Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Di sản văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.8 KB, 13 trang )

Khái Niệm
Di sản văn hóa ("di sản quốc gia hoặc chỉ "di sản") là di sản của vật lý hiện vật ( Tài sản văn hóa ) và các
thuộc tính phi vật thể của một nhóm hay một xã hội được thừa kế từ các thế hệ trong quá khứ, duy trì trong
hiện tại và ban cho lợi ích của các thế hệ tương lai. Di sản văn hóa bao gồm văn hoá vật thể (như các tòa
nhà, di tích, cảnh quan, sách, tác phẩm nghệ thuật và đồ tạo tác), văn hóa phi vật thể (chẳng hạn như văn
hóa dân gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức), và di sản tự nhiên (bao gồm cả cảnh quan văn hóa có
ý nghĩa, và đa dạng sinh học ).
Các hành động cố ý giữ di sản văn hóa từ hiện tại cho tương lai được gọi là bảo tồn(Anh Mỹ) hoặc bảo
tồn (tiếng Anh), mặc dù các điều khoản này có thể có ý nghĩa cụ thể hơn, kỹ thuật trong bối cảnh tương tự
trong các phương ngữ khác.
Di sản văn hóa là duy nhất và không thể thay thế, đặt trách nhiệm bảo quản trên các thế hệ hiện tại. Đối
tượng nhỏ hơn như tác phẩm nghệ thuật và các kiệt tác văn hóa khác được thu thập trong các
bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật . cỏ rễ tổ chức và các nhóm chính trị, chẳng hạn như cơ thể quốc
tế của UNESCO , đã thành công được sự hỗ trợ cần thiết để bảo tồn di sản của nhiều quốc gia cho tương
lai
Phân Loại
tài sản văn hóa
Tài sản văn hóa bao gồm di sản vật lý, hoặc "hữu hình" văn hóa, chẳng hạn như các tòa nhà và di tích lịch
sử, di tích , sách, tài liệu, tác phẩm nghệ thuật, máy móc, quần áo, và đồ tạo tác khác, được coi là xứng
đáng bảo quản cho tương lai. Chúng bao gồm các đối tượng quan trọng, khảo cổ học, khoa học, kiến trúc
hoặc công nghệ của một nền văn hóa cụ thể.
Các khía cạnh và lĩnh vực bảo quản và bảo tồn văn hoá vật thể bao gồm:
 Bảo Tàng
 Lưu trữ khoa học
 Bảo tồn, phục hồi
 Nghệ thuật bảo tồn
 Kiến trúc bảo tồn
 Phim bảo quản
 Máy hát hồ sơ bảo quản
 Kỹ thuật số bảo quản
phi vật thể văn hóa.


"Di sản văn hóa phi vật thể" bao gồm các khía cạnh phi vật chất của một nền văn hóa cụ thể, thường
xuyên duy trì tập quán xã hội trong một khoảng thời gian cụ thể trong lịch sử. Cách thức và phương
tiện của hành vi trong xã hội, và các quy tắc thường chính thức để hoạt động trong một khí hậu văn
hóa đặc thù. Chúng bao gồm các giá trị xã hội và truyền thống , phong tục , tập quán, tín ngưỡngthẩm
mỹ và tinh thần , thể hiện nghệ thuật , ngôn ngữ và các khía cạnh khác của hoạt động của con
người. Tầm quan trọng của vật lý hiện vật có thể được hiểu trong bối cảnh kinh tế xã hội, các giá trị
chính trị, dân tộc, tôn giáo và triết học của một nhóm đặc biệt của người dân. Đương nhiên, di sản văn
hóa phi vật thể là khó bảo quản hơn so với các đối tượng vật lý.
Các khía cạnh của việc bảo tồn và bảo tồn tài sản vô hình văn hóa bao gồm:
 Văn hóa dân gian
 Lịch Sử
 Ngôn ngữ bảo quản
Di sản thiên nhiên
" Di sản thiên nhiên "cũng là một phần quan trọng của di sản của một xã hội, bao gồm các vùng
nông thôn và môi trường tự nhiên, bao gồm cảthực vật và động vật, thực vật , khoa học được gọi
là đa dạng sinh học , cũng như các yếu tố địa chất (bao gồm cả khoáng vật, địa mạo, cổ sinh vật học,
vv), khoa học được biết đến như geodiversity . Những loại của các trang web di sản thường phục vụ
như là một thành phần quan trọng trong ngành công nghiệp du lịch của một quốc gia , thu hút nhiều du
khách từ nước ngoài cũng như tại địa phương. Di sản cũng có thể bao gồm các cảnh quan văn hóa
(tính năng tự nhiên có thể có các thuộc tính văn hóa).
Các khía cạnh của việc bảo tồn và bảo tồn các di sản thiên nhiên bao gồm:
 Thực vật dân tộc
 Hiếm giống bảo tồn
 Gia truyền nhà máy
Di sản thế giới được công nhận
Hiện tại, Việt Nam đã có 7 di tích được UNESCO công nhận là Di sản thế giới gồm:
 2 Di sản thiên nhiên thế giới:
1. Vịnh Hạ Long, được công nhận hai lần, năm 1994, là di sản thiên nhiên thế giới, và năm2000, là di
sản địa chất thế giới theo tiêu chuẩn N (I) (III).
2. Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, năm 2003, là di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chuẩn N

(I).
 5 Di sản văn hóa thế giới gồm:
1. Quần thể di tích Cố đô Huế, năm 1993, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn C (III) (IV).
2. Phố Cổ Hội An, năm 1999, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn C (II) (V).
3. Thánh địa Mỹ Sơn, năm 1999, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn C (II) (III).
4. Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, năm 2010, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu
chuẩn C (II) (III) và (VI).
5. Thành nhà Hồ, năm 2011, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn C (I)
Di sản chưa được xác lập
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
Hồ Ba Bể
Vườn quốc gia Cúc Phương
Cố đô Hoa Lư
Chùa Hương
Bãi đá cổ Sa Pa
Di sản khác
Nhã nhạc cung đình Huế
Ngày 7/11/2003, lần đầu tiên một di sản phi vật thể của Việt Nam đã được công nhận là di sản
nhân loại với mục “Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”. Đó là Nhã nhạc Huế, kiệt
tác âm nhạc cung đình, cô đọng những tinh hoa của âm nhạc chính thống Việt Nam và có nguy cơ
biến mất.
Nhã nhạc là sự hòa hợp tối đa của nhạc, hát và múa. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức
diễn xướng, nội dung bài bản... của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định
chế thẩm mỹ rất cao. Hệ thống bài hát rất phong phú, với hàng trăm nhạc chương, lời ca bằng chữ
Hán do Bộ Lễ biên soạn. Nội dung thể hiện tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ,
hướng về việc suy tôn công đức, cầu sự thái bình thịnh trị…
Khi các nhạc chương được hát lên, có các đội ngũ Bát dật múa phụ họa với hơn 100 người, ăn mặc
lộng lẫy tạo nên một khung cảnh uy nghi tráng lệ. Kèm theo đó là bản hòa tấu của nhiều nhạc cụ
với quy mô hoành tráng như Đại nhạc với 42 nhạc sinh, Huyền nhạc với 26 nhạc sinh... Trong đó
các nhạc cụ gõ như chuông, khánh, trống, chúc, ngữ đóng vai trò quan trọng, không chỉ trong hòa

tấu mà trong việc mở đầu và kết thúc buổi trình diễn.
Nhã nhạc được coi là quốc nhạc của âm nhạc Việt Nam, có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn qua nhiều
triều đại phong kiến ở Việt Nam. Nhã nhạc ra đời từ thời Lý (1010-1025), có hoạt động quy củ từ
thời Lê (1427- 1788) và phát triển rực rỡ vào thời Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Minh Mạng
(1820-1840). Nó được các triều đại quân chủ Việt Nam hết sức coi trọng, coi là một biểu tượng
cho vương quyền về sự trường tồn và hưng thịnh của quốc gia. Nhã nhạc với các thể loại như Giao
nhạc, Đại Yến, Miếu nhạc… trong các lễ tế đại triều, thường triều, mừng thọ, lễ đăng quang, lễ
tang, lễ tiếp đón sứ thần…
Tuy nhiên, cùng với sự sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam, nhã nhạc ngày nay đã mất đi diện
mạo xưa, bị mờ nhạt và có nguy cơ biến mất. Việc được công nhận là di sản văn hóa UNESCO
hứa hẹn sự bảo tồn và phục hồi nhã nhạc, thể loại âm nhạc bác học đỉnh cao của dân tộc.
Cồng chiêng Tây Nguyên
Ngày 25-11-2005, văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam, di sản thứ hai sau Nhã Nhạc
Huế, được UNESCO công nhận là "Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại". Đây

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×