Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Báo cáo nghiên cứu Ý nghĩa văn học sử của tiểu thuyết truyền kỳ Hàn - Trung - Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.86 KB, 15 trang )

Báo cáo nghiên cứu:
Ý nghĩa văn học sử của tiểu thuyết truyền kỳ Hàn - Trung -
Việt
1. Mở đầu
Sự thực Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc chịu ảnh hưởng Tiễn đăng tân thoại Trung Quốc từ
khi được công nhận đã trở thành đối tượng quan trọng trong việc nghiên cứu so sánh tiểu thuyết
truyền kỳ Hàn - Trung hoặc Hàn - Trung – Nhật(1). Thế nhưng, Truyền kỳ mạn lục(2) của Việt
Nam cũng được đề cập là chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại và ngay trong lời Tựa của
Truyền kỳ mạn lục cũng ghi: "Xem văn từ thì không ngoài phên dậu của Tông Cát"(3), vì thế, có
thể xác nhận được sự thực ấy.

Kim Ngao tân thoại hay Truyền kỳ mạn lục cùng chung một đặc điểm là chịu ảnh hưởng từng tác
phẩm của một nước thứ ba, và đều được coi là hai tác phẩm truyền kỳ đầu tiên của thể loại
truyền kỳ trong văn học sử của hai nước Hàn Quốc và Việt Nam. Bởi vậy, ở bài viết này, trên cơ
sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu từ trước đến nay, dưới góc độ so sánh tiểu thuyết ba
nước Hàn – Trung – Việt, đặc biệt là thông qua Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam, tôi muốn xem
xét lại ý nghĩa văn học sử của ba tác phẩm.

Nhưng ta có thể thấy Kim Ngao tân thoại và Truyền kỳ mạn lục chỉ chịu ảnh hưởng một chiều
của Tiễn đăng tân thoại mà không tìm thấy ghi chép nào nói về mối quan hệ cho - nhận, ảnh
hưởng qua lại
(4)
. Bởi vậy, Kim Ngao tân thoại và Truyền kỳ mạn lục được sáng tác trên những
vùng thổ nhưỡng khác nhau, nên thay vì đi tìm những điểm giống nhau để so sánh từng truyện
trong tác phẩm và luận bàn về sự sáng tạo hay mô phỏng, tôi muốn nhìn nhận cả hai tác phẩm
trong một tổng thể hoàn chỉnh để so sánh tác phẩm với tác phẩm. Lý do nêu ra như vậy là vì, khi
đối chiếu thực tế các truyện trong ba tác phẩm Kim Ngao tân thoại, Truyền kỳ mạn lục, Tiễn
đăng tân thoại, ta thấy mô típ chung là các truyện của Kim Ngao tân thoại và Truyền kỳ mạn lục
chịu ảnh hưởng có tính chất phức hợp của Tiễn đăng tân thoại nhưng cũng thấy rất nhiều phần
sáng tạo không thể bỏ qua. Bởi vậy, trong bài viết này, có thể thấy nhiều điểm khác biệt về số
lượng các truyện của Kim Ngao tân thoại với Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục nhưng


đây cũng là đặc trưng của Kim Ngao tân thoại, chính vì thế, tôi sẽ so sánh cả ba tác phẩm, lấy
tiêu điểm là yếu tố truyền kỳ, một đặc điểm của thể loại truyền kỳ mà ta có thể thấy được ở trong
cả ba tác phẩm.

Phương pháp so sánh là theo phương pháp phân loại truyện truyền kỳ đời Đường
(5)
, chia theo loại
hình chung là loại diễm tình, loại kỳ quái và loại biệt truyện rồi lựa chọn phương pháp phân tích
so sánh, tìm ra điểm giống nhau, khác nhau của loại hình để rồi rút ra kết quả so sánh nội dung
của từng truyện trong ba tác phẩm. Tiêu chuẩn phân loại là dựa vào khái niệm của tiểu thuyết
diễm tình – loại tiểu thuyết miêu tả sự ly hợp trong tình yêu nam nữ, khái niệm của tiểu thuyết kỳ
quái – miêu tả sự vật trong bối cảnh thế giới khác và khái niệm của loại hình "biệt truyện" – loại
hình tiểu thuyết hoá dật sự đối với nhân vật đặc biệt. Có điều là, Kim Ngao tân thoại không có
loại biệt truyện nên không được so sánh trong bài viết này. Tài liệu cơ bản là Kim Ngao tân
thoại; NXB Ất Dậu; tác giả là Kim Thời Tập, Lý Tái Hạo dịch, Tiễn đăng tân thoại. Toàn tập
văn học thế giới, 62, NXB Ất Dậu; tác giả Cù Hựu, Lý Khánh Thiện dịch; Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ; Học viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp xuất bản, Đài loan học sinh thư cục ấn hành…

2. So sánh loại hình của Kim Ngao tân thoại - Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn lục

1. Loại diễm tình

Như đã nêu ở phần lời Tựa, trên cơ sở tham khảo phương pháp phân loại của truyền kỳ đời
Đường, trước hết, ta hãy so sánh số lượng truyện loại diễm tình viết về tình yêu ly-hợp của các
nam nữ nhân vật chính. Kim Ngao tân thoại (sau đây viết tắt là Kim Ngao) có 5 truyện, trong đó
có 2 truyện loại diễm tình
(6)
là Vạn Phúc tự hu bồ ký và Lý Sinh khuy tường truyện; Tiễn đăng
tân thoại (sau đây viết tắt là Tiễn đăng) có 21 truyện (gồm thêm một truyện phụ lục) trong đó có
8 truyện loại diễm tình (Vị Đường kỳ ngộ ký, Liên Phương lâu ký, Thu Hương đình ký, Thúy

Thúy truyện, Ái Khanh truyện, Kim Phượng thoa ký, Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên ký, Lục y
nhân truyện); Truyền kỳ mạn lục (sau đây viết tắt là Truyền kỳ) tổng cộng có 20 truyện, trong đó
có 5 truyện loại diễm tình (Thúy tiêu truyện, Lệ nương truyện, Tây viên kỳ ngộ ký, Khoái Châu
nghĩa phụ truyện, Nam Xương nữ tử lục)
(7)
.

Nếu tìm điểm chung để so sánh một cách có hiệu quả các truyện loại diễm tình của ba tác phẩm
thì theo các tình huống cuộc gặp nam nữ nhân vật chính, ta có thể chia làm ba trường hợp sau:
Một là, chùm truyện viết về sự ly-hợp của nam nữ ở thế giới hiện thực.
Hai là, chùm truyện viết về sự ly-hợp của nam nữ ở thế giới hiện thực rồi chuyển sang thế giới
phi hiện thực.

Ba là, chùm truyện viết về sự ly-hợp của nam và nữ hồn ma cùng ở thế giới hiện thực và phi hiện
thực.

Bảng so sánh loại diễm tình

Tác phẩm
Diên mạo
cuộc gặp
Kim Ngao Tiễn đăng Truyền kỳ
1 Nam + Nữ
Vị Đường kỳ
ngộ ký
Thu Hương đình

Liên Phương lầu

Thuý Tiêu truyện.

Khoái Châu nghĩa
phụ truyện.
Nam Xương nữ tử
lục
2
Nam +
Nữ
Nam + Nữ
hồn ma
Lý Sinh khuy
tường truyện
Ái Khanh
truyện.
Kim Phượng
thoa ký
Lệ Nương truyện.
Nam hồn ma
+ Nữ hồn ma

Thuý Thuý
truyện.

3 Nam + Nữ hồn ma
Vạn Phúc tự
hu bồ ký
Đằng Mục tuý
du Tụ Cảnh viên
ký.
Lục y nhân
truyện.

Tây viên kỳ ngộ
ký.
Khi xem xét bảng trên, ta thấy Kim Ngao có loại hình (2) (3). Tiễn đăng và Truyền kỳ đều có (1)
(2) (3). Nếu Kim Ngao và Truyền kỳ chịu ảnh hưởng Tiễn đăng thì Truyền kỳ cũng có loại hình
(1) nhưng Kim Ngao không có (1). Đây là điểm có thể thấy rõ là đặc điểm riêng của Kim Ngao.
Ở đây, ta có thể thấy loại hình (1), điểm chung của Tiễn đăng và Truyền kỳ thuộc loại diễm tình
mà bỏ đi yếu tố truyền kỳ
(8)
, nhưng Truyền kỳ có hai truyện
(9)
kết hợp giữa loại diễm tình với loại
truyện ký (nhân vật lịch sử) nên có điểm khác với Tiễn đăng. Loại hình (2) và (3) là loại hình kết
hợp yếu tố giữa truyền kỳ với diễm tình và cũng là điểm chung của Tiễn đăng, Kim Ngao,
Truyền kỳ. Như vậy, Tiễn đăng và Truyền kỳ có một phần mô típ của tiểu thuyết diễm tình,
ngược lại, Vạn Phúc tự hu bồ ký và Lý Sinh khuy tường truyện của Kim Ngao thuộc về loại tiểu
thuyết truyền kỳ diễm tình điển hình. Do đó, ta có thể đặt nghi vấn là Kim Ngao thuộc về loại
tiểu thuyết truyền kỳ có mô típ diễm tình mà chưa thể hiện thể loại tiểu thuyết diễm tình, nếu
không thì bỏ đi loại hình (1) (tiểu thuyết diễm tình) không phù hợp với ý đồ sáng tác của tác giả
Kim Thời Tập, tức cốt truyện tình yêu nam nữ ở thế giới hiện thực.
Ở đây, ta lấy loại hình (2) (3) làm đối tượng so sánh, sau đó, thông qua bối cảnh không gian hiện
thực và phi hiện thực cùng với mô típ “người và hồn ma giao hoan” được coi là đặc điểm nổi bật
nhất trong yếu tố truyền kỳ.

1) Lý Sinh khuy tường truyện (Kim Ngao) - Nhị Khanh truyện, Kim Phượng thoa ký (Tiễn đăng)
- Lệ Nương truyện (Truyền kỳ)

2) Vạn Phúc tự hu bồ ký (Kim Ngao) - Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên ký, Lục y nhân truyện
(Tiễn đăng)- Tây viên kỳ ngộ ký (Truyền kỳ)

Bởi vì Kim Ngao không có loại hình (1) và trong loại hình (2), Thúy Thúy truyện của Tiễn đăng

khác với Kim Ngao và Truyền kỳ nên không bàn tới.

Trước hết, ta xem xét động cơ xây dựng mô típ “người và hồn ma giao hoan” trong ba tác phẩm
thì có thể phỏng đoán được ý đồ sáng tác của tác giả. Từ đó, ta chia ra làm hai phần là nguyên
nhân biến thành nữ hồn ma và quan hệ giữa người và hồn ma, tìm điểm giống nhau và khác nhau
giữa các tác phẩm. Để tiện so sánh, ta có thể tham khảo bảng sau:

Tác phẩm
Kim Ngao
tân thoại
Tiễn đăng
tân thoại
Truyền kỳ
mạn lục
Nguyên nhân
biến thành nữ
hồn ma
Quan hệ
giữa người
với hồn ma
Trinh tiết
Vợ chồng
Lý Sinh khuy
tường truyện
Ái Khanh truyện

Đính hôn
Lệ Nương
truyện
Chưa kết hôn

Vạn Phúc tự hu
bồ ký

Bệnh tương tư Đính hôn
Kim Phượng thoa


Nhân duyên
dang dở
Nhân duyên
kiếp trước
Đằng Mục tuý du
Tụ Cảnh viên ký
Lục y nhân truyện

Tình cảm
dan díu
Hoa yêu mộc
quái
Tây viên kỳ
ngộ ký

Xem ở cột so sánh quan hệ người và hồn ma, ta có thể thấy Tiễn đăng có quan hệ người và hồn
ma đa dạng như vợ chồng, đính hôn (nguyên nhân bệnh tương tư), nhân duyên kiếp trước, còn
Kim Ngao thì có quan hệ vợ chồng, trai chưa kết hôn và nữ hồn ma chưa kết hôn, Truyền kỳ thì
có quan hệ đính hôn (nguyên nhân trinh tiết) và tình cảm của hoa yêu mộc quái. Vì thế, Tiễn
đăng miêu tả quan hệ của nhân vật đa dạng theo loại tiểu thuyết truyền kỳ, còn Kim Ngao và
Truyền kỳ có quan hệ nhân vật tỏ rõ tín ngưỡng bản địa riêng biệt tức Kim Ngao miêu tả nữ hồn
ma chưa kết hôn, Truyền kỳ miêu tả tình cảm của hoa yêu mộc quái. Nhưng ta có thể thấy điểm
khác nhau như đã nêu ở bảng trên là chứng cứ rõ rệt của tính sáng tạo của Kim Ngao và Truyền

kỳ. Nếu so sánh theo cột nguyên nhân biến thành nữ hồn ma, ta thấy tác giả xây dựng các nhân
vật hồn ma không kết duyên được ở thế giới hiện thực mà giữ gìn trinh tiết hoặc mắc bệnh tương
tư (ở Tiễn đăng); xây dựng nhân vật hồn ma giữ trinh tiết và tình cảm của hoa yêu mộc quái (ở
Truyền kỳ) và xây dựng nhân vật giữ trinh tiết trong lúc loạn lạc (ở Kim Ngao).

Vì thế, thông qua so sánh nguyên nhân biến thành hồn ma và quan hệ giữa người và hồn ma, ta
có thể thấy Tiễn đăng đã miêu tả tình yêu thông qua các nữ hồn ma có thân phận khác nhau nên
đã gây hứng thú cho độc giả. Ở Truyền kỳ, trong truyện Lệ Nương, ý niệm “trinh tiết” thể hiện
lòng trung thành và thăng hoa thành ý chí bảo vệ tổ quốc; truyện Tây viên kỳ ngộ ký có nguyên
nhân tình cảm của hoa yêu mộc quái nên ta có thể đoán được ý đồ sáng tác của tác giả theo bối
cảnh lịch sử Việt Nam và đồng thời cũng biểu lộ rõ yếu tố tín ngưỡng bản địa. Ở Kim Ngao, tác
giả đã thể hiện ý niệm giữ gìn trinh tiết đến mức phải chết và hy vọng muốn nối lại nhân duyên
dang dở và xây dựng mối nhân duyên mới hòa quyện với nhau nên ta có thể thấy ý đồ sáng tác
của tác giả Kim Ngao là nổi bật nhất trong ba tác phẩm.

Dưới đây, để xem xét bối cảnh không gian của thế giới hiện thực và phi hiện thực, ta hãy so sánh
bối cảnh không gian và thời gian xây dựng “người và hồn ma giao hoan” trong các truyện miêu
tả nhân vật nam giao hoan với nữ hồn ma như quan hệ vợ chồng hay đã đính hôn. Đó là Lý Sinh
của Kim Ngao, Ái Khanh và Kim Phượng của Tiễn đăng, Lệ Nương của Truyền kỳ. Trong đó, các
truyện nói tới nguyên nhân biến thành nữ hồn ma do muốn giữ gìn trinh tiết là các truyện Lý
Sinh, Ái Khanh, Lệ Nương. So sánh thời gian người và hồn ma giao hoan trong ba tác phẩm như
bảng sau:
Bảng so sánh bối cảnh không gian, thời gian người và hồn ma giao hoan

Bối cảnh
không gian
Bối cảnh
thời gian
Tác phẩm
Kim Ngao Tiễn đăng Truyền kỳ

Thế giới
phi hiện
thực
Một ngày
Ái Khanh
truyện
Lệ Nương
truyện
Dưới 10 ngày
Vạn Phúc tự hu
bồ ký
Đằng Mục túy du Tụ
Cảnh viên ký

Một tháng rưỡi

Kim Phượng thoa ký
Lục y nhân truyện

Mấy tháng
Tây viên
kỳ ngộ ký
Thế giới
hiện thực
Một năm
Kim Phượng
thoa ký

3 năm
Đằng Mục túy du Tụ

Cảnh viên ký
Lục y nhân truyện

Vài ba năm
Lý Sinh khuy
tường truyện


Căn cứ vào bảng trên ta thấy Ái Khanh, Lệ Nương có bối cảnh không gian là thế giới phi hiện
thực (được xây dựng trên cơ sở không gian mà ngoài nam nhân vật chính ra, người khác không
thể nhìn thấy được) và bối cảnh thời gian là một ngày, còn Lý Sinh có bối cảnh không gian là thế
giới hiện thực và thời gian là vài ba năm, qua đó thấy rõ điểm khác biệt của Kim Ngao. Các
truyện miêu tả nhân vật nam giao hoan với nữ hồn ma lần đầu là Vạn Phúc, Đằng Mục, Lục y,
Tây viên nhưng vì Tây viên miêu tả nữ hồn ma hóa thân vào hoa nên không bàn tới mà chỉ so
sánh Vạn Phúc, Đằng Mục và Lục y.

Vạn Phúc viết về nhân vật nam và nữ hồn ma gặp gỡ giao hoan trong thời gian một ngày ở hành
lang ngôi chùa, 3 ngày ở nhà mồ của nữ hồn ma. Khi phải ly biệt, họ còn gặp gỡ một ngày ở
trong màn trướng trong chùa nhưng 3 ngày ở nhà mồ hồn ma bằng thời gian 3 năm ở thế giới
hiện thực. Hai ngày họ gặp nhau ở chùa cũng được miêu tả là người khác không thể nhìn thấy
bóng dáng nữ hồn ma mà chỉ nghe thấy tiếng. Lại nữa, câu chuyện đã xây dựng mô típ xác nhận
ở thế giới hiện thực nữ hồn ma trao tín vật cho nhân vật nam, cho nên sự miêu tả ở đoạn trên
không có ranh giới rõ ràng về nhân vật, không gian, thời gian của thế giới hiện thực và phi hiện
thực. Nhưng Đằng Mục và Lục y, sau khi đã xây dựng nhân vật hồn ma gặp người ở không gian
phi hiện thực và trong thời gian khoảng từ 10 ngày đến một tháng rưỡi thì mới xây dựng tình tiết
người và hồn ma sống với nhau 3 năm ở thế giới hiện thực. Vì thế, Lý Sinh và Vạn Phúc của Kim
Ngao xây dựng nhân vật nữ hồn ma nhưng cốt truyện cấu tạo ở thế giới hiện thực. Ngược lại, Ái
Khanh, Đằng Mục, Kim Phượng, Lục y của Tiễn đăng và Lệ Nương, Tây viên của Truyền kỳ thì
có ranh giới rõ rệt giữa yếu tố hiện thực và phi hiện thực về mặt nhân vật và bối cảnh không
gian, hơn nữa, thời điểm gặp gỡ còn được miêu tả rõ ràng hơn.


Để xác nhận chứng cứ cho phần trên, ta còn phải xem xét quá trình ly hợp giữa người và hồn ma,
tức là cần phải xem xét hơn nữa quá trình tiếp xúc giữa hai yếu tố hiện thực và phi hiện thực. Sự
gặp gỡ và ly biệt của nhân vật nam với nữ hồn ma có mấy điểm chung. Trước hết, so sánh sự gặp
gỡ giữa nam nhân vật chính với nữ hồn ma có quan hệ vợ chồng hoặc đính hôn ở thế giới hiện
thực thì ta thấy ở Tiễn đăng và Truyền kỳ đều làm tang lễ chu đáo và ở chỗ gần nhà mồ, xuất
hiện cảnh như thực như mơ (truyện Ái Khanh) hoặc gặp gỡ trong giấc mộng (truyện Lệ Nương)
hoặc gặp gỡ nhờ tín vật (truyện Kim Phượng). Nhưng, Lý Sinh của Kim Ngao miêu tả nữ hồn ma
xuất hiện ở nhà ngoại vào một đêm trăng mờ ảo khi chàng Lý Sinh hồi tưởng chuyện đã qua và
nghe tiếng bước chân của nữ hồn ma. Còn nếu xem xét sự gặp gỡ giữa nam nhân vật chính với
nữ hồn ma có quan hệ lần đầu, ta thấy Đằng Mục, Lục y, Tây viên đều có sự gặp gỡ trong trạng
thái mơ màng với nữ hồn ma ở ngôi nhà cũ, còn trong Vạn Phúc của Kim Ngao, Lương Sinh núp
dưới Phật đài chờ đợi, nữ hồn ma hiện ra trước Phật đài cầu khấn mong được kết duyên. Vì vậy,
sự gặp gỡ giữa nhân vật nam với nữ hồn ma trong Tiễn đăng và Truyền kỳ được xây dựng ở một
địa điểm cụ thể hoặc một vật làm cầu nối tượng trưng cho thế giới phi hiện thực, còn Kim Ngao
không có sự khác biệt về sự gặp gỡ giữa nam và nữ ở thế giới hiện thực.

Sau đây, ta hãy so sánh tình huống ly biệt của nhân vật nam với nữ hồn ma. Trong truyện Ái
Khanh và truyện Kim Phượng của Tiễn đăng thì sự ly biệt với nữ hồn ma có quan hệ vợ chồng
hoặc đính hôn ở thế giới hiện thực được miêu tả là vào lúc gà gáy sáng, nhân vật nam phải ly biệt
với hồn ma (truyện Ái Khanh) hoặc nhân vật nam ly biệt với hồn ma mà đã nhập vào thân thể em
gái mình (truyện Kim Phượng); Lệ Nương của Truyền kỳ thì miêu tả sự ly biệt khi nhân vật chính
tỉnh giấc mộng; còn Lý Sinh của Kim Ngao miêu tả nữ hồn ma nói rằng hãy thu dọn hài cốt rồi
dần dần biến mất.

Xem xét sự ly biệt nữ hồn ma có quan hệ lần đầu tuy chưa bao giờ gặp ở thế giới hiện thực, ta
thấy Đằng Mục của Tiễn đăng miêu tả là khi gà gáy sáng, họ chia tay nhau và để lại tín vật, Lục
y của Tiễn đăng thì miêu tả nữ hồn ma bị bệnh chết nhưng không có hài cốt mà chỉ làm tang lễ
cho chiếc quan tài trống không; Tây viên của Truyền kỳ miêu tả nam nữ khi ly biệt có để lại tín
vật và tín vật biến thành cánh hoa bay lên không trung ở thế giới hiện thực. Vạn Phúc của Kim

Ngao đã miêu tả sau khi linh hồn của nữ hồn ma được cúng lễ ở chùa, lúc đưa tiễn hồn ma mọi
người không nhìn thấy bóng dáng nhưng vẫn nghe thấy tiếng khóc rồi dần dần mất đi. Vì thế,
thông qua so sánh sự gặp gỡ và ly biệt của nhân vật nam và nữ hồn ma, Tiễn đăng và Truyền kỳ
xây dựng trang trí sự tiếp xúc tượng trưng giữa bối cảnh không gian hiện thực và phi hiện thực;
Ngược lại, Kim Ngao thì không chia rõ thế giới hiện thực và phi hiện thực mà nhấn mạnh việc
đưa yếu tố hiện thực vào thế giới phi hiện thực. Vì vậy, ở bảng phân loại theo so sánh loại hình
diễm tình ở trên, vì Kim Ngao không có loại hình (1) (tác phẩm miêu tả tình yêu nam nữ ở thế
giới hiện thực) nên trong ba tác phẩm, về mặt so sánh ngoại hình thì Kim Ngao mang đậm yếu tố
truyền kỳ nhất. Nhưng có điều là về cốt truyện, ta có thể thấy có nhiều yếu tố hiện thực và bối
cảnh không gian hiện thực và bỏ đi nhiều yếu tố phi hiện thực. Vì thế, ta có thể thấy Kim Ngao
có chủ ý bỏ đi cốt truyện tình yêu nam nữ ở thế giới hiện thực để ngụ ý động cơ sáng tác của tác
giả Kim Thời Tập và mượn mô típ truyền kỳ xây dựng cốt truyện triển khai câu chuyện trên thế
giới hiện thực. Ở đây, ta có thể thấy tác phẩm đã phản ánh quan niệm về kiếp sau
(10)
trong tiềm
thức của người Hàn Quốc rất quan trọng ở ngay kiếp này.

Như vậy, trong ba tác phẩm, ta thấy Kim Ngao thể hiện rõ nhất động cơ sáng tác của tác giả và
có cách triển khai câu chuyện rõ nét hơn. Đây là căn cứ rõ rệt chứng minh tính sáng tạo của Kim
Ngao về mặt phương thức sáng tác.

Như đã trình bày ở trên, Tiễn đăng là tác phẩm điển hình của tiểu thuyết truyền kỳ loại diễm tình
đa dạng, gây hứng thú cho độc giả, ngược lại, Kim Ngao khắc họa nhân vật hồn ma thiếu nữ để
giải mối hận trong tình yêu dang dở ở kiếp trước cũng như mối hận của tác giả đối với cuộc đời
ngang trái, bất công và đen bạc; còn Truyền kỳ miêu tả tình cảm của hoa yêu mộc quái, cho thấy
sự biến đổi theo ý đồ sáng tác của tác giả và mang yếu tố tín ngưỡng bản địa. Ngoài ra, bên cạnh
chủ đề tình yêu nam nữ, Kim Ngao hòa quyện các chủ đề như ý chí giải hận ở thế giới hiện thực
và đề cao sự trinh tiết của phụ nữ; Truyền kỳ thì hòa quyện giữa các chủ đề như bài trừ yêu quái,
giữ gìn trinh tiết của phụ nữ và nêu cao tinh thần yêu nước, phê phán thói xấu của kẻ quyền thế
với chủ đề tình yêu nam nữ để thể hiện ý đồ sáng tác của tác giả.


Về phương thức sáng tác, ta có thể thấy Truyền kỳ đã chịu ảnh hưởng nhiều mặt của Tiễn đăng
(như mô típ mộng du, trang trí sự tiếp xúc giữa thế giới hiện thực và thế giới phi hiện thực).
Ngược lại, về mặt phương pháp sáng tác của Kim Ngao ta thấy tính sáng tạo cao được thể hiện
nổi bật hơn.

2. Loại kỳ quái

Khi xem xét các truyện loại kỳ quái của ba tác phẩm theo tiêu chuẩn phân loại xây dựng khái
niệm của tiểu thuyết kỳ quái miêu tả nhân vật thế giới khác trong bối cảnh thế giới khác, ta thấy
Kim Ngao có 3 truyện trong tổng số 5 truyện, Tiễn đăng có 13 truyện trong tổng số 21 truyện,
Truyền kỳ có 15 truyện trong tổng số 20 truyện.

So sánh nội dung các truyện loại kỳ quái của Tiễn đăng, Kim Ngao, Truyền kỳ, ta thấy có hai
điểm chung như sau:

Một là, truyện đề cập đến sự giao du với nhân vật ở thế giới khác.

Hai là, truyện viết về sự diệt trừ của các nhân vật ở thế giới khác.

Để so sánh thực tế theo hai điểm chung, tôi lập bảng chia ra bối cảnh không gian và mô típ giao
du hay diệt trừ như sau:

Phân loại
không gian
Kim Ngao tân
thoại
Tiễn đăng tân thoại Truyền kỳ mạn lục
Giao du
Diệt

trừ
Giao du Diệt trừ Giao du Diệt trừ
Thế giới
long cung
-Long
cung phó
yến lục
-Long đường
linh hội lục
- Thuỷ cung
khánh hội lục
-Long đình đối
tụng lục
Địa giới -Nam
Viêm phù
châu chí
- Lệnh hồ sinh
minh mộng
lục.
- Phú quý phát
tích ty chí.
- Hoa Đình
phùng cố nhân
ký.
- Thái hư tư
pháp truyện.
- Vĩnh Châu
dã miếu ký.
- Mẫu đơn
đăng ký.

- Hạng
Vương
từ ký.
- Kim
Hoa Thi
thoại ký.
- Lý
tướng
- Dạ xoa bộ
soái lục.
- Tản viên từ
phán sự lục.
- Mộc miên
thụ truyện.
- Đào thị
- Tu Văn Xá
nhân truyện.
quân
truyện.
nghiệp oan ký.
- Đông triều
phế tự truyện.
- Xương
Giang yêu
quái lục.
Thế giới
thần tiên
- Tam sơn
phúc địa chí.
- Thiên thai

phỏng ẩn lục.
- Na sơn tiều
đối lục.
- Đà Giang dạ
ẩm ký.
- Từ Thức tiên
hôn lục.
Thiên giới
- Tuý du
Phù Bích
đình ký.
- Giám Hồ dạ
phiếm ký.
- Phạm Tử Hư
du thiên tào
lục.
- Trà đồng
giáng đản lục.
Ngoại lệ
-Thân
Dương động



Khi xem xét bảng trên, Tiễn đăng và Truyền kỳ đều xây dựng bối cảnh không gian như thế giới
long cung, địa giới, thế giới thần tiên, thiên giới nhưng Kim Ngao không có thế giới thần tiên.
Truyện Túy du Phù Bích đình ký của Kim Ngao đã miêu tả Hồng sinh gặp một thiếu nữ vốn là
con cháu họ Cơ biến thành thần tiên rồi được lên Thiên giới làm tiên nữ nên có thể cho rằng đã
bao gồm cả thế giới thần tiên.


Vì thế, một số nhà nghiên cứu cho rằng số truyện của Kim Ngao có lẽ là 4 quyển 20 truyện
nhưng xem xét bảng so sánh bối cảnh không gian ở trên thì có lẽ ít có khả năng vượt hơn 5
truyện. Xem xét so sánh theo mô típ giao du và diệt trừ trong bối cảnh không gian đã nêu ở bảng
trên, ta thấy thế giới khác ở các truyện loại kỳ quái của Tiễn đăng được xây dựng chủ yếu là
không gian giao du với nhân vật thế giới khác (9 truyện trong số 13 truyện) và có 4 truyện được
viết trong bối cảnh không gian địa giới miêu tả sự diệt trừ nhân vật ở thế giới khác. Ba truyện
loại kỳ quái của Kim Ngao đều xây dựng bối cảnh không gian là thế giới khác để viết về sự giao
du giữa văn nhân với nhân vật thế giới khác và không thấy có mô típ diệt trừ. Đây là điểm có thể
cho ta thấy ý đồ sáng tác của tác giả và tính sáng tạo của tác phẩm. Truyền kỳ có mô típ giao du
giữa con người với nhân vật ở thế giới khác (8 truyện trong số 15 truyện) và diệt trừ nhân vật ở
thế giới khác (7 truyện trong số 15 truyện) nên tỷ lệ truyện giao du và diệt trừ gần ngang nhau.
Hơn nữa, đặc trưng nổi bật được thấy trong Truyền kỳ là xây dựng mô típ diệt trừ trong bối cảnh
long cung khác với Tiễn đăng và Kim Ngao chỉ có mô típ giao du và tỷ lệ truyện có mô típ diệt
trừ trong bối cảnh không gian địa giới có phần cao hơn so với Tiễn đăng. Qua đó ta có thể thấy
sự khác biệt trong ý đồ sáng tác và cách suy nghĩ về thế giới long cung và địa giới của người
Việt Nam. (Ví dụ, việc thuỷ quái cướp vợ dân lành làm vợ mình, nên bị đưa ra xét xử, khép tội
và bị đuổi đi trong Long đình đối tụng lục. Đây là căn cứ cho thấy sự sáng tạo dựa trên điểm
khác biệt về thổ nhưỡng của Truyền kỳ).

Qua sự phân loại ở trên, tôi đã so sánh các truyện loại kỳ quái theo mô típ giao du, diệt trừ trong
bối cảnh không gian cụ thể. Theo kết quả so sánh, ta có thể sắp xếp lại theo chủ đề thể hiện mô
típ giao du và diệt trừ như sau:

1/ Trường hợp nhân vật được công nhận tài năng văn chương hay đức hạnh và được nhận chức
quan ở thế giới khác (Tiễn đăng: 1 truyện; Kim Ngao: 2 truyện; Truyền kỳ: không có).

2/ Trường hợp nhân vật được công nhận tài năng văn chương hay đức hạnh và được nhận quà
tặng ở thế giới khác (Tiễn đăng: 3 truyện; Kim Ngao: 1 truyện; Truyền kỳ: 1 truyện).

3/ Thông qua kinh nghiệm của bản thân và nghệ thuật châm biếm, trào lộng ở thế giới khác để

giáo huấn con người ở thế giới hiện thực như vấn đề chính trị, xã hội, luân lý, v.v (Tiễn đăng: 5
truyện; Kim Ngao: không có; Truyền kỳ : 7 truyện).

4/ Nhân vật chính diệt trừ yêu quái, không cho tác oai tác quái làm hại con người và nhận được
chức quan ở thế giới khác (Tiễn đăng: 4 truyện; Kim Ngao: không có; Truyền kỳ: 7 truyện).

Ta có thể lập bảng theo những trường hợp nêu trên:

Tác
phẩm
Kim Ngao tân thoại Tiễn Đăng tân
thoại
Truyền kỳ mạn lục

Phân loại
Giao du
Quan
chức
Tài năng
văn
chương
Nam Viêm
phù châu chí
Tuý du Phù
Bích đình
ký.

Đức hạnh
Tu Văn xá nhân
truyện


Quà tặng
Tài năng
văn
chương
Long cung
phó yến lục
Thuỷ cung khánh
hội lục.
Long Đường linh
hội lục.

Đức hạnh
Giám hồ dạ phiếm

Từ Thức tiên hôn
lục
Giáo
huấn
Trải
nghiệm
Lệnh hồ sinh
minh mộng lục.
Phú quý phát tích
ty chí.
Thiên Thai phỏng
ẩn lục.
Tam sơn phúc địa
chí.
Phạm Tử Hư du

thiên tào lục.
Trà đồng giáng đản
lục.
Châm
biếm
Hoa đình phùng
cố nhân ký
Hạng Vương từ ký
Kim Hoa thi thoại
ký.
Lý tướng quân
truyện
Đà Giang dạ ẩm ký.
Na Sơn tiều đối lục.
Diệt trừ Diệt trừ

Đạo thuật Mẫu đơn đăng ký.
Thân dương động
ký.
Mộc miên thụ
truyện
Đào thị nghiệp oan

Đông triều phế tự
truyện.
Xương Giang yêu
quái lục.
Xử kiện
Long Đình đối tụng
lục

Quan
chức
Xử kiện
Thái hư tư pháp
truyện
Vĩnh châu dã
miếu ký
Dạ Xoa bộ soái lục.
Tản viên từ phán sự
lục

Căn cứ vào bảng trên ta thấy, Tiễn đăng có đủ các trường hợp (chỉ không có trường hợp xác
nhận tài năng văn chương của nhân vật chính rồi nhận chức quan ở thế giới khác) nên ta có thể
coi Tiễn đăng mang hình thái của tiểu thuyết truyền kỳ điển hình trên cơ sở các câu chuyện được
lưu truyền trong dân gian, đặc biệt là những câu chuyện ở thế giới khác để sáng tác truyện mang
lại cho độc giả nhiều hứng thú. Truyền kỳ không có các truyện nhờ có tài năng văn chương và
đức hạnh mà nhận được chức quan ở thế giới khác, còn ngoài ra thì cũng giống như Tiễn đăng
nhưng tỷ lệ truyện châm biếm hiện thực hoặc diệt trừ yêu quái cao hơn hẳn so với Tiễn đăng. Vì
vậy, ta có thể thấy, sự biến đổi của tác phẩm không những muốn gây hứng thú cho độc giả mà
còn làm nổi bật các điểm giáo huấn con người, loại bỏ trào lưu tư tưởng sùng tín ma quái của xã
hội Việt Nam đương thời, ngụ ý sự bất mãn của tác giả đối với chính trị xã hội hiện thực. Ngược
lại, Kim Ngao có xây dựng cốt truyện xác nhận tài năng văn chương của nhân vật chính ở thế
giới khác rồi được nhận một chức quan hoặc quà tặng. Đây là cốt truyện thường thấy ở truyện cổ
Hàn Quốc (như sự linh nghiệm của bản thân về thế giới khác thần bí và kỳ lạ hoặc bằng trí tuệ
của con người khắc phục diệt trừ yêu ma tác oai tác quái) nên nếu Kim Thời Tập có ý đồ sáng
tác nhiều truyện thì có thể sáng tác một cách dễ dàng. Vì vậy, đối với ý kiến cho rằng khả năng
Kim Ngao có số truyện vượt quá 5 truyện thì tôi nghĩ rằng Kim Ngao đều có bối cảnh không gian
loại kỳ quái giống Tiễn đăng như đã đề cập ở trên (Bảng so sánh bối cảnh không gian loại kỳ
quái) nên có lẽ đã không phù hợp với ý đồ sáng tác của tác giả. Vì thế, có thể Kim Thời Tập chỉ
sáng tác 5 truyện mà thôi. Khác với Tiễn đăng và Truyền kỳ, Kim Ngao chỉ có truyện xác nhận

tài năng văn chương của nhân vật chính rồi nhận chức quan ở thế giới khác nên ta có thể thấy
điểm này là điểm cho biết rõ hơn ý đồ sáng tác của tác giả và bằng chứng cho tính sáng tạo của
Kim Ngao. Vì thế, ta khó có thể thấy Kim Ngao là tiểu thuyết truyền kỳ có mục đích giáo huấn
hoặc gây hứng thú cho độc giả.

Vì tác giả của Tiễn đăng và Truyền kỳ đã từng làm quan trong thực tế nên không xây dựng mô
típ làm quan ở thế giới khác trong tác phẩm của mình, còn tác giả của Kim Ngao Kim Thời Tập
tuy có học vấn và tài năng văn chương nhưng không thể làm quan để có dịp thi thố tài năng nên
đã thông qua tác phẩm của mình, ngụ ý giải hận sinh bất phùng thời hoài tài bất ngộ.

Xét trong ba tác phẩm, động cơ sáng tác của Kim Ngao được thể hiện rõ nhất. Điều này ta có thể
tìm thấy chứng cứ qua sự thực Kim Thời Tập cất giấu tác phẩm Kim Ngao ở trong căn nhà nhỏ
bằng đá. Như vậy, xem xét các vấn đề ở trên, một lần nữa ta có thể xác nhận rõ một điều là cuộc
đời tác giả và tác phẩm có quan hệ mật thiết, không thể tách rời, và yếu tố truyền kỳ trong tiểu
thuyết truyền kỳ có đặc điểm thể loại có thể ngụ ý động cơ sáng tác của tác giả.

3. Kết luận

Ở trên, ta đã chia ra các loại hình trong ba tác phẩm Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại,
Truyền kỳ mạn lục, những tiểu thuyết truyền kỳ mang tính tiêu biểu của ba nước Hàn - Trung –
Việt để nghiên cứu so sánh. Cụ thể là trong truyện loại diễm tình, bài viết này đã đối chiếu yếu tố
truyền kỳ (ranh giới giữa bối cảnh hiện thực và phi hiện thực, nguyên nhân biến thành nữ hồn
ma, mô típ người và hồn ma giao hoan) để so sánh phương thức và động cơ sáng tác của tác giả.
Còn trong truyện loại kỳ quái, bài viết này đã so sánh động cơ sáng tác của các tác giả thông qua
việc đối chiếu về mặt chủ đề.

Từ kết quả so sánh đó, ta có thể rút ra kết luận như sau:

1) Khi xem xét động cơ sáng tác của ba tác phẩm, Kim Ngao ngoài chủ đề diễm tình, kỳ quái còn
thể hiện ý đồ sáng tác của tác giả như giải mối hận không thi thố được tài năng và không nhận

được chức quan gì ở thế giới hiện thực (các nhà nghiên cứu Hàn Quốc cho rằng điều này đã
ngầm thể hiện lòng trung thành của tác giả đối với nhà vua thời trước đó). Truyền kỳ ngoài chủ
đề diễm tình, kỳ quái còn thể hiện ý đồ sáng tác của tác giả như nêu cao lòng yêu nước, diệt trừ
yêu quái, giáo huấn con người, nêu cao trinh tiết của phụ nữ, phê phán hiện thực. Tiễn đăng đã
xây dựng được nhân vật, bối cảnh, cốt truyện rất đa dạng nhưng không thấy những nét khắc hoạ
sâu sắc để ngụ ý ý đồ sáng tác của tác giả giống như Kim Ngao. Vì vậy, ta có thể nói rằng Tiễn
đăng được sáng tác nhằm mục đích gây nhiều hứng thú và giáo huấn cho độc giả.

2) Khi xem xét phương thức sáng tác của ba tác phẩm, tác giả Kim Ngao đã sử dụng phương
thức sáng tác nhất quán như cấu tạo lấy thế giới hiện thực làm trung tâm của nữ hồn ma trong
loại diễm tình (không có sự rõ ràng giữa ranh giới của thế giới hiện thực và phi hiện thực), cấu
tạo mộng du trong loại kỳ quái.

Nếu xem xét loại diễm tình của Tiễn đăng và Truyền kỳ thì thấy rằng hai tác phẩm này đều có
chùm truyện viết về sự gặp gỡ giữa nam và nữ ở thế giới hiện thực và phi hiện thực khác với
Kim Ngao. Đồng thời cũng thấy được cấu tạo mộng du và cấu tạo lấy thế giới hiện thực làm
trung tâm (có sự rõ ràng giữa ranh giới của thế giới hiện thực và phi hiện thực). Loại kỳ quái của
Tiễn đăng và Truyền kỳ đã thể hiện cấu tạo mộng du (trong một số tác phẩm) và cấu tạo thế giới
hiện thực làm trung tâm (trong đa số các tác phẩm) với bối cảnh không gian và chủ đề đa dạng.

Thông qua việc so sánh động cơ sáng tác và phương thức sáng tác của ba tác phẩm nêu trên, tác
giả Kim Ngao đã mượn mô-típ truyền kỳ từ Tiễn đăng để rồi sáng tác nên tác phẩm để ngụ ý ý đồ
sáng tác của mình. Vì vậy, ta khó có thể nói Kim Ngao là tiểu thuyết truyền kỳ được phát sinh
một cách tự nhiên, nghĩa là dựa trên cơ sở những câu chuyện cổ trong dân gian cộng thêm sự
sáng tác của tác giả. Bởi thế, khi xem xét dòng chảy của lịch sử tiểu thuyết trong sự phát triển về
mặt thể loại, nếu coi sự mở đầu của tiểu thuyết là tiểu thuyết truyền kỳ với chất liệu là những câu
chuyện kỳ lạ được lưu truyền và mục đích là gây hứng thú và giáo huấn thì quan điểm cho rằng
Kim Ngao là sự mở đầu của tiểu thuyết Hàn Quốc vẫn còn là điều nghi vấn.

Tác giả Truyền kỳ đã tiếp nhận ảnh hưởng phương thức sáng tác của Tiễn đăng để rồi sáng tác

nên tác phẩm trên cơ sở truyện cổ dân gian kỳ lạ của Việt Nam. Qua đó, ta có thể thấy Truyền kỳ
có hình thái của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ đầu tiên. Đồng thời, ta có thể nói rằng Tiễn đăng
được sáng tác nhằm mục đích gây nhiều hứng thú và giáo huấn cho độc giả và đã được tác giả
kết hợp một cách tự nhiên giữa yếu tố truyện cổ và yếu tố tiểu thuyết. Như vậy, Tiễn đăng là
điển hình của tiểu thuyết truyền kỳ của đời Minh - Trung Quốc.

Khi xem xét ý nghĩa văn học sử của ba tác phẩm, ta cũng có thể nhận định ý nghĩa văn học sử
của Tiễn đăng là đóng vai trò người ban phát, ảnh hưởng quan trọng tới sự hình thành tiểu thuyết
truyền kỳ Đông Á. Tuy Kim Ngao và Truyền kỳ đã cùng chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng nhưng ta
cũng có thể nhận rằng Kim Ngao là tác phẩm thể hiện động cơ sáng tác của tác giả một cách rõ
rệt và Truyền kỳ là tác phẩm thể hiện rõ đặc điểm văn hoá tín ngưỡng bản địa Việt Nam. Nhưng
quan trọng hơn, ta không nên quên đánh giá giá trị mỹ học của bản thân tác phẩm Tiễn đăng./.

Chúc các bạn thành công

×