Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Báo cáo nghiên cứu lược sử văn học Hàn Quốc những cột mốc dẫn đến thời hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.38 KB, 15 trang )

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
LƯỢC SỬ VĂN HỌC HÀN QUỐC:
NHỮNG CỘT MỐC DẪN ĐẾN THỜI HIỆN ĐẠI
Mở đầu
Mặc dù người Hàn Quốc có ngôn ngữ riêng từ hàng ngàn năm nay nhưng phải
đến giữa thế kỉ XV họ mới sáng tạo được chữ viết của mình, đó là chữ Hangul. Vì thế,
cũng như ở Việt Nam, mới đầu các sáng tác văn học ở Hàn Quốc cũng được viết bằng
chữ Hán. (Các học giả Hàn Quốc bắt đầu làm thơ theo lối thơ cổ điển Trung Quốc ít
nhất là vào khoảng thế kỉ thứ IV.) Và cũng như tất cả các nền văn học khác, văn học
Hàn Quốc bắt đầu bằng các truyền thống văn học dân gian truyền miệng, trong đó vai
trò đặc biệt thuộc về các bài dân ca và cổ tích mà các vị tiền bối của các bộ lạc kể lại
cho con cháu. Chúng được trình bày ở các hội hè, các lễ lạt tôn giáo, các lễ tế thần và
các cuộc họp chính trị. Những tác phẩm dân gian này chứa đựng những bài học đạo
đức và cả những quy định và tập tục trong xã hội. Như tấm gương phản ánh những
ước mơ, khát vọng của nhân dân, trong văn học Hàn Quốc cổ, cái tốt luôn chiến thắng,
còn cái xấu thì bị trừng trị. Văn học thời kì này còn ca ngợi những phẩm chất cao quí
của con người theo tiêu chuẩn đạo đức đương thời như lòng trung thành với Vua, lòng
nhân đạo, sự tôn kính người trên, tình bạn chân thành và sự trong trắng của phụ nữ.
Khoảng thế kỉ thứ VII, một hệ thống chữ viết, có tên là Idu, được sáng tạo ra cho
phép người Hàn Quốc thực hiện những bản lược dịch các loại sách Trung Hoa. Một số
chữ Hán phù hợp về mặt ngữ âm được sử dụng để biểu hiện những thành tố ngữ âm và
các hậu tố biến đổi trong tiếng Hàn Quốc. Sau đó ít lâu, xuất hiện một hệ thống ghi âm
đầy đủ hơn, gọi là hyangch'al, cho phép ghi lại trọn vẹn những câu văn Hàn Quốc
bằng chữ Hán. Trong một hệ thống khác, kugyol, các chữ Hán giản lược được sử dụng
để biểu thị các yếu tố ngữ pháp và được thêm vào các văn bản. Dù vậy, các tác phẩm
văn học còn lại cho thấy phần lớn văn học Hàn Quốc được viết bằng chữ Hán, chứ
không phải bằng chữ Hàn Quốc, ngay cả sau khi phát minh ra chữ Hangul.
Những t¸c phÈm v¨n häc viết đầu tiên của Hàn Quốc xuất hiện ở Vương quốc
Shilla vào thế kỉ thứ VIII, khi một hệ thống chữ viết được tạo ra một phần từ tiếng
Trung Quốc, dựa theo cách phát âm, gọi là Idu. Chỉ còn 25 tác phẩm thơ, gọi là
hyangga, viết bằng thứ chữ này sót lại đến giờ.


Sự phổ cập chữ viết Hangul là một thay đổi lớn trong đời sống văn học Hàn
Quốc, nó khiến cho ngay cả các tác giả thuộc giới bác học kinh điển cũng trở nên quần
chúng hơn. Văn học cổ điển Hàn Quốc sau thời Ba Vương quốc vẫn tiếp tục chịu ảnh
hưởng rất lớn của Lão giáo, Nho giáo và Phật giáo. Trong ba tôn giáo này, Phật giáo
có ảnh hưởng lớn nhất.
Sau khi chịu ảnh hưởng của phương Tây, văn học Hàn Quốc hiện đại phân lập cả
về nội dung chính trị lẫn đạo đức và chuyển từ những chủ đề có tính truyền thống sang
nhiều đề tài khác nữa. Nó tiếp nhận không chỉ tư tưởng của Thiên Chúa giáo mà cả các
trào lưu nghệ thuật khác nhau để tự hiện đại hoá. Ngoài ra, không chỉ tiếp nhận văn
hoá phương Tây qua Nhật Bản và Trung Quốc, văn học Hàn Quốc còn tiến hành
những đổi mới tự thân. Và ngày nay nhìn lại, người Hàn quốc có thể tự hào nói về nền
văn học với một chiều dày lịch sử của mình.
Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu quá trình phát triển của văn học Hàn
Quốc từ thời cổ đại đến trước thời kỳ hiện đại - một giai đoạn phát triển để lại rất
nhiều dấu ấn và là nền tảng phát triển của văn học Hàn Quốc ngày nay.
1. Văn học Hµn quèc thời thượng cổ (trước năm 57 Tr. CN)
Ngay từ thời cổ, thơ ca và âm nhạc đã đóng một vai trò quan trọng trong đời
sống hàng ngày của người dân Hàn Quốc. Tình yêu đặc biệt của họ đối với thơ ca, âm
nhạc và múa đã gây cho người Trung Quốc ấn tượng mạnh mẽ, điều được họ mô tả
trong những văn bản rất cổ của Trung Hoa. Dân ca cổ Hàn Quốc gắn liền với đời sống
tôn giáo và tâm linh của người dân và thường được hát lên trong những nghi lễ và hội
hè, như lễ cầu Trời ở miền Bắc hay hội gieo hạt và hội mùa ở miền Nam. Những bài
ca này được truyền miệng từ đời này sang đời khác và được coi là có sức mạnh thần
kì.
Có ba bài hát còn được truyền lại qua bản dịch tiếng Trung Hoa là Kuji ka (hay
Yong singun ka, Khúc hát cầu Trời, trong Samguk yusa), Hwangjo ka (năm 17 Tr.
CN, Khúc hát chim vàng anh, trong Samguk sagi), và Kong mudoha ka (hay
Konghuin - Tạp khúc cho đàn Hạc, trong Haedong yoksa).
Bài Kuji ka liên quan đến huyền thoại về sự lập nước Karak, nhưng nó có vẻ là
một khúc cầu nguyện tại các nghi lễ của đạo Shaman. Bài Hwangjo ka, thường được

coi là tác phẩm của Vua Yuri, có lẽ là trích từ một bản tình ca. Bài Kong mudoha ka
có nhân vật được coi là một tín đồ Shaman chết đuối trong một cơn mê sảng. Có lẽ nó
phản ánh sự suy tàn của đạo Shaman khi xã hội Hàn Quốc cổ bước vào thời đại có nhà
nước. Tác phẩm còn có một số nhân vật khác như chàng thuỷ thủ, vợ và bạn anh ta.
Một bài ca khác, Tosol ka (năm 28), được nhắc đến trong bộ Samguk sagi như là tác
phẩm mở đầu cho loại thơ thế tục, nhưng đáng tiếc là văn bản của nó không còn giữ
được.
2. Văn học Hàn Quốc thời Ba Vương quốc (từ năm 57 Tr. CN đến năm 668)
Trái với văn học thời thượng cổ được đặc trưng bởi tính chất tập thể trong hoạt
động sáng tạo, văn học thời đại sau đó thể hiện rõ nét tác động mạnh mẽ của những
thay đổi về chính trị, kinh tế và văn hoá trên bán đảo Hàn Quốc. Lúc đó, các vương
quốc trên bán đảo Hàn Quốc ngày càng trở nên thịnh vượng và không ngừng mở rộng
các mối quan hệ nhiều mặt với thế giới bên ngoài. Sự thâm nhập của Phật giáo và chữ
Hán đã làm giàu có hơn đời sống văn hoá tinh thần của cả ba vương quốc, đồng thời
dẫn đến những biến đổi hết sức to lớn. Chính nhờ nó mà người Hàn Quốc đã mở rộng
được tầm nhìn về thế giới. Một trong những hậu quả trực tiếp của những biến đổi này
là hoạt động nghệ thuật đã vượt xa trạng thái của những sinh hoạt cộng đồng mang
tính tự phát, chủ yếu là múa hát, để trở thành phương thức biểu đạt trực tiếp những
trạng thái tình cảm cá nhân. Văn học đã mang tính thế tục hơn. Các nhân vật văn học
bây giờ là những con người trong đời thực thay cho những vị thần hay những vị anh
hùng của bộ lạc thời xưa.
Ba vương quốc thời đó là Koguryo ở miền Bắc, Paekche ở miền Tây Nam và
Silla ở miền Đông Nam. Cả ba vương quốc đều xây dựng quốc gia theo mô hình của
Khổng giáo, theo đó, một trong những căn cứ để khẳng định nền độc lập là có sử kí. Vì
thế, bộ sử đầu tiên của Koguryo và của Paekche xuất hiện vào thế kỉ thứ IV, còn bộ sử
đầu tiên của Silla ra đời vào thế kỉ thứ VI. Tiếc thay, những bộ sử này, cũng như các
bộ sử sau đó không còn giữ được đến ngày nay. Bộ sử cổ nhất còn giữ lại được là bộ
Samguk sagi (Tam Quốc sử kí, 1146) của Kim Pusik.
Các văn sĩ của Vương quốc Koguryo, nơi có vị trí địa lí sát với Trung Hoa, đã có
thể giữ gìn được một số nét độc đáo trong đời sống tinh thần của những người Hàn

Quốc đầu tiên di cư từ miền Bắc xuống và định cư trên bán đảo. Thơ ca của họ có xu
hướng anh hùng ca với hình thức sử thi. Huyền thoại về sự nghiệp dựng nước Koguryo
có liên quan chặt chẽ với sự di cư của Vua Tongmyong và thần dân đến xứ sở mới.
Những truyện về Ondal, Vua Mich'on, Hoàng tử Hodong, người kế tục Yuri, và nhiều
nhân vật khác có nguồn gốc từ Koguryo đến tận ngày nay vẫn được sử dụng trong sân
khấu và điện ảnh.
Khác với văn học của Vương quốc Koguryo, văn học Paekche và Silla có xu
hướng trữ tình, có lẽ vì ở miền Nam khí hậu ôn hoà hơn và cuộc sống cũng bớt phần
khắc khổ. Mặc dù số lượng tác phẩm của văn học Paekche còn lại không nhiều, những
thần thoại và dân ca thu thập trong bộ Samguk sagi cũng có thể giúp chúng ta hình
dung được tính độc đáo và phong phú của nó. Chẳng hạn, Chongupsa (Bài hát của
Chongup), trong đó vợ một người lái buôn đường dài cầu xin Mặt Trăng phù hộ cho
chồng, đã được đánh giá cao từ thời Paekche, trải qua thời Koryo và Yi cho đến tận
ngày nay.
Trong ba vương quốc, Silla đạt được sự phát triển cao nhất cả về chính trị (mà
bằng chứng là việc nó đã chinh phục hai quốc gia còn lại và thống nhất Hàn Quốc sau
này) lẫn nghệ thuật, mặc dù nó chịu ảnh hưởng của Trung Hoa ít nhất. Thậm chí có thể
nói rằng chính khoảng cách về địa lí và văn hoá với người khổng lồ Trung Hoa là điều
kiện rất may mắn, nhờ đó văn hoá Silla thực sự là một tổng hợp hài hoà của những yếu
tố bản địa với những yếu tố ngoại quốc.

3. Văn học Hàn Quốc thời kì Silla thống nhất (668 - 935)
Nửa sau thế kỉ thứ VII, Silla chinh phục Koguryo và Paekche, thiết lập một hệ
thống chính trị ổn định trên phần lớn lãnh thổ bán đảo Hàn Quốc ngày nay. Dưới thời
Vương triều Silla thống nhất, rất nhiều sinh viên được nhà nước cử đi du học tại Trung
Quốc vào thời nhà Đường lúc đó. Chính sự hấp thụ những ảnh hưởng văn hoá Trung
Quốc và sự hưng thịnh của đạo Phật đã đóng vai trò chính trong sự phát triển mạnh mẽ
của nghệ thuật Hàn Quốc đương thời. Đạo Phật thống trị gần như tuyệt đối đời sống
tinh thần của các tầng lớp trên trong xã hội - giới tăng lữ và hiệp sĩ Hwarangdo - và vì
thế trở thành lực lượng vô hình dẫn dắt các hoạt động nghệ thuật.

Thể loại hyangga xứng đáng được coi là chiếc vương miện của văn học Silla.
Mặc dù người ta hay sử dụng thuật ngữ hyangga để phân biệt dân ca Hàn Quốc với thơ
cổ Trung Quốc, nhưng đúng hơn, nó chỉ 25 tác phẩm thơ hiện còn lại, được ghi bằng
chữ hyangch'al mới được tạo ra thời Vương quốc Silla thống nhất và đầu thời Koryo.
Trong số đó, 14 bài được ghi lại trong bộ Samguk yusa của Iryon, và 11 bài khác
mang tính tôn giáo do một nhà sư tên là Kyunyo ở Kyunyo chon sáng tác (1075, Cuộc
đời Kyunyo). Sử sách cho biết còn có một tuyển tập lớn, Samdaemok, do hai nhà sư là
Taegu và Wi Hong soạn năm 888. Thật đáng tiếc là tác phẩm này đã thất truyền. Tuy
vậy, chỉ cần những bài thơ còn lại cũng cho ta thấy một phong cách thơ độc đáo, vừa
tinh tế vừa tao nhã. Hai tác phẩm tiêu biểu được sáng tác vào thế kỉ thứ VIII là Ch'an
Kip'arang ka (Khúc ngợi ca hiệp sĩ Kip'a), ca ngợi một thành viên của Hwarangdo, và
Che mangmae ka (Bài hát dâng tặng người chị quá cố), một khúc tang lễ.
Cũng trong thời gian này, một số lượng tác phẩm tự sự văn xuôi bằng chữ Hán
xuất hiện. Trong đó trước hết phải kể đến hàng trăm tác phẩm chú giải kinh sách đạo
Phật của các nhà sư như Wonhyo, Uisang, Wonch'uk, Taehyon và Kyonghung. Bên
cạnh đó là những truyện về phép mầu của những nhà sư lỗi lạc, truyện về sự linh
thiêng của những pho tượng Phật, truyền thuyết về các đền chùa, truyện về những
chiến binh dũng cảm của tầng lớp Hwarangdo; ngoài ra còn phải nhắc đến những
truyện kể theo lối truyền kì (ch'uanch'i) chịu ảnh hưởng cả về phong cách lẫn đề tài
của truyện truyền kì Trung Quốc. Chính ba loại văn tự sự vừa kể sau này trở thành nền
tảng của văn xuôi cổ điển Hàn Quốc.
4. Văn học Hàn Quốc thời Koryo (Cao Ly, 935-1392)
Văn học thời Koryo được đặc trưng bởi sự phổ biến ngày càng rộng rãi của chữ
Hán trong sáng tác, sự suy vong của hyangga, và sự bùng nổ của Koryo kayo (Ca khúc
Koryo), một thứ văn học truyền miệng cho đến thời Choson.
Thực ra, sự truyền bá hyangga ở Shilla vẫn tiếp tục cho đến đầu thời Koryo
nhưng đó chủ yếu là những câu cầu nguyện, không còn mang tính thế tục hay nghệ
thuật.
Bậc thầy cuối cùng của hyangga là nhà sư Kyunyo, người đã viết rất nhiều sách
bình chú đồng thời có công lao to lớn trong việc truyền bá đạo Phật. Ông làm thơ bằng

tiếng Hàn Quốc, trực tiếp đọc và dạy cho học trò, những người truyền miệng và ghi
nhớ tác phẩm của ông. Chính những bài thơ trong cuốn Kyunyo chon của ông, dựa
trên Huấn yếu thập điều (Mười điều giáo huấn quan trọng) của Samantabhadra Bồ
Tát, được chép lại trên cơ sở những văn bản truyền miệng như vậy.
Koryo kayo, loại thơ thịnh hành thời Koryo (935-1392) có tên gọi là pyolgok
(biệt ca) một loại thơ có nguồn gốc dân gian. Người ta không biết gì về các tác giả của
Koryo kayo. Mới đầu, loại hình văn học này được truyền miệng trong dân gian, chỉ
đến cuối thời Choson nó mới được chép lại bằng chữ Hangul. Thơ pyolgok vốn là loại
thơ được sử dụng rộng rãi cho các dịp lễ hội, đặc biệt là Hội Thu hoạch và Hội Hoa
đăng. Rất nhiều bài pyolgok là do phụ nữ sáng tác và trình diễn, như các bài
Tongdong (Ca ngợi các mùa) hay Isanggok (Đêm đông), được coi là hai trong số
những bài thơ tình xúc động nhất trong ngôn ngữ Hàn Quốc.
Thơ pyolgok có hai dạng: dạng "khổ ngắn" (tallyonch'e) trong đó cả bài thơ được
cấu trúc trọn vẹn trong một khổ thơ duy nhất và dạng "khổ dài" (yonjangch'e) trong đó
mỗi bài gồm nhiều khổ. Chong Kwajonggok (Khúc ca của Chong Kwajong) và
Samogok (Khúc ca tình mẹ) là những ví dụ điển hình của pyolgok "khổ ngắn", nhưng
pyolgok "khổ dài" mới thật là đặc trưng cho Koryo kayo. Ta có thể kể: Ch'nongsan
pyolgok (Khúc hát núi xanh), Sogyong pyolgok (Tây Đô [P'yongyang] biệt khúc),
Tongdong và Ssanghwajom (Cặp hàng hoa) - tất cả đều viết ở dạng "khổ dài" và gồm
từ bốn đến mười ba khổ.
Koryo kayo có hình thức thể hiện trực diện, mạnh mẽ, khá tự do và không bị gò
bó bởi những niêm luật cứng nhắc. Nội dung thường thấy của nó là những mặt khác
nhau của đời sống thực. Do được truyền miệng qua nhiều thế hệ và chỉ được ghi chép
lại vào cuối thời Choson, chắc chắn thứ Koryo kayo chúng ta có thể đọc ngày nay đã
bị sửa đổi ít nhiều.
Thời đại Vương triều Koryo là thời của những bất ổn xã hội: khủng hoảng trong
quan hệ đối nội và đối ngoại do chính sách đè nén và sự xâu xé, tranh giành lẫn nhau
của tầng lớp quí tộc và quân nhân, những cuộc quấy nhiễu liên miên của người Khitan
và người Juchen ở biên giới, và cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ. Trong hoàn cảnh
đó, các nhà văn tên tuổi và hàn lâm có xu hướng quay về nội tâm hoặc buông xuôi.

Thế hệ trí thức mới nổi lên khoảng cuối triều đại bắt đầu tiếp nhận tư tưởng của Khổng
Tử và Lão Tử như là triết học của mình. Họ không còn bằng lòng với pyolgok và phải
tìm kiếm một hình thức thơ mới. Đó chính là lí do ra đời của sijo, loại thơ trở nên
thịnh hành dưới Vương triều Yi.
Văn xuôi tự sự cũng đạt được nhiều thành tựu dưới thời Koryo. Nó bao gồm
nhiều thể loại : thần thoại, huyền thoại, cổ tích, liệt truyện - truyện kể về cuộc đời đức
Phật, những vị chân sư và các vị minh quân - và các loại tạp bút. Có một loại truyện
đáng chú ý trong đó nhân vật là những đồ vật và loài vật được nhân cách hoá, như
rượu, giấy, chiếc gậy, đồng tiền, cục nước đá, cây tre hay những con rùa Điển hình
của loại truyện này là Kongbang chon (Chuyện đồng tiền lỗ vuông) của Im Ch'un.
Một mảng văn học quan trọng khác là truyện thơ anh hùng với những kiệt tác như
Tongmyong wang p'yon (Bài ca về Vua Tongmyong, 1193) của Yi Kyubo, viết theo
thể thơ năm âm cổ. Một tác phẩm khác cũng nằm chung mạch cảm hứng này là
Chewang ungi (Lịch sử diễn ca về các nhà Vua và Hoàng đế, 1287) của Yi Sunghyu,
viết theo một thể thơ đặc biệt, mỗi dòng có năm hoặc bảy âm tiết. Một ví dụ điển hình
của thể loại liệt truyện là Haedong kosung chon (Cuộc đời những vị chân sư của Hàn
Quốc, 1215) của Kakhun. Tập phê bình đầu tiên ở Hàn Quốc - viết về thơ và những
vấn đề khác đương thời - là tập P'ahan chip (Những ghi chép ngắn lúc nhàn rỗi,
1260) của Yi Inno (hay Yi Illo). Ngoài phê bình thơ, tập tuỳ bút của Yi Inno còn chứa
đựng những thông tin về tiểu sử của tác giả dưới dạng nhật kí, các nhận xét về các
phong cách và trào lưu văn học đương thời . Ngoài ra, trong đó còn có cả một số ghi
chú về tiểu sử bạn bè và đồng nghiệp của Yi Inno cùng lối sống và thị hiếu văn học
của họ. Cuốn P'ahan chip được coi là cuốn mở đầu cho một loạt những tác phẩm loại
này được sáng tác cuối thời Koryo và trong thời Vương triều Yi.
Hai bộ sử lớn của Hàn Quốc, Samguk sagi (Tam Quốc sử kí, 1146) của Kim
Pusik và Samguk yusa (Tam Quốc lưu sử, thế kỉ thứ XIII) của Iryon cũng đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển văn xuôi Hàn Quốc. Điều đó
thực ra không có gì lạ. Tại những quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Việt Nam,
ngày xưa không có sự phân biệt rạch ròi giữa văn học, sử học và triết học. Bộ Sử kí
của Tư Mã Thiên chẳng hạn, được coi là một kiệt tác của văn học Trung Hoa.

Bộ Samguk sagi (Tam Quốc sử kí, 1146) do Kim Pusik thực hiện theo lệnh của
nhà vua, với sự trợ giúp của mười viên quan khác trong triều. Là một người yêu nước,
Kim Pusik cảm thấy nhục nhã trước hiện tượng hầu hết những giới trí thức đương thời
chỉ làu làu kinh sách Trung Hoa mà xao nhãng việc ôn luyện và bảo tồn những di sản
của cha ông. Ông viết: “Những đấng trượng phu uyên bác thời nay tinh thông tư tưởng
Ngũ kinh và trước tác của những hiền triết Trung Hoa cũng như rất am tường lịch sử
Tần, Hán và những triều đại sau này, nhưng hỏi đến lịch sử nước nhà thì thảy đều lúng
túng, chẳng rõ đầu cuối ra sao. Than ôi, thật là đau lòng!”
1
1
Trích theo B. Riftin. Koreiskie predanie i legendi, Khodoestvennaia literature,
M.,1980, tr. 8.
Kim Pusik cùng các trợ lí thu thập trong tác phẩm của mình tất cả những tài liệu
có thể có được về lịch sử Hàn Quốc. Họ không viết sử về thời đại của họ mà chép
những chuyện về lịch sử Hàn Quốc cổ đại và tiền trung cổ (Samguk sagi kết thúc vào
những năm 30 của thế kỉ thứ X). Tác phẩm được viết theo lối biên niên, tương tự như
Sử kí của Tư Mã Thiên. Việc ông đặt tên cho tác phẩm của mình là Samguk sagi -
Tam Quốc sử kí - cũng cho thấy rằng ông chịu ảnh hưởng của Tư Mã Thiên, vị cha đẻ
của ngành sử học vùng Đông Á, sống trước ông hơn một ngàn năm.
Tư Mã Thiên bắt đầu tác phẩm của mình bằng chuyện về những vị vua huyền
thoại giống như Kim Pusik cũng bắt đầu lịch sử từng vương quốc với việc mô tả
những vương triều huyền thoại mà theo ông đã từng tồn tại hàng ngàn năm trước đó.
Ông mô tả bằng cách nào? Dễ hiểu rằng nhà sử học thế kỉ thứ XII phải dựa vào những
thần thoại, huyền thoại và truyền thuyết, không chỉ tồn tại trong dân gian mà cả trong
các tài liệu viết trước đó. Như ở trên đã nói, các bộ sử cổ của Hàn Quốc đều đã thất
lạc, vì thế tác giả chủ yếu phải dùng các tài liệu viết của Trung Hoa.
Vào thế kỉ thứ XIII, một nhà sư tên là Iryon (1206-1289) viết một bộ sử khác, có
thể coi như phần bổ sung cho bộ sách của Kim Pusik. Đó là bộ Samguk yusa (Tam
Quốc lưu sử). Samguk yusa chép lại những sự kiện mà Kim Pusik, vì lí do này hay lí
do khác, không đưa vào bộ sách của ông. Những lí do ấy, thực ra cũng dễ hiểu. Kim

Pusik là sử quan trong triều. Khi thực hiện công trình, ông luôn luôn tuân theo những
nguyên tắc của Khổng giáo, coi việc chép sử như là công cụ tốt nhất để loại trừ hay
chống lại những cách cai trị tồi, ca ngợi những cách cai trị tốt. Quan điểm này cuối
cùng dẫn đến việc lịch sử hoá các thần thoại và huyền thoại, trong khi đó lại lược bỏ
những yếu tố siêu nhiên và kì ảo, thứ đóng vai trò linh hồn thần thoại và tạo nên vẻ
đẹp thẩm mĩ cho các thế hệ độc giả sau này. Iryon hiểu rõ điều đó.
Iryon là một nhà sư. Đạo Phật, thứ tôn giáo phát sinh ở ấn Độ xa xôi, coi cuộc
sống trần gian chẳng qua là hư ảo, phù du, hoàn toàn xa lạ đối với cái mà chúng ta
thường gọi là thế giới quan lịch sử. Các nhà sư nói họ không bao giờ chép sử, trừ
trường hợp họ chép lịch sử truyền bá đạo Phật, như ở Tây Tạng. ở Trung Quốc, với
truyền thống sử học đạt đến trình độ hiếm có trên thế giới, trong số hàng ngàn sử gia,
hình như không hề có ai là Phật tử. Trường hợp Iryon có lẽ phải được giải thích bởi
chi tiết là từ nhỏ ông đã được học và thấm nhuần kinh sách của Khổng Tử, vốn được
coi như nền tảng của mọi học vấn trong hàng ngàn năm tại các nước trong vùng.
Trái với bộ sách của Kim Pusik, thuộc loại chính sử, nghĩa là được soạn ra theo
lệnh vua, bộ sách của Iryon thuộc loại dã sử. Trong bộ sách của mình, ông chép rất
nhiều truyện ma quả, thần linh những thứ rất không đáng khuyến khích theo quan
điểm Nho giáo. Vì lẽ đó, trong suốt thời trung cổ, nó ít nổi tiếng hơn nhiều so với bộ
sách của Kim. Mãi đến thế kỉ XIX, Lee Guryon, một nhà nho Hàn Quốc nổi tiếng
đương thời, vẫn còn gọi một cách khinh miệt Samguk yusa là “mớ truyện hoang
đường man rợ”. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà trong suốt thời trung cổ, ở một
nước Hàn Quốc có nghề in phát triển, cuốn sách tuyệt vời này chỉ được tái bản vài lần,
và kể từ năm 1512 cho đến thập kỉ 1920, không đuợc tái bản thêm một lần nào nữa.
Nhưng cuối cùng lịch sử đã trả lại vị trí xứng đáng cho Samguk yusa. Ngày nay,
nó được coi là một kiệt tác của văn học Hàn Quốc.
5. Văn học Hàn Quốc giai đoạn đầu thời Choson (1392 - 1598)
Một cách tự nhiên, văn học thời Vương triều Yi có thể chia làm hai giai đoạn, với
mốc phân chia là thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh với Nhật Bản (1597). Giai đoạn
đầu là giai đoạn thịnh vượng của thơ ca, còn giai đoạn thứ hai là thời của văn xuôi. Kế
thừa truyền thống văn học của Silla và Koryo, các nhà văn đầu thời Vương triều Yi đã

đưa văn học Hàn Quốc lên một tầm cao mới.
Đầu thời Yi cũng mở ra một kỉ nguyên mới của lịch sử văn học Hàn Quốc với
việc phát minh ra chữ viết Hangul (han'gul) vào năm 1443-1444, dưới triều Vua
Sejong. Chính nhờ phát minh vô cùng quan trọng này mà các nhà văn, nhà thơ Hàn
Quốc bắt đầu có thể ghi chép lại các tác phẩm của nhân dân và sáng tác bằng tiếng mẹ
đẻ.
Vua Sejong, thường gọi là Sejong Đại đế, không chỉ là người có công lớn trong
việc tổ chức và khuyến khích sự sáng tạo chữ Hangul mà còn ra lệnh cho các học giả
đương thời soạn ra bộ Yongbi och'on ka (Những khúc ca rồng bay), để ca ngợi quá
trình xây dưng vương triều Yi, đặc biệt là lòng dũng cảm và những phẩm chất tuyệt
vời của cha ông. Bản thân ông cũng là tác giả bộ Worin ch'ongang chigok (Những
khúc ca về ánh trăng trên ngàn con sông, 1447), ca ngợi cuộc đời Đức Phật. Hai tác
phẩm này là những thử thách đầu tiên, đồng thời chứng minh khả năng ứng dụng to
lớn của chữ Hangul với tư cách là một công cụ biểu đạt của văn học Hàn Quốc. Chúng
cũng trở thành những tác phẩm mẫu mực đầu tiên của một thể loại mới, akchang và có
ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của văn học dân tộc. Sijo (hay shijo - "thời
điệu") cũng là thứ thơ đặc trưng cho thời Choson. Loại thơ này hình thành cuối thời
Koryo, nhưng phát triển mạnh mẽ dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng mới thời Choson,
tư tưởng Tống Nho. Điều này được minh chứng bởi một thực tế là phần lớn các nhà
thơ sáng tác sijo là các nhà Nho và chủ đề của phần lớn các bài sijo cuối Koryo đầu
Choson là xoay quanh chữ Trung.
Sijo thường có cấu trúc đơn giản, gồm ba khổ: mở đầu, giữa và kết. Cấu trúc này
liên quan chặt chẽ với ý nghĩa thẩm mĩ của nó. Một đặc điểm của nó là hình thúc nhẹ
nhàng và tao nhã. Mặc dù có vẻ đơn giản, loại thơ này vẫn đạt được những hiệu quả
thẩm mỹ trọn vẹn. Có lẽ chính vì thế mà sijo được cả giới bình dân lẫn giai cấp
yangban ưa thích.
Nội dung của sijo rất đa dạng, từ mối quan hệ mạng tính lí tưởng của con người
với thiên nhiên (thường gắn liền với niềm kiêu hãnh của các nhà thơ về một cuộc sống
thanh bần nhưng cao thượng), lòng trung thành đối với chủ của bề tôi ở chốn lưu đày
đến những vấn đề sâu sắc nhất của tình cảm con người.

Cuối thời Choson, sasol sijo ("thời điệu kể chuyện") phát triển mạnh, cho phép
thể hiện những sắc thái tình cảm lãnh đạm của giới bình dân lúc đó. Sasol shijo bắt
nguồn từ p'yong ("bằng") shijo, trong đó khổ giữa và khổ cuối được cấu trúc dưới
dạng bốn chân, và có độ dài đáng kể. Vì lẽ đó, sasol shijo cũng được gọi là
changhyong ("dạng dài") shijo.
Kasa được viết bằng tiếng Trung Quốc nhưng vẫn được coi là một thể thơ trữ
tình truyền thống của Hàn Quốc và qua nó, các nhà văn thổ lộ tình yêu của mình đối
với vẻ đẹp của thiên nhiên. Người ta thường đánh giá kasa và sijo là hai loại vĩ đại của
thơ Hàn Quốc thời Choson.
Kasa là một loại thơ có hình thức đơn giản, với những “cặp” thơ, mỗi câu gồm ba
hoặc bốn âm tiết, lặp lại bốn lần. Vì nội dung của nó rất phong phú, một số nhà nghiên
cứu nhìn nhận kasa như là một lối văn nghị luận, với những ví dụ tiêu biểu đầu thời
Choson như Sangch'ungok (Khúc ca ngợi mùa xuân) của Chong Kukin;
Myonangjongga (Khúc hát lầu Myonangjong) của Song Sun; và Kwandong pyolgok
(Bài hát của Kwandong), Samiingok (Khúc tưởng nhớ một mĩ nhân) và Songsan
pyolgok (Bài ca núi Songsan) của Chong Ch'iol, v.v. Chủ đề chính của những bài kasa
này là: ngắm cảnh để ngẫm sự đời; gương của các thánh nhân biết kết hợp anbin nakto
(vui với cảnh thanh bần để giữ Đạo); và tình yêu nam nữ như là ẩn dụ của lòng trung
thành của thần dân với Hoàng đế.
Về sau, nối tiếp Pak Illo với Sonsangt'an (Khúc bi ca trên boong tàu) và
Nuhangsa (Lời đường phố), chúng ta gặp trong kasa cuối thời Koryo chủ đề "xuất
ngoại" như trong Iltong chang-yuga (Khúc ca về cuộc Đông du oanh liệt) của Kim
Ingyom và Yonhaengga của Hong Sunhak. Ngoài ra, chúng ta còn thấy một loại kasa
do phụ nữ viết rất phổ biến, naebang kasa (kasa của xóm đàn bà). Càng về sau kasa
càng có nhiều thay đổi, cả về độ dài lẫn về tính thông tục.
Trong số những nhà thơ viết kasa, Chong Ch'iol và Ho Nansorhon được coi là
những tác giả lớn nhất.
Ngay cả sau khi có chữ Hangul, nhiều tác phẩm văn xuôi vẫn tiếp tục được sáng
tác bằng chữ Hán. Tập truyện Kumo sinwha (Những truyện mới từ núi Rùa Vàng) của
Kim Sisup (1435 - 1493) chẳng hạn, là một tác phẩm điển hình cho thể loại truyện

truyền kì (ch'uanch'i). Chỉ quyển đầu gồm 5 truyện là còn lại đến ngày nay, trong đó ta
thấy các truyện có diễn biến và kết cục bi thương, khác với diễn biến và kết cục có hậu
kiểu Trung Quốc của văn học thời kì đầu. Về đề tài, thường là chuyện người yêu ma,
những cuộc mộng du tới âm phủ hay tới thuỷ cung. Hai tập tạp văn, P'aegwan chapki
(Tạp kí của người kể chuyện) của O Sukkwon và Yongjae ch'onghwa (Những chuyện
vặt vãnh của yongjae) của Song Hyon, tuy được viết bằng chữ Hán nhưng có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của văn xuôi tiếng Hàn trong nửa sau vương triều Yi.
6. Văn học Hµn quèc cuối thời Choson (1598-1894)
Việc văn xuôi thay cho văn vần đóng vai trò chủ đạo sau cuộc chiến tranh với
Nhật Bản thể hiện một bước phát triển quan trọng hướng tới một nền văn học hiện đại.
Nó cũng phản ánh những thay đổi cơ bản trong quan niệm triết học của toàn xã hội
Hàn Quốc đương thời. Xã hội Hàn Quốc dưới thời Vương triều Yi chịu ảnh hưởng
nặng nề của tính chất cứng nhắc xuất phát từ thứ giáo điều của các quan lại Nho học.
Cũng phải nói rằng thứ Nho giáo mà chúng ta đang nói là Nho giáo dựa trên những
nguyên tắc của nhà triết học Trung Quốc thế kỉ XII, Chu Hsi. Học thuyết "Tân - Nho
giáo" này dần dần được thay thế bởi Sirhak, hay Silhak (Học vấn thực tế), một trường
phái tư tưởng dựa trên lí trí và tinh thần phê phán khoa học. Sự thâm nhập của Thiên
Chúa giáo từ phương Tây và tư tưởng khoa học mới từ Trung Quốc thúc đẩy các quá
trình cải cách xã hội.
Học vấn thực tế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động
văn học và thức tỉnh ý thức tự giác của đông đảo nhân dân. Thơ, thể loại văn học trước
kia hầu như chỉ dành riêng cho tầng lớp có học cao, bây giờ bắt đầu được giới bình
dân sáng tác. Phụ nữ cũng được tiếp nhận ngày càng rộng rãi vào đời sống văn học của
đất nước, tuy chủ yếu mới chỉ như là các độc giả chính của truyện truyền thống. Sự
xuất hiện hàng loạt bộ sưu tầm thơ sijo và truyện kể cho thấy rằng mối quan tâm và
hứng thú của công chúng trong việc tìm lại những giá trị quá khứ.
Những truyện hư cấu đầu tiên của Hàn Quốc là Kumo shinhwa (Truyện Kumo)
của Kim Shisup bằng chữ Hán và Hong Kiltong chon (Truyện Hong Kiltong) của Ho
Kyun bằng chữ Hangul. Kể từ thế kỉ XVII, mặc dù người Hàn đã có chữ Hangul, loại
truyện kiểu Kumo shinhwa vẫn tiếp tục được sáng tác bằng chữ Hán, và thậm chí còn

nhiều hơn, đồng thời số người đọc loại truyện này cũng tăng đáng kể. Đặc biệt phổ
biến là p'ansori (truyện hát), một loại văn học xuất hiện cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ
XVIII. Là một nghệ thuật trình diễn. P'ansori kết hợp rất hài hoà với âm nhạc. Do nội
dung đã được "truyện hoá", nó có vai trò rất lớn trong sự phát triển của truyện hư cấu
cổ điển. Trong hai thế kỉ XVII và XIX, loại truyện cổ điển này ngày một nhiều và
phong phú. Lúc bấy giờ nghề cho thuê sách cũng rất phát đạt cùng với sự thịnh vượng
của ngành xuất bản.
Các nhân vật xuất hiện trong Kumo shinhwa là hiện thân của quan niệm về
chaejagain ("trai tài gái sắc"). Tác phẩm cũng vận dụng đến mức triệt để phong cách
biểu hiện thẩm mĩ trong truyền thống văn học chữ Hán. Cùng với những đặc điểm này,
Kumo shinhwa còn mang nhiều yếu tố của truyện thần bí (chongisosol), trong đó nội
dung truyện ít nhiều kì ảo và không lệ thực.
Giữa thời Choson, nhiều truyện kiểu ngụ ngôn xuất hiện, như Susongji (Bài kí về
nỗi đau buồn) của Im Je và Talch'on mongnyurok (Bài kí về chuyến mộng du tới
Talch'on) của Yun Kyeson. Nhưng đến cuối thời Choson, các tác giả như Pak Chiwon
và Yi Eok đã viết những tác phẩm hiện thực bằng chữ Hán. Các tác phẩm như
Hosaengjon (Truyện nhà Nho Ho), Yangbanjon (Một truyện Yangban) và Hojil
(Tiếng hổ gầm) của Pak Chi-won và Shimsaengjon (Truyện nhà Nho Shim) của Yi
chẳng hạn, đều tuân thủ những qui ước chính thống của lí luận văn học cổ điển Trung
Hoa. Nhân vật trong các tác phẩm này khá đa dạng, từ thương nhân, nhà giàu đến kẻ
trộm và kisaeng (kĩ nữ). Nội dung chính của các tác phẩm này là sự phê phán sâu cay
những tệ nạn xã hội và những chuyện nực cười trong đời sống thường ngày. Cùng với
truyện viết bằng chữ Hangul cuối thời Choson, truyện chữ Hán mở ra những con
đường mới của văn xuôi Hàn Quốc.
Sự ra đời của loại truyện tiểu thuyết viết bằng ngôn ngữ Hàn Quốc là hệ quả trực
tiếp của việc sáng tạo ra chữ Hangul. Nối tiếp Hong Kiltong chon của Ho Kyun, cuốn
tiểu thuyết đầu tiên bằng ngôn ngữ Hàn Quốc, viết vào thế kỉ XVII, là hàng loạt tác
phẩm khác như Kuunmong (Giấc mơ chín tầng mây) và Sassi namjonggi (Ghi chép
của bà Sa về chuyến du hành về phương Nam) của Kim Manjung. Hong Kiltong chon
đả phá kịch liệt thái độ phân biệt đối xử của giai cấp cầm quyền đối với nguồn gốc của

trẻ em. Đó là một bình luận xã hội sâu sắc, tấn công vào sự bất bình đẳng thời Choson.
Cuối thời Choson, truyện p'ansori (p'ansori gye sosol) xuất hiện, dựa trên cơ sở
một loại hình nghệ thuật truyền miệng trước đó. Những truyện p'ansori như
Ch'unhyangjon (Truyện Ch'unhyang), Shimch'yoongjon (Truyện Shimch'yong), và
Hungbujon (Truyện Hungbu) không còn kể về những nhân vật siêu nhiên, mà kể về
những kiểu người thực trong xã hội đương thời. Đa số các tác phẩm này xoay quanh
những quan hệ ngẫu nhiên có thể xảy ra trong đời thực hơn là những sự trùng hợp.
Ngoài đặc điểm là sự hoà trộn văn vần và văn xuôi, các truyện này còn được đặc trưng
bởi sự kết hợp khá tinh tế ngôn ngữ văn học cổ điển với tiếng lóng và những lối nói dí
dỏm của tầng lớp bình dân. Những tác phẩm này cho ta thấy một bức tranh đa diện và
rộng lớn của đời sống xã hội cuối thời Choson.
Ngoài loại truyện vừa nói, thời Choson còn có một loại truyện khác ghi lại những
chuyện riêng tư trong triều đình như Inhyon Wanghujon (Truyện Hoàng hậu Inhyon)
và Hanjungnok (Sách chép những cảm nghĩ lúc an nhàn).
7. Văn học Hµn Quèc giai đoạn chuyển tiếp (1894-1910) và bước chuyển biến đến
thời kỳ văn học hiện đại
Về mặt xã hội, văn học hiện đại Hàn Quốc là kết quả của sự phản kháng đối với
nền tảng của xã hội phong kiến đang tan rã dưới thời Vương triều Choson, sự du nhập
các tư tưởng mới từ phương Tây và thực tiễn chính trị của Nhật, một đế quốc đang nổi
lên ở Đông Á. Giai đoạn đầu tiên của sự hình thành nền văn học hiện đại Hàn Quốc
kéo dài từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX và được gọi là văn học thời đại Khai
Sáng (kaehwa kyemong).
Vào thời điểm của những cải cách 1894, ở khắp đất nước đã có nhiều thay đổi về
xã hội và tinh thần cho phép nền văn học chuyển hoá từ truyền thống sang hiện đại.
Tuy vậy, tư tưởng bảo thủ của một phần khá đông giới cầm quyền không thể chấp
nhận, lại càng không thể khuyến khích những thay đổi đột ngột trong cấu trúc chính trị
và xã hội của đất nước. Văn học cũng không thoát khỏi tình trạng đó, và chúng ta được
chứng kiến một giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn chuyển mình của văn học để tự hiện
đại hoá và phát triển.
Những chuyển biến từ văn học truyền thống sang văn học hiện đại chịu tác động

trực tiếp và mạnh mẽ của hệ thống giáo dục mới và phong trào văn học và ngôn ngữ
Hàn Quốc (Korean Language and Literature movement). Sau những cải cách Kabo
năm 1894, nhất là từ khi có chiếu Vua ban về giáo dục 1895, hàng loạt trường học
theo kiểu phương Tây được thành lập, sử dụng loại sách giáo khoa mới có tác dụng
truyền bá những kiến thức phương Tây. Nhiều nhóm trí thức cũng được thành lập và
sau đó không lâu là các phong trào Khai Sáng. Đồng thời, sự thành lập Viện Nghiên
cứu Ngôn ngữ Hàn Quốc cùng với những nghiên cứu khoa học cho phép củng cố và
hệ thống hoá ngữ pháp tiếng Hàn. Tất cả những hoạt động này góp phần đáng kể vào
quá trình hiện đại hoá văn học Hàn Quốc. Quan niệm cho rằng tất cả mọi người đều
bình đẳng đã trở thành chủ đề quen thuộc và tấn công mạnh mẽ vào xã hội truyền
thống vốn không bình đẳng.
Văn học thời kì Khai Sáng thu hút được một số lượng độc giả ngày càng lớn nhờ
những phương tiện thông tin đại chúng mới mẻ như báo và tạp chí, trong đó phải kể
đến những tờ báo và tạp chí bằng tiếng Hàn ra đời, như Tongnip sinmun (Độc lập) và
Cheguk sinmun (Điện báo Hoàng gia) Phần lớn các tờ thời đó có in sijo, kasa và cả
tiểu thuyết dài kì. Cũng chính vào thời gian này, tầng lớp nhà văn chuyên nghiệp dần
dần được hình thành. Ngành kinh doanh xuất bản xuất hiện và có thể đứng vững được
nhờ có kỹ nghệ in ấn. Những công ti xuất bản đầu tiên của Hàn Quốc xuất hiện.
Những thể loại văn học đầu tiên nổi bật trong đời sống văn học sau những cải
cách năm 1894 là shinsosol (tân tiểu thuyết) và ch'angga (bài hát theo lối mới). Những
hình thức văn học truyền thống được làm sống dậy bằng cách phóng tác các tác phẩm
văn học nước ngoài hoặc bằng cách viết lại các tác phẩm cổ điển bằng tiếng mẹ đẻ.
Lúc bấy giờ, ch'angga (bài hát lối mới) và shinch'eshi (thơ mới) được chào đón
nhiệt liệt như là những hình thức thơ tân tiến. Chúng có vai trò rất lớn trong việc hình
thành và phát triển chayushi (thơ tự do) hiện đại sau này. Tiếp nhận những ảnh hưởng
của thơ phương Tây, shinch'eshi từ bỏ những niêm luật cứng nhắc của thơ truyền
thống, mở đường cho những phong cách mới trong tác phẩm của các nhà thơ như
Ch'oe Namson với Hae egeso sonyon ege (Từ Biển đến Trẻ thơ - 1908), Kkot tugo
(Đặt hoa xuống) và T'aebaeksan shi (Những bài thơ về núi T'aebaeksan) Cùng với
hình thức mới mẻ, có rất nhiều ví dụ cho thấy trong đó tiếng thơ bị chính trị hoá, điều

hoàn toàn trái ngược với thứ thơ trữ tình truyền thống vốn chỉ tập trung biểu hiện
những cảm xúc cá nhân.
Cũng trong thời kỳ này, Tân tiểu thuyết (shinsosol) được phổ biến ngày càng
rộng rãi cùng với sự hình thành tầng lớp nhà văn chuyên nghiệp mà những tên tuổi
hàng đầu là Yi Injik, Yi Haecho, Ch'oe Ch'anshik và Kim Koje. Tiếp theo Hyoluinu
(Huyết lệ, 1906), Kwi ui song (Tiếng quỉ, 1907) và Ensegye (Thế giới bạc, 1908) của
Yi Injik, là Kumagom (Thanh gươm trừ tà) và Chayujong (Chuông tự do, 1910) của
Yi Haecho. Ch'oe Ch'anshik cũng rất nổi tiếng với Ch'uwolsaek (Màu trăng thu,
1912). Tất cả các shinsosol đều được sáng tác bằng chữ Hangul, do đó được truyền bá
hết sức rộng rãi.
Trong các tác phẩm shinsosol (tân tiểu thuyết) có thể thấy rõ sự kế thừa ba yếu tố
truyền thống. Thứ nhất, đó là quan điểm đạo đức mang tính nền tảng của xã hội Hàn
Quốc, lên án cái ác và tôn vinh cái thiện. Do không khí xã hội của thời đại Khai Sáng,
ủng hộ công cuộc canh tân đất nước được nhìn nhận như là cái thiện còn bảo thủ là cái
ác. Thứ hai, sự phát triển của cốt truyện phụ thuộc rất nhiều vào những sự trùng hợp
ngẫu nhiên, và các tình tiết nhiều khi không hề có liên hệ nhân quả nào. Cuối cùng, lời
thoại và lời kể thường trộn lẫn vào nhau.
Tuy vậy, trong các tác phẩm shinsosol có một số đặc điểm hoàn toàn mới mẻ:
Chúng được viết hoàn toàn bằng văn xuôi trong khi một phần đáng kể của truyện
truyền thống Hàn Quốc được viết bằng văn vần. Các tác giả shinsosol cố gắng mô tả
cuộc sống con người thông qua những sự kiện và bối cảnh gần gũi với đời thực, trong
khi truyện truyền thống luôn luôn có xu hướng lặp lại những tác phẩm được coi là mẫu
mực với một số cốt truyện và nhân vật cũng đã trở thành khuôn mẫu. Trong các tân
tiểu thuyết người ta rất ít khi gặp thế giới phi hiện thực từng đóng vai trò hết sức quan
trọng đối với cốt truyện truyền thống. Và chính trong các shinsosol, lần đầu tiên xuất
hiện lối kể chuyện không theo trình tự thời gian. Các tác giả bắt đầu sử dụng khẩu ngữ,
điều khiến tác phẩm của họ rất gần với tiểu thuyết hiện đại.
Thông qua tác phẩm của mình, các tác giả này cổ vũ công cuộc hiện đại hoá, ca
ngợi tinh thần đấu tranh cho tự do và độc lập dân tộc, kêu gọi thông thương với các
quốc gia tiên tiến. Họ cũng là những người tích cực vận động cho việc du học ở nước

ngoài, truyền bá khoa học kĩ thuật và bài trừ mê tín dị đoan và những tập tục lạc hậu.
Đến thời gian trước khi Nhật xâm chiếm Hàn Quốc năm 1910, shinsosol bắt đầu
biến đổi đáng kể. Các tác phẩm về sau thường chú trọng đến thân phận của nhân vật
với những chuyện tình phần lớn là cũ và khuôn sáo. Tiểu thuyết hiện đại của Hàn
Quốc được coi là bắt đầu vài năm sau khi Nhật xâm chiếm Hàn Quốc với tác phẩm của
Yi Kwangsu.
Ch'oe Namson cũng như Yi Kwangsu và các nhà văn cùng thời với họ đều chưa
thoát khỏi hoàn toàn những chuẩn mực của văn học truyền thống. Họ chưa thể hiện đại
hoá hoàn toàn cách diễn đạt cũng như lối sử dụng điển tích đã trở nên nặng nề và mòn
sáo.
Giai đoạn này cũng là giai đoạn phát triển mạnh của truyện tiểu sử, loại truyện
được sáng tác dựa trên thị hiếu của trào lưu Khai Sáng, nhằm mục đích hun đúc tinh
thần yêu nước và khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Những tác phẩm điển hình của thể loại
này là Aeguk puinjon (Truyện một phụ nữ yêu nước, 1907) của Chang Jiyon, và Elchi
Mundok của Shin Ch'ae-ho, 1908. Những truyện tiểu sử này dựng lên hình ảnh những
anh hùng với những phẩm chất mà thời đại lúc đó đòi hỏi. Cuốn Kumsu hoeuirok
(Ghi chú về cuộc gặp gỡ của chim và thú, 1908) của An Kukson là một ví dụ khác:
thông qua lời nói của loài vật, nó phê phán những thói đồi bại về luân lí trong thế giới
con người.
Sau thời kỳ này, văn học Hàn Quốc bước vào thời kỳ hiện đại, với ba mốc lớn là
văn học thời kỳ Nhật thuộc (thời kỳ bị Nhật chiếm đóng), thời kỳ đất nước bắt đầu bị
chia cắt và thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao độ./.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Trung tâm Dịch vụ thông tin hải ngoại Hàn Quốc. Hàn Quốc (Đất nước - con ng-
ười). Seoul, 1993.
2. Jeannie .J. Park, Edward J. Park, Sylvia R. Chwe, Beckhee và một số người khác.
Hàn Quốc xin chào bạn. Cục Thông tin Hàn Quốc. Seoul, 1999.
3. Nguyễn Vĩnh Sơn. Tìm hiểu Hàn Quốc. Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức
bách khoa - Trung tâm Quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam. Hà Nội,

1996.
Tiếng Anh
1. Korea Information Service. A Guide to Korean Cultural Heritage. Seoul, 1998.
2. The Korea Overseas Culture and Information Service. A handbook of Korea.
Seoul, 1998.
3. Korea Information Service & Government Information Agency. Facts about
Korea. Seoul, 1999
4. Korea Information Service. Pictorial Korea. 2000, 2001.
Tiếng Nga
B. Riftin. Koreiskie predanie i legendi. Khudodjestvennaia literatura, M.,1980.
Và một số tài liệu khác do Đại sứ quán Cộng hòa Đại Hàn Dân Quốc tại Việt
Nam cung cấp.

×