Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Quản lý là gì thế nào là quản lý kinh doanh, quản lý doanh nghiệp quản lý kinh doanh có tính khoa học, tính nghệ thuật và tính nghề nghiệp sâu sắc bằng những kiến thức đã học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.55 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

TIỂU LUẬN
KHOA HỌC QUẢN LÝ

Chủ đề 1:
Quản lý là gì? Thế nào là quản lý kinh doanh, quản lý doanh
nghiệp? Quản lý kinh doanh có tính khoa học, tính nghệ
thuật và tính nghề nghiệp sâu sắc. Bằng những kiến thức đã
học của khoa học quản lý, anh (chị) hãy chứng minh nhận
định trên.


Mục lục
A. Mở đầu...............................................................................................................3
B. Nội dung.............................................................................................................4
1. Khái niệm về quản lý.....................................................................................4
2. Các chức năng của quản lý............................................................................5
3. Quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp............................................6
3.1. Thực chất của quản lý kinh doanh.........................................................6
3.2. Bản chất của quản lý kinh doanh...........................................................7
4. Quản lý kinh doanh có tính khoa học, tính nghệ thuật và tính nghề
nghiệp sâu sắc......................................................................................................7
4.1. Quản lý kinh doanh có tính khoa học....................................................7
4.2. Quản lý kinh doanh mang tính nghệ thuật...........................................8
4.3. Quản lý kinh doanh là một nghề............................................................8
5. Những vấn đề rút ra qua ba khái niệm trên................................................9
C.

Kết luận..........................................................................................................10



A. Mở đầu.
Từ xa xưa khi các hoạt động trong xã hội cịn tương đối đơn giản với quy
mơ chưa lớn, công tác quản lý được thực hiện trên cơ sở kinh nghiệm với sự linh
hoạt nhạy bén của người đứng đầu tổ chức. Kinh nghiệm ngày càng phong phú và
người ta rút ra được những từ đó những điều mang tính quy luật có thể vận dụng
trong nhiều tình huống tương tự. Ngày nay hoạt động quản lý chủ yếu dựa trên cơ
sở khoa học; qua tổng kết khái quát từ thực tiễn sinh động để trở thành khoa học
quản lý. Trong xã hội theo nghĩa rộng quản lý có thể là quản lý cả một đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi các loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ xuất hiện nhiều và phát triển một cách nhanh chóng. Nhưng cũng có khơng ít
các doanh nghiệp cũng phải phá sản hoặc chuyển sang loại hình doanh nghiệp khác
là do việc quản lý không phù hợp, lỏng lẻo, chưa coi đó là cái cột chính để đỡ nóc
nhà mặc dù nền móng là nhân lực và vốn đã vững chắc. Đó chính là lý do để chúng
ta thấy quản trị có vị trí như thế nào trong doanh nghiệp. Nó vừa có nghĩa bao gồm
quản lý con người (hoặc nhiều người), giới vơ sinh (máy móc thiết bị, đất đai,
thông tin)... hoặc giới sinh vật (cây trồng, vật nuôi...) kinh doanh để phát triển sản
xuất và doanh nghiệp. Vì lý do đó em đã chọn đề chủ đề 1 : "Quản lý là gì? Thế
nào là quản lý kinh doanh, quản lý doanh nghiệp? Quản lý kinh doanh có tính
khoa học, tính nghệ thuật và tính nghề nghiệp sâu sắc. Bằng những kiến thức
đã học của khoa học quản lý, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên".


B. Nội dung.
1. Khái niệm về quản lý.
Chức năng quản lý phát sinh từ sự cần thiết phải phối hợp hành động của các
cá nhân, các bộ phận trong tổ chức, nhằm thực hiện mục tiêu chung được đặt ra
cho tổ chức.
Quản lý là một khái niệm có hàm xác định song lâu nay thường có các cách
định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được thể hiện bằng thuật ngữ khác nhau. Thực

chất của quản lý là gì? (hoặc quản lý trước hết, chủ yếu là gì? ) cũng có những
quan niệm khơng hồn tồn giống nhau. Tuy nhiên với sự phát triển của khoa học,
quản lý đã cơ bản được làm sáng tỏ để có một cách hiểu thống nhất.
Quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức, mọi hành động của các cá
nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện
mục tiêu chung của tổ chức.
Quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
một cách liên tục, có tổ chức, liên kết các thành viên trong tổ chức hành động
nhằm đạt tới mục tiêu với kết quả tốt nhất. Quản lý bao gồm các yếu tố:
+ Phải có một chủ thể quản lý là các tác nhân tạo ra tác động quản lý và một
một đối tượng bị quản lý. Đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận và thực hiện tác
động quản lý. Tác động quản lý có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục
nhiều lần.
+ Phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn
cứ chủ yếu để tạo ra các tác động. Chủ thể quản lý có thể là một người, nhiều
người. Cịn đối tượng bị quản lý có thể là người hoặc giới vơ sinh (máy móc, thiết
bị, đất đai, thơng tin, hầm mỏ...) hoặc giới sinh vật (vật nuôi, cây trồng...)
Từ những khái niệm nêu trên ta thấy đối tượng chủ yếu và trực tiếp của quản
lý là những con người trong tổ chức; thơng qua đó tác động lên các yếu tố vật chất
(vốn, vật tư, công nghệ) để tạo ra kết quả cuối cùng của toàn bộ hành động. Vì khi


xét về thực chất, quản lý trước hết và chủ yếu là quản lý con người (trong bất cứ
hành động nào).
Xác định như vậy để thấy con người là yếu tố quyết định trong mọi hành
động, hồn tồn khơng có nghĩa là nội dung các chức năng quản lý nhân sự (một
bộ phận trọng yếu của quản lý). Điều này đã được nhiều nhà khoa học quản lý
nhấn mạnh qua cách thể hiện như: "Quản lý là một quá trình làm cho những hành
động được hoàn thành với hiệu quả cao, bằng và thông qua những người khác
(S.P.Robbing) và "Các nhà quản lý có trách nhiệm duy trì các hành động làm cho

các cá nhân có thể đóng góp tốt nhất và các mục tiêu của nhóm" (H. Koontz, C.O'
donnell,...).

2. Các chức năng của quản lý.
Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều loại công việc khác nhau.
Những loại công việc quản lý này được gọi là các chức năng quản lý. Như vậy các
chức năng quản lý là những công việc quản lý khác nhau mà chủ thể quản lý (các
nhà quản lý) phải thực hiện trong q trình quản lý một tổ chức. Phân tích chức
năng quản lý nhằm trả lời câu hỏi: các nhà quản lý phải thực hiện các cơng việc gì
trong q trình quản lý?
Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng trong quá trình
quản lý. Vào những năm 1930, Gulick và Urwich nêu lên 7 chức năng của quản lý
trong từ viết tắt POSDCORB: P: Planning - lập kế hoạch, O: organnizing - tổ chức,
S: Staffing - Quản trị nhân sự, D: Directing - chỉ huy, CO: Coordinating - phối
hợp, R: Reviewing - kiểm tra, B: Budgeting - tài chính. Henry Fayol nêu 5 chức
năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. Trong những năm 60,
Koontx và O'Donnell nêu 5 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, quản trị nhân sự,
điều khiển và kiểm tra. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, giữa các
giáo sư đại học Mỹ cũng khơng có sự thống nhất về cách thức phân chia các chức
năng quản trị, James Stoner chia thành 4 chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra. Cũng tương tự như thế, Stephen Robbin chia thành 4 chức năng:


lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Andang và Stearns chia thành 4 chức
năng: Lập kế hoạch, tổ chức và quản trị nhân sự, điều khiển và kinh tế. Các chức
năng như lập kế hoạch. Tổ chức, điều hành, kiểm tra và điều chỉnh là phổ biến đối
với mọi nhà quản trị, dù đó là tổng giám đốc một Công ty lớn, hiệu trưởng một
trường đại học, trưởng phịng chun mơn trong một cơ quan, hay tổ trưởng một tổ
gồm 5 - 7 cơng nhân.
Có thể nói, các chức năng quản lý trên đây chung nhất đối với mọi nhà quản

lý, không phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và môi
trường xã hội, dù ở Mỹ, Nhật hay Việt Nam. Dĩ nhiên, phổ biến hay chung nhất
khơng có nghĩa là đồng nhất. Ở những tổ chức khác nhau, những cấp bậc khác
nhau, có sự khác nhau về mức độ và sự quan tâm cũng như phương thức thực hiện
các chức năng chung này.

3. Quản lý kinh doanh và quản lý doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp cần phải được quản lý, quản lý này được gọi là quản lý
kinh doanh. Quản lý kinh doanh là q trình tác động liên tục, có tổ chức, có
hướng đích của chủ doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh
nghiệp. Sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một cách
tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đạt mục tiêu
đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội.

3.1. Thực chất của quản lý kinh doanh.
Xét về mặt tổ chức và kỹ thuật của hoạt động quản lý, quản lý chính là sự
kết hợp của mọi nỗ lực của con người trong doanh nghiệp để đạt tới mục đích
chung của doanh nghiệp và mục tiêu riêng của mỗi người một cách khơn khéo và
có hiệu quả nhất.
Quản lý ra đời chính là để tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn so với lao
động của từng cá nhân riêng rẽ trong cùng một nhóm người, khi họ tiến hành các
hoạt động lao động chung. Nói một cách khác, thực chất của quản lý kinh doanh là


quản lý con người trong doanh nghiệp, thơng qua đó, sử dụng có hiệu quả nhất mọi
tiềm năng và cơ hội của doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động kinh doanh theo
mục tiêu đã định.

3.2. Bản chất của quản lý kinh doanh.
Xét về mặt kinh tế xã hội của quản lý, quản lý doanh nghiệp là vì mục tiêu

lợi ích của doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài,
trang trải vốn và lao động, bảo đảm tính độc lập và cho phép thoả mãn những đòi
hỏi xã hội của chủ doanh nghiệp và của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Mục
tiêu của doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp đề ra, họ là chủ sở hữu của doanh
nghiệp và là người nắm giữ quyền lực doanh nghiệp.
Nói một cách khác, bản chất của quản lý kinh doanh tuỳ thuộc vào chủ sở
hữu của doanh nghiệp. Chính bản chất của kinh doanh xã hội chủ nghĩa khác kinh
doanh tư bản chủ nghĩa, cho nên nó phải có thêm câu hỏi "sản xuất cái đó để làm
gì"?

4. Quản lý kinh doanh có tính khoa học, tính nghệ thuật và
tính nghề nghiệp sâu sắc.
4.1. Quản lý kinh doanh có tính khoa học.
Tính khoa học của quản lý kinh doanh xuất phát từ tính quy luật của các
quan hệ quản lý trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm những quy
luật về kinh tế, kinh doanh kỹ thuật, xã hội... Những quy luật này nếu được các nhà
quản lý nhận thức và vận dụng trong quá trình quản lý doanh nghiệp sẽ giúp họ đạt
kết quả mong muốn, ngược lại sẽ gánh chịu những hậu quả khơn lường.
Tính khoa học của quản lý kinh doanh địi hỏi các nhà quản lý trước hết phải
nắm vững những quy luật liên quan đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đó
khơng chỉ là những quy luật kinh tế và kinh doanh, mà còn hàng loạt những loại
quy luật khác như quy luật tâm lý- xã hội, quy luật kỹ thuật, đặc biệt là những quy


luật quản lý... Nắm quy luật, thực chất là nắm vững hệ thống lý luận về kinh doanh
và quản lý kinh doanh. Tính khoa học của quản lý kinh doanh còn đòi hỏi các nhà
quản lý phải biết vận dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, những
thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật như các phương pháp dự đoán, phương
pháp tâm lý xã hội học, các công cụ xử lý lưu trữ, truyền thông: máy vi tính, máy
fax, điện thoại, mạng internet...


4.2. Quản lý kinh doanh mang tính nghệ thuật.
Tính nghệ thuật của quản lý kinh doanh xuất phát từ tính đa dạng, phong
phú, tính mn hình mn vẻ của các sự vật và hiện tượng trong kinh tế, kinh
doanh và trong quản lý. Không phải mọi hiện tượng đều mang tính quy luật và
cũng khơng phải mọi quy luật có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều đã được
nhận thức thành lý luận. Tính nghệ thuật của quản lý kinh doanh cịn xuất phát từ
bản chất của quản lý kinh doanh, suy đến cùng là tác động tới con người với những
nhu cầu hết sức đa dạng, phong phú, với những toan tính, tâm tư, tình cảm khó có
thể cân đo, đong đếm được. Những mối quan hệ con người ln ln địi hỏi nhà
quản lý phải xử lý khéo léo, linh hoạt "nhu" hay "cương", "cứng" hay "mềm" và
khó có thể trả lời một cách chung nhất như thế nào là tốt hơn? Tính nghệ thuật của
quản lý kinh doanh cịn phụ thuộc vào những thuộc tính tâm lý cá nhân của từng
nhà quản lý, vào cơ may, vận rủi...

4.3. Quản lý kinh doanh là một nghề.
Theo nghĩa ai cũng có thể đi học nghề để tham gia các hoạt động kinh
doanh, nhưng có thành cơng hay khơng? Có giỏi nghề hay không lại tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố của nghề (Học nghề ở đâu? Ai dạy cho? Cách học nghề ra sao?
Chương trình thế nào? Người dạy có thực tâm truyền hết nghề hay không? Năng
khiếu nghề nghiệp của người học nghề ra sao? Các tiền đề tối thiểu về vật chất ban
đầu cho sự hành nghề có bao nhiêu?). Như vậy muốn điều hành các hoạt động kinh
doanh có kết quả một cách chắc chắn, thì trước tiên chủ doanh nghiệp phải được
đào tạo về nghề nghiệp (kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm) một cách chu đáo, để


phát hiện, nhận thức một cách chuẩn xác và đầy đủ các quy luật khách quan xuất
hiện trong quá trình kinh doanh, đồng thời có phương pháp nghệ thuật thích hợp,
nhằm thực hiện tuân thủ đúng các đòi hỏi của các quy luật đó.


5. Những vấn đề rút ra qua ba khái niệm trên.
Thực chất của 3 vấn đề: quản lý, quản lý kinh doanh và quản lý doanh
nghiệp đó là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản trị lên các đối tượng bị quản
trị nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm
năng và cơ hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp. Và tác động một cách liên tục lên các đối tượng bị quản lý dù là
vật chất hay con người nhưng mục tiêu của nó là làm sao để hoàn thành một cách
xuất sắc các mục tiêu đề ra của tổ chức.
Quản lý kinh doanh mang tính khoa học vì chỉ có nắm vững tn thủ đúng
đòi hỏi của các quy luật khách quan xảy ra trong quá trình kinh doanh và quản lý
kinh doanh mới đảm bảo cho việc kinh doanh đạt được kết qủa mong muốn.
Giúp cho các nhà quản lý kinh doanh hiểu rõ, nắm vững phương tiện và
công cụ cần thiết để tiến hành quản lý kinh doanh.
Quá trình kinh doanh luôn đặt ra những nhiệm vụ mới cho các nhà quản lý.
Hoàn thiện quản lý kinh doanh như là một yêu cầu thiết yếu trong quá trình phát
triển doanh nghiệp. Để cứu vãn sự đổ vỡ của doanh nghiệp hoặc đưa doanh nghiệp
sang một bước phát triển cao hơn về chất đều địi hỏi sự hồn thiện những nhân tố
quản lý kinh doanh. Phân tích kinh tế, chống lại rủi ro trong kinh doanh, đổi mới
sự nghiệp.


C. Kết luận.
Để tồn tại và không ngừng phát triển, con người không thể hành động riêng
lẻ mà cần tổ chức phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng vào những mục tiêu
chung. Quá trình tổ chức sản xuất ra của cải vật chất và tổ chức cuộc sống an toàn
của cộng đồng xã hội ngày càng được thực hiện trên quy mơ lớn hơn với tính chất
phức tạp hơn, địi hỏi có sự phân cơng, điều khiển để liên kết các con người trong
tổ chức.
Chính sự phân cơng chun mơn hố lao động và sự quy định lẫn nhau giữa
sự vận động của lao động vật hoá với lao động sống đã làm xuất hiện một chức

năng đặc biệt:
- Chức năng quản lý: C.Mác đã chỉ ra "mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc
lao động chung khi thực hiện trên mọi quy mô tương đối lớn, ở mức độ nhiều hay
ít đều cần đến quản lý". Ơng đã đưa ra một hình tượng dễ hiểu về vai trị của quản
lý "Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, cịn dàn nhạc thì cần có nhạc
trưởng".
Sự quản lý cần thiết đối với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội, từ mỗi đơn
vị sản xuất kinh doanh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân; từ một đơn vị dân cư đến
một đất nước và những hành động trên phạm vi khu vực, phạm vi toàn cầu. Mục
tiêu cụ thể và phương thức quản lý trên đại thể được chia ra 2 cấp độ: quản lý vi
mô (trong phạm vi một đơn vi), quản lý vĩ mô (trên phạm vi một địa phương, một
nước)
- Trong hoạt động kinh tế có 5 yếu tố tạo thành kết quả đó là: tài ngun,
tiền vốn, cơng nghệ, lao động sống và lao động quản lý. Nhiệm vụ của quản lý là
thông qua con người tác động tới các yếu tố còn lại để được hiệu quả cao. Hiệu
quả kinh tế thể hiện ở việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nhất đối tượng lao động,
giảm chi phí ở đầu vào và nâng cao hiệu quả ở đầu ra (đó là số lượng sản phẩm,
chất lượng sản phẩm và giá thành). Mục đích của quản lý là đạt được kết quả cao
nhất cả về lượng và chất với chi phí ít nhất, từ đó có lợi nhuận cao.


Để đạt được mục đích đó quản lý phải xác định được mục tiêu rõ ràng,
hoạch định được chiến lược và kế hoạch chu đáo, tổ chức hợp lý, điều hành phối
hợp tốt và có sự kiểm tra chặt chẽ. Nó cũng cần có một mơi trường hoạt động
thuận lợi (trước hết là luật pháp, chính sách và sự hướng dẫn, điều tiết, kiểm tra, hỗ
trợ Nhà nước).


D. Tài liệu tham khảo.
- Giáo trình khoa học quản lý – ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội.


- Website: quanlydoanhnghiep.edu.vn



×