự: Tài sản cố định (dài hạn) trước sau đó đến tài sản ngắn hạn.
Với quan điểm, tài sản nào quan trọng, tạo ra lợi ích lâu dài, giá trị cho doanh
nghiệp sẽ được trình bày trước.
Bản chất của hệ thống chính trị và môi trường xã hội: Ở Đức có luật dân sự kiểu
La Mã (đối lập với luật thông thường được áp dụng ở Anh và Mỹ). Luật dân sự
hay còn gọi là luật dạng Đức-La Mã do đại đế của La Mã là Justinian soạn thảo
vào thế kỷ VI và được các trường đại học của châu Âu phát triển từ thế kỷ thứ XII.
Đặc điểm của Bộ Dân luật Đức là căn cứ sít sao theo bộ luật La Mã Corpus Juris
Civilis về tinh thần cũng như cách sắp xếp. Văn phong của Bộ Luật Đức có ưu
điểm là chính xác và kỹ thuật. Họ cũng sáng chế ra nhiều thuật ngữ đặc biệt về
pháp lý để sử dụng trong luật. Mỗi khái niệm pháp lý đều được định nghĩa và dùng
một cách nhất quán trong suốt Bộ luật. Về kỹ thuật lập pháp, nhà làm luật luôn
luôn dùng cách tham chiếu lẫn nhau giữa các điều nên giúp cho bộ luật trở thành
ngắn gọn, và là một thể thống nhất, hợp lý. Khác với bộ Dân luật Pháp muốn trở
thành một quyển cẩm nang pháp luật cho mọi người, bộ Dân luật Đức được soạn
thảo theo tinh thần sách chuyên dùng cho giới chuyên môn. Những nguyên tắc của
nó liên quan đến những ý tưởng về sự công bằng và giá trị đạo đức. Đặc điểm trên
đây của luật dân sự đã ảnh hưởng đến luật công ty và luật thương mại, những luật


này quy định một cách chi tiết, cụ thể cho những quy định cụ thể về kế toán và cáo
báo cáo tài chính. Chẳng hạn như ở Đức, kế toán là một bộ phận của luật công ty.
Ảnh hưởng của sự phát triển của các tổ chức nghề nghiệp có bề dày lịch sử.
Chẳng hạn, ở Anh khái niệm “quan điểm về trung thực và công bằng” của BCTC
phụ thuộc lớn vào sự phán quyết của kế toán viên- được coi như là một nghề độc
lập. Những thông tin không thuộc phạm vi thông tin kế toán được xem xét yêu
cầu và quy định cụ thể ở những luật khác. Ngược lại, ở Đức và Pháp, vai trò của
các kế toán trước hết là việc thực hiện những yêu cầu có tính chất pháp lý cụ thể;
như thế, ở những nước này, các tổ chức nghề nghiệp kế toán được kiểm soát theo
luật pháp chung hơn là những quy định riêng của nghề nghiệp.
II) Hệ thống kế toán và kế toán thuế của nước Đức.
Tại Đức thì những quy định về thuế được quy định trùng với các quy định về kế
toán. Trong khi đó, ở nước này không có bộ luật dành riêng cho kế toán mà những
quy định về kế toán lại nằm trong luật công ty nên chúng ta có thê thấy rằng những
quy định về thuế nằm trong luật công ty.
Khi xem xét sự phát triển của hệ thống kế toán Đức, có thể tạm chia thành hai
giai đoạn ( trước năm 1993, sau năm 1993-đến nay). Thời gian sau năm 1993, có
một số mốc quan trọng như năm 1998, 2005, 2009.
Năm 1993 trở về trước, hệ thống kế toán Đức trình bày và cung cấp thông tin kế
toán dựa trên việc áp dụng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận tại Đức (GAAP
Đức). Từ sau năm 1993- đến nay, hệ thống kế toán của Đức bắt đầu có sự thay đổi,
bên cạnh việc thực hiện theo GAAP Đức, Các công ty Đức được phéplựa chọn áp
dụng chuẩn mực kế toán quốc tế hoặc GAAP Mỹ cho việc trình bày và công bố
thông tin kế toán. Năm 2005, Đức đã chấp nhận các chuẩn mực kế toán quốc tế
như một quy tắc bắt buộc trong việc trình bày và cung cấp thông tin kế toán của
mình. Năm 2009, đã quy định việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự thay đổi trên được đánh giá là sự chuyển biến vượt
bậc trong quy định kế toán cũng như trong suy nghĩ của người Đức.
Các quy định về hệ thống kế toán của Đức không được xây dựng thành một
Bộ luật riêng biệt, nó là một bộ phận của Luật Công ty và Luật thương mại. Chế độ

kế toán Đức nói chung được quy định trong các Đức Thương mại Mã
('Handelsgesetzbuch' - HGB), áp dụng cho tất cả các hình thức pháp lý kinh tế như
các công ty, các quan hệ đối tác.
Các học giả trên thế giới, khi nghiên cứu về hệ thống kế toán Đức cho rằng:
+Hệ thống kế toán của Đức không cung cấp nhiều thông tin như hệ thống kế toán
theo trường phái Anglo-Saxon.
+Hệ thống kế toán rất bảo thủ, bị ảnh hưởng nặng bởi chiến lược chốn thuế và
không chi tiết.
+Bị chi phối với nguyên tắc thận trọng và Bảo vệ chủ nợ.
*) Hệ thống các tổ chức kê toán tại Đức.
ASCG - Đại hội đồng
Thành viên: các công ty và các hiệp hội
Bầu chọn, loại bỏ và chấp thuận các hoạt động của các thành viên của Hội đồng quản trị hành chính và Ủy ban đề cử
Sửa đổi hiến pháp, lệ phí hàng năm kế hoạch kinh doanh
ASCG - Hội đồng Quản trị hành chính
20 thành viên danh dự; đại diện của 5 phân khúc (các công ty công nghiệp, các công ty vừa và nhỏ, các ngân
hàng, các hãng bảo hiểm, các kiểm toán viên)
Các nguyên tắc và hướng dẫn cho công việc của Hiệp hội và đặc biệt là của Ủy ban Kĩ thuật và Ủy ban Điều
hành
Bầu chọn và bổ nhiệm các thành viên của Ủy ban Kỹ thuật và Ủy ban Điều hành
ASCG - Ủy ban Điều hành
2 thành viên thường trực (kế toán viên), chủ tịch và phó chủ tịch
Đại diện pháp lý của Hiệp hội theo mục 26 của BGB
Chủ trì Ủy ban Kỹ thuật nhưng không có quyền biểu quyết
Ủy ban IFRS
7 thành viên (các kế toán viên từ tất cả các phân khúc), tình trạng truy
cập của F.M.J.
IFRS
Gửi thư bình luận tới IASB/IFRSIC/EFRAG
Cung cấp tư vấn cho F.M.J. trên chỉ thị của IFRS và châu Âu.

Ủy ban GAAP Đức
7 thành viên (các kế toán viên từ tất cả các phân khúc), tình
trạng truy cập của F.M.J.
GAS
Gửi thư bình luận tới EU/F.M.J./EFRAG
Cung cấp tư vấn cho F.M.J. trong pháp luật Đức và chỉ thị châu
Âu
Ban Cố vấn Hàn lâm
Tư vấn cho Ủy ban Kỹ thuật
Ủy ban Đề cử
7 thành viên từ tất cả các phân khúc
Quyền độc quyền đề nghị cho cuộc bầu cử của các thành viên
của Ủy ban Điều hành và Ủy ban Kỹ thuật
Chú thích: : Bầu cử.
: Trách nhiệm.
: Hợp tác.
: Khuyên/ cố vấn.
*) Các tiêu chuẩn kế toán
Các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận của Đức (German GAAP) là các chuẩn
mực kế toán dựa trên nguyên tắc. Chúng bao gồm các nguyên tắc cơ bản, đó là các
nguyên tắc của sổ sách kế toán riêng, GoB, được hệ thống hóa hoặc không hệ thống hóa.
Nguồn cho hệ thống GoB và phần lớn các chuẩn mực kế toán là mã thương mại của
Đức (HGB).
Là kết quả của việc thiếu các yêu cầu pháp lý chi tiết về các vấn đề kế toán cụ thể, tài
liệu bổ sung và các quyết định của tòa án giải thích các vấn đề kế toán về cơ bản đã trở
thành một phần của hệ thống kế toán Đức. Các tiêu chuẩn GAAP của Đức đã phát triển
theo thời gian và được điều chỉnh dần dần với những thay đổi trong môi trường kế toán.
Các báo cáo tài chính theo tiêu chuẩn GAAP của Đức không chỉ được chuẩn bị để
cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Chúng còn có chức năng là cơ sở để xác định
phần lợi nhuận được chia, phục vụ cho việc bảo vệ các chủ nợ của công ty.

Việc bảo vệ các chủ nợ là mục tiêu chủ yếu ở Đức. Kết quả là, các tiêu chuẩn GAAP
của Đức tập trung vào việc bảo toàn nguồn vốn vì các chủ nợ chủ yếu quan tâm đến phần
vốn còn lại trong công ty để xây dựng và tăng cường khả năng trả nợ khi đáo hạn.
Từ khi mục tiêu bảo toàn vốn được các chủ nợ theo đuổi, các tiêu chuẩn GAAP của
Đức bao gồm nhiều nguyên tắc, cùng nhau tạo thành một hệ thống kế toán thận trọng.
Một nét đặc trưng quan trọng của hệ thống này là "nguyên tắc chênh lệch", được chia
thành:
• Nguyên tắc thực hiện
• Nguyên tắc dự đoán thiệt hại (tổn thất, thua lỗ)
Staff
Hỗ trợ của Ủy ban Kỹ thuật và các nhóm làm việc
Nguyên tắc thực hiện đảm bảo rằng chỉ có lợi nhuận thực hiện được mới được công
nhận là lợi nhuận.
Nguyên tắc dự đoán tổn thất yêu cầu tính toán cho phần lỗ chưa thực hiện.
Ví dụ: Tài sản có giá 1 triệu bảng đã tăng giá theo thời quan (giá trị hợp lý là 2 triệu
bảng) vẫn được đánh giá theo giá ghi trong bảng cân đối kế toán.
Nếu giá trị giảm (0,5 triệu), tài sản đó sẽ được làm giảm và phải được ghi nhận vào
bảng cân đối kế toán với giá trị thấp hơn, với các khoản giảm giá được ghi nhận vào
phần lợi nhuận và tổn thất.
Kết quả là, sự tăng và giảm giá trị được xử lý khác nhau theo tiêu chuẩn GAAP
của Đức, tuân theo nguyên tắc nghiêm ngặt "giá thấp hơn giữa giá trị và giá thị
trường".
Nhìn vào tiêu chuẩn GAAP của Đức từ quan điểm kế toán quốc tế, chúng không
được phổ biến một phần là do những đặc trưng dưới đây của tiêu chuẩn GAAP của
Đức:
Quá định hướng theo chủ nợ và do đó nhấn mạnh quá nhiều vào nguyên tắc thận
trọng
Kế toán thuế ảnh hưởng đến kế toán thương mại và bóp méo các mục tiêu của
bảng cân đối thương mại.
Hệ thống kế toán rất bảo thủ, bị ảnh hưởng nặng bởi chiến lược chốn thuế,

không chi tiết. Việc trình bày và cung cấp thông tin trên BCTC ở Đức bị ảnh
hưởng bởi Luật thương mại và Luật thuế. Các BCTC được sử dụng như là một căn
cứ cho việc xác định trách nhiệm thuế mà các doanh nghiệp phải trả. Cho nên rất
nhiều thông tin không được công bố rộng rãi.
Vấn đề thuế hoãn lại-nguyên nhân về sự chênh lệch thời gian giữa cách xử lý
theo chính sách thuế và phương pháp kế toán. Ở Anh và ở Mỹ, nơi mà kế toán
thuế và kế toán tài chính tách biệt, vấn đề thuế hoãn lại đã tạo nên nhiều tranh cãi
và đó là một con số lớn đáng kể trong các tài liệu kế toán. Tuy nhiên, ở Đức vấn
đề thuế hoãn lại không tồn tại vì ở nước này, những quy định về thuế trùng hợp
với những quy định về kế toán.
Từ những vấn đề về hệ thống kế toán nói chung của Đức chúng ta có thể
thấy rằng, hệ thống kế toán thuế của Đức cũng gồm những đặc điểm: bảo thủ,
luôn bị ảnh hưởng bởi chiến lược trốn thuế. Do những quy định về việc công khai
thông tin trên BCTC được luật quy định như luật công ty hay luật thương mại. kế
toán thuế ở nước này thì ảnh hưởng tới kế toán thương mại và bóp méo bảng cân
đối kế toán. Tuy nhiên, nhà làm luật luôn luôn dùng cách tham chiếu lẫn nhau
giữa các điều luật nên giúp cho các quy định về các loại thuế trở thành ngắn gọn,
và là một thể thống nhất, hợp lý nhất giúp ích nhất cho công việc kế toán.

*) Các vụ bê bối kế toán tại Đức.
Arcandor AG (2009)
Giám đốc điều hành Thomas Middelhoff đã nhận một khoản tiền trị giá 2.3 triệu
eurro (~3.1 tỷ USD) trước khi ông này rời khỏi công ty và 6 tháng trước khi công
ty đệ đơn xin phá sản.
Các CTV nghi ngờ có gian lận, vì ông này và vợ nắm giữ cổ phần của 1 quỹ đầu tư
đã mua bất động sản từ Arcandor, và bị cáo buộc đã cho Arcandor thuê lại với chi
phí thuê cao bất thường.
Schlecker (2012)
Thành lập năm 1975, sau đó trở thành chuỗi của hàng thuốc lớn nhất châu Âu.
2010: thông báo đóng cửa 500 cửa hàng vì "vấn đề kinh doanh"

1/2012: đệ đơn xin phá sản
Các chủ nợ và nhà đầu tư không đưa ra được thỏa thuận về công ty. Thất bại trong
việc tìm kiếm nhà đầu tư mua phần còn lại của công ty => phá sản do nợ nần .

×