Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm tiểu học biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt dạng toán tìm số trung bình cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.28 KB, 11 trang )

PHÒNG GD&ĐT LỆ THỦY
TRƯỜNG TH TÂN THỦY

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Tân Thủy, ngày 23 tháng 11 năm 2020

BÁO CÁO
BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 HỌC TỐT DẠNG TOÁN TRUNG BÌNH
CỘNG
1. Lý do trình bày biện pháp
Ở cấp Tiểu học, mỗi mơn học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển
những cơ sở ban đầu, rất quan trọng trong việc phát triển nhân cách con người Việt
Nam. Đặc biệt là mơn Tốn có một vị trí hết sức quan trọng, bởi vì: Các kiến thức, kỹ
năng của mơn Tốn ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống. Chúng rất cần thiết
cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị
cho việc học tốt mơn Tốn ở bậc Trung học.
Giải tốn có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của mơn Tốn lớp 4.
Nội dung chủ yếu của mạch kiến thức này bao gồm: Tiếp tục giải các bài tốn đơn,
tốn hợp có dạng đã học từ lớp 1, 2, 3 và phát triển các bài tốn đó đối với các phép
tính trên phân số và các số đo đại lượng mới học ở lớp 4. Đồng thời tốn lớp 4 cịn đề
cập đến những dạng tốn mới như giải tốn về: “Tìm số trung bình cộng”; “Tìm hai số
khi biết tổng và hiệu của hai số đó”; “Tìm hai số khi biết tổng ( hoặc hiệu) và tỉ số
của hai số đó”; “ Tìm phân số của một số”… Trong đó dạng tốn “ Tìm số trung bình
cộng” là dạng tốn thường gặp, đây là một dạng tốn khó đối với học sinh.
Trong năm học này, tôi được nhà trường phân công giảng dạy chủ nhiệm lớp 4A
với số học sinh là 31 em, qua thực tiễn quan sát tôi thấy với dạng tốn “ Tìm số trung
bình cộng ” học sinh thường lúng túng mơ hồ và sai lầm; khó tìm ra hướng giải quyết
và thường nhầm lẫn từ dạng này sang dạng khác, không phát hiện số các số hạng và
cách giải. Ngơn ngữ tốn học của học sinh cịn hạn chế, kĩ năng tính tốn, trình bày
thiếu chính xác, thiếu khoa học, học toán và giải toán một cách máy móc nặng nề về


rập khn, bắt chước. Nếu khơng xác định cho học sinh những kiến thức cơ bản ban
đầu vững chắc thì học sinh sẽ khơng giải quyết được những bài toán ở dạng cơ bản
(đối với học sinh trung bình) và nâng cao lên (đối với học sinh khá giỏi).

1


Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 4 tôi đã học hỏi, mạnh dạn nghiên cứu
“Biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt dạng tốn tìm số trung bình cộng” với mong
muốn giúp học sinh có kĩ năng nhận dạng tốn, phân tích bài tốn, biết lựa chọn
phương pháp giải phù hợp cho từng bài toán thuộc dạng tốn này, tránh những sai sót
khi giải tốn đồng thời tạo sự hứng thú đối với môn học.
2. Nội dung biện pháp
2.1 Đánh giá thực trạng
Dạng tốn Tìm số trung bình cộng được đưa vào chương trình Tốn 4 gồm 3 tiết.
Cụ thể là:
- 1 tiết cung cấp quy tắc và cơng thức tính Trung bình cộng của một dãy số cách
đều trang 26 - 27;
- 1 tiết Luyện tập áp dụng công thức vừa học trang 28;
- 1 tiết cuối cùng là ơn tập về tìm số trung bình cộng trang 175.
Với thời lượng ít như vậy nên giáo viên chưa đầu tư nhiều vào dạng toán này.
Vào đầu năm học 2020 - 2021, tôi đã được Nhà trường và chuyên môn phân công
chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4A, lớp có 31 học sinh. Qua một thời gian dạy học, tôi đã
tiến hành làm bài kiểm tra.
Sau khi thu bài kiểm tra tôi đã thu được một số kết quả như sau:
9- 10

7- 8

5- 6


3- 4

0- 2

5( 24%)

6 (28%)

13(3 6%)

7(12%)

0 ( 0%)

Đề bài kiểm tra gồm cả phần tự luận và trắc nghiệm với các mạch kiến thức: đọc
viết số, chia cho số có 1 chữ số, tìm thành phần chưa biết của phép tính, giải tốn dạng
Tìm số trung bình cộng. Tơi phân tích cụ thể các dạng bài tập của bài kiểm tra và nhận
thấy đa số các em đọc và viết số số thành thạo, biết cách chia cho số có 1 chữ số và tìm

2


thành phần chưa biết của phép tính. Tuy nhiên kỹ năng giải tốn về Tìm số Trung bình
cộng cịn rất yếu.
Qua nhìn nhận thực tế tơi thấy rằng chất lượng bài kiểm tra chưa cao là do nhiều
nguyên nhân :
*Về phía giáo viên
- Thời lượng ít như vậy và trên thực tế giáo viên phải dạy nhiều môn, thời gian
dành để nghiên cứu, tìm tịi những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học

sinh trong lớp còn hạn chế. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng
của học sinh.
- Nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của các bài tốn điển hình trong mơn Tốn
cũng chưa đầy đủ bởi đây là một dạng toán mới đầu tiên các em gặp khi bước vào
lớp 4. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức cịn dàn trải.
*Về phía học sinh:
- Học sinh chưa có hứng thú với các mơn học nói chung, mơn Tốn nói riếng và
đặc biết là dạng Tốn tìm số trung bình cộng
- Sĩ số học sinh của lớp đông, 31 em,số lượng học sinh tiếp thu chậm, yếu tốn
có lời văn tương đối nhiều. Học sinh chưa có kĩ năng giải tốn có lời văn. Trình độ của
học sinh khơng đồng đều trong lớp: có em làm nhanh nhưng cũng có em làm chậm.
Các em bước đầu chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng cho nên việc nhận
thức và tiếp thu kiến thức gặp khơng ít khó khăn, chưa mang lại kết quả như chương
trình đề ra.
- Hiện nay chương trình Tốn tiểu học đã có sự đổi mới, khoa học hơn song
chương trình kiến thức lớp 1, 2, 3 rất đơn giản, đến lớp 4 học sinh phải gặp những kiến
Qthức khó với lượng kiến thức khá nhiều. Đây là một vấn đề khó khăn cho cả người
dạy và người học.
- Một số học sinh đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng
tâm của đề toánMột số học sinh chưa có kĩ năng phân tích và tư duy khi gặp những bài
toán phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu , khi gặp bài tốn địi hỏi tư duy,
3


suy luận một chút  các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ. Một số em
tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên cịn chóng qn các dạng
bài tốn, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức.
2.2 Khơi gợi, tạo hứng thú học tập cho học sinh
Nhà tâm lí học Pơlya nói rằng: “… Con người chỉ tư duy tích cực khi có nhu cầu.
Hoạt động nhận thức chỉ có kết quả cao khi chủ thể ham thích, tự giác và tích cực”.

(Pơlya, Tâm lý học, Tập II, Tr 128)
Do đó trong dạy học giải tốn tơi đã khéo léo sử dụng các phương pháp thích hợp
có tác dụng khơi gợi và kích thích sự chú ý, tích cực hoá hoạt động tư duy của học
sinh, làm cho học sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của giờ đang học. Đặc
thù của việc giải tốn địi hỏi có các đức tính cần cù, chịu khó, tỉ mỉ, nhẫn nại, thẩm
mĩ, … nhưng học sinh tiểu học do tâm lý lứa tuổi thường hay phân tán sự tập trung,
chóng chán. Hoạt động gợi nhu cầu nhận thức, gây hứng thú mơn học có thể được sử
dụng linh hoạt trong q trình giảng dạy. Khơng nhất thiết, đơn thuần chỉ sử dụng
ngay đầu tiết dạy.
Muốn khơng khí lớp học vui tươi, kích thích sự tị mị, khơi dậy hứng thú của học
sinh về chủ đề sẽ học, bản thân tôi nghiên cứu kỹ tài liệu, sách giáo khoa để lựa chọn
hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện, một tình
huống, tổ chức trị chơi hoặc sử dụng các hình thức khác
Ví dụ 1: Bài : Tìm số Trung bình cộng
Trước khi vào tiết học, GV tổ chức HS chơi trò chơi “Ai nhanh ai đúng”. Các em
sẽ cùng nhau tính nhanh 1 bài tốn nhỏ gắn với thực tế các em: Bạn Lan có 4 cái kẹo,
bạn Bình có 6 cái kẹo. Nếu chia đều số kẹo đó thì mỗi bạn được bao nhiêu cái ? Thơng
qua trị chơi, HS sẽ cảm thấy trị chơi mà mình vừa được tham gia rất gần gũi với bản
thân, không chỉ thế trị chơi cịn kích thích tính tị mị, khơi dậy hứng thú trong học.
Cũng bắt đầu từ đây giáo viên dẫn dắt vào bài mới và giới thiệu đây là dạng tốn mới
trong chương trình lớp 4 mà các em được tìm hiểu, từ đó các em muốn tiếp tục được
trải nghiệm kiến thức mới.
2.3 Tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích, khám phá và rút ra được kiến
thức mới
Để hình thành khái niệm số trung bình cộng và tìm ra được quy tắc của dạng tốn
tìm số trung bình cộng tơi đã sử dụng hình thức thảo luận nhóm 4, yêu cầu HS tóm tắt
bằng sơ đồ đoạn thẳng tìm ra quy tắc tìm số trung bình cộng của nhiều số hạng.
Muốn làm được điều đó điều đầu tiên đỏi hỏi các em phải tìm hiểu nội dung bài tốn
(đề tốn) thơng qua việc đọc bài tốn dù bài tốn cho ở dạng có lời văn hồn chỉnh
hoặc bằng dạng tóm tắt sơ đồ. Học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu rõ đề tốn cho biết cái

gì? Bài tốn hỏi gì? Nếu trong bài tốn nào có có thuật ngữ học sinh chưa hiểu rõ thì
4


giáo viên phải hướng dẫn để cho học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ đó ở
trong bài tốn đang làm. Khi đọc đề xong có thể gạch chân các từ ngữ quan trọng
trong đề bài.
Yêu cầu các nhóm thảo luận tóm tắt .
Khi các em tóm tắt được có nghĩa là các em đã phân tích được bài tốn, hiểu
được nội dung bài tốn.
Nếu nhóm nào cịn lúng túng trong câu hỏi thì tơi đưa ra thêm câu hỏi gợi ý giúp
nhóm đi vào tiến trình phân tích thuận lợi hơn .Như vậy các em sẽ dễ dàng nắm bắt
kiến thức hơn. Bản thân các em sẽ cảm thấy hứng thú hơn với giờ học bởi chính mình
đã tự tìm ra quy tắc này, tự khắc sâu kiến thức cho bản thân mình.
Học sinh rút ra được cách tìm số trung bình cộng như sau:
- Bước 1: Tính tổng của các số đó
- Bước 2: Chia tổng đó cho số các số hạng
Sau khi tìm ra được cơng thức của dạng tốn này, học sinh sẽ thực hành để vận
dụng kiến thức mới đó thơng qua các bài tập cụ thể hình thành cho học sinh kĩ năng
giải toán dạng này. Mục tiêu ở đây là hình thành năng lực khái qt hóa và kĩ năng giải
toán, rèn luyện năng lực sáng tạo trong học tập. Ta có thể tiến hành giải pháp sau đây:
cho HS giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa số đã cho
và số phải tìm hoặc là điều kiện trong bài tốn.
Ví dụ:
Bài tốn 1: Tìm số trung bình cộng của các số 34, 76, 55.
Bài tốn 2: Nhóm Hoa Lan làm được 24 bơng hoa. Nhóm Sao Băng làm được
nhiều hơn nhóm Hoa Lan 12 bơng hoa nhưng lại ít hơn nhóm Vành Khun 2 bơng
hoa. Hỏi trung bình mỗi nhóm làm được bao nhiêu bơng hoa?
Bài tốn 3: Số trung bình cộng của hai số là 14. Biết một trong hai số là 9. Tìm
số kia.

Điều quan trọng và chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp cho học sinh tự
mình tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của
bài tốn và thiết lập được các phép tính số học tương ứng. Trước khi cùng nhau bước
vào phần thực hành, yêu cầu học sinh trong nhóm nhắc lại các bước giải 1 bài tốn:
*Bước 1: Tìm hiểu nội dung của bài tốn
*Bước 2: Tìm tịi cách giải của bài tốn
*Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán
*Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài tốn
Để củng cố phần hình thành kiến thức này giáo viên đưa ra hình thức trị chơi "Ơ
cửa bí mật". Mỗi ơ cửa là 1 bài tập nhỏ về tìm số trung bình cộng. Trong 1 khoảng

5


thời gian nào đó các em làm nhanh, nếu bạn nào nhanh và đúng thì sẽ được phần
thưởng. Đó là một trong những hình thức khắc sâu kiến thức cho học sinh.
2.4 Hướng dẫn học sinh khắc phục một số sai lầm hay mắc phải
Ở bài tốn Tìm số trung bình cộng này qua quan sát tơi đã phát hiện ra sai lầm
của các em là nhầm lẫn số các số hạng hoặc là xác định số các số hạng chưa
đúng. Sau đây là một số ví dụ cụ thể tương ứng với các dạng:
Dạng 1: Các bài toán giải trực tiếp nhờ cơng thức
Ví dụ : Bốn em Mai, Hoa, Hưng, Thịnh lần lượt cân nặng là 36kg, 38kg, 40kg,
34kg. Hỏi trung bình mỗi em cân nặng bao nhiêu kg?
* Nguyên nhân sai: Học sinh tính được tổng song xác định sai số các số hạng, áp dụng
công thức tìm số trung bình cộng một cách máy móc rập khuôn. (Học sinh cứ nghĩ số
các số hạng ở đây là 2)
Bài giải:
Số mét kg cân nặng của bốn em là:
36 + 38+ 40 + 34 = 148(kg)
Trung bình mỗi em cân nặng số kg là

148 : 4 = 37(kg)
Đáp số: 37 kg
Dạng 2: Các bài toán chưa giải trực tiếp nhờ cơng thức
Ví dụ 1: Tổ Một góp được 36 quyển vở. Tổ Hai góp được nhiều hơn tổ Một 2
quyển nhưng lại ít hơn tổ Ba 2 quyển. Hỏi trung bình mỗi tổ góp được bao nhiêu
quyển vở?
Bài giải sai
Tổng số vở của 3 tổ là:
36 + 2 + 2= 40 (quyển vở)
Trung bình mỗi tổ góp được số quyển vở?
40 : 2 = 20(quyển vở)
Đáp số: 20 quyển vở
*Nguyên nhân sai: Học sinh tìm hiểu dữ kiện bài tốn khơng kĩ nên chưa xác
định được tổng của ba số, xác định sai số các số hạng. Học sinh cứ áp dụng công thức
trực tiếp để làm.
Bài giải (đúng)
Tổ Hai góp được số quyển vở là
6


36 +2 = 38 (quy ển vở)
Tổ Ba góp được số quyển vở là
38 + 2 = 40 (quyển vở)
Tổng số vở của 3 tổ là:
36 + 38+ 40= 114 (quyển vở)
Trung bình mỗi tổ góp được số quyển vở là:
114 : 3 = 38(quyển vở)
Đáp số: 38 quyển vở
*Ví dụ 2: Trung bình cộng của hai số là 30. Biết một trong hai số đó bằng 18,
tìm số kia?

* Nguyên nhân sai: Học sinh đọc không kĩ đề, xác định chưa đúng nội dung bài
toán (bài toán cho biết trung bình cộng chứ khơng phải tìm số trung bình cộng),học
sinh vẫn áp dụng máy móc cách tính trung bình cộng dẫn đến bài giải sai.
Dạng 3: Dạng toán trung bình cộng của dãy số cách đều:
Đối với những bài tập dạng này sẽ được chia thành 2 loại:
- Loại bài dành cho dãy số có số số hạng lẻ.
- Loại bài dành cho dãy số có số số hạng chẵn.
* Ví dụ 1: Tìm 5 số lẻ liên tiếp có tổng là 105.
* Phân tích: Ta biết rằng 2 số lẻ liên tiếp cách nhau 2 đơn vị. Vậy số thứ ba (là
số chính giữa dãy số) của 5 số lẻ liên tiếp bằng trung bình cộng của 5 số đó. Từ đó tìm
ra các số khác.
Bài giải:
Vì dãy có 5 số lẻ liên tiếp nên số chính giữa chính là trung bình cộng của 5 số.
Số chính giữa (số thứ 3) là: 105 : 5 = 21
Số thứ hai là: 21 – 2 = 19
Số thứ nhất là: 19 – 2 = 17
Số thứ tư là: 21 + 2 = 23
Số thứ năm là: 23 + 2 = 25
Đáp số: 17; 19; 21; 23; 25
Dạng 4: Dạng toán liên quan đến bản chất của số trung bình cộng trong một dãy

7


Đối với dạng này, giáo viên cần cho học sinh nắm được bản chất sau: Nếu ta xem
trung bình cộng của một dãy số có n số là 1 đoạn thẳng thì tổng của n số đó chính là có
n đoạn như thế gộp lại.
* Ví dụ: Lân có 20 viên bi, Long có số bi bằng một nửa số bi của Lân, Q có số
bi nhiều hơn trung bình cộng của 3 bạn là 6 viên. Hỏi Quý có bao nhiêu viên bi?


Bài giải:
Số bi của Long là:
20 : 2 = 10 ( viên bi )
Số bi của Long và Lân là:
10 + 20 = 30 ( viên bi )
Trung bình cộng số bi của 3 bạn là:
( 30 + 6 ) : 2 = 18 ( viên bi )
Số bi của Quý là:
18 + 6 = 24 ( viên bi )
Đáp số: 24 viên bi
Từ việc thống kê được một số lỗi sai lầm học sinh thường mắc phải khi giải các bài
tốn Tìm số trung bình cộng, tôi đã đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục, đó là:
- Cần suy nghĩ về tình huống bài toán để hiểu ý nghĩa các số đã nêu trong bài
toán, xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm.
- Tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ hoặc bằng ngơn ngữ kí hiệu ngắn gọn. Thơng qua
đó để thiết lập mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm.
- Phân tích bài tốn để tìm cách giải. Kết quả của bước này là xác định một trình
tự để giải tốn.
- Lần lượt thực hiện các phép tính theo trình tự giải đó. Có để đi tới đáp số. Cần
thử lại sau mỗi phép tính và đáp số để tự kiểm tra xem mình đã chắc chắn chưa, sau đó
viết cẩn thận bài giải vào vở.
2.5 Linh hoạt trong lựa chọn cách kiểm tra và đánh giá học sinh theo TT
27/2020/TT-BGDĐT
Trong quá trình dạy học, giáo viên có sổ nhật kí ghi lại những vấn đề học sinh
chưa nắm được để có biện hỗ trợ hướng dẫn học sinh làm bài. Quan tâm tới mức độ
hoàn thành từng nhiệm vụ của học sinh để giúp các em vượt qua khó khăn. Hiện nay
giáo viên khơng được ra bài tập về nhà nhưng khơng vì thế mà học sinh có thể quên
8



kiến thức đã học. Giáo viên cần có biện pháp củng cố bài cũ trước khi vào bài mới, bổ
sung bù đắp kiến thức còn thiếu cho học sinh kịp thời để các em có thể học tốt hơn bài
học mới.
Trong q trình dạy học, giáo viên cũng cần có sự khen ngợi động viên học sinh
kịp thời dù sự tiến bộ của các em rất nhỏ. Động viên học sinh tham gia nhận xét, góp ý
bạn trong q trình học tập. Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp linh hoạt. Có thể
vận dụng mơn hình dạy học nhóm, dạy học theo đối tượng. Giáo viên cũng cần nghiên
cứu kỹ chuẩn kiến thức kỹ năng của từng bài học để giảng dạy hợp lý, tránh quá sức
đối với học sinh.
Việc nhận xét q trình làm việc của nhóm cũng không nên qua loa, đại khái.
Càng đưa ra nhận định cụ thể càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm cho
những hoạt động sau mang tính khích lệ động viên học sinh.
2.6 Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh
Xây dựng mối quan hệ Gia đình – Nhà trường có vai trị quan trọng trong tất cả
các mơn học. Riêng phân mơn Tốn đặc biệt là giải tốn có lời văn thì giáo viên cần có
biện pháp phối kết hợp cùng gia đình để rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã tổ chức họp phu huynh và thống nhất một số vấn đề
về học tập của học sinh. Tơi cũng đã lập nhóm Zalo, thường xun cập nhật tin tức,
tình học tập của lớp đến với phụ huynh; ngồi ra cịn thường xun gọi điện hỏi thăm
tình hình, đến nhà để kiểm tra việc học của các em. Tôi luôn xem PH là những người
bạn, cùng hỗ trợ giáo dục, giúp đỡ các em HS tiến bộ từng ngày.
3. Kết quả thực hiện biện pháp
Trong quá trình dạy học tôi luôn áp dụng những biện pháp trên vào giảng dạy.
Sau đó tơi đã tiến hành khảo sát lại học sinh. Kết quả đạt được như sau:
Mức đạt được

Hồn thành tốt
Số lượng

%


Hồn thành
Số lượng

%

Chưa hồn thành
Số lượng

%

Dạng tốn
Đọc, viết số có nhiều chữ số

19

70,4

8

29,6

0

0

Chia số có một chữ số

18


66,7

9

33,3

0

0

Tìm số trung bình cộng

14

51,9

13

48,1

0

0

Tìm thành phần chưa biết

22

81,5


5

18,5

0

0

9


Tôi nhận thấy rằng sau khi áp dụng các biện pháp trên đối với dạng tốn trung bình
cộng các em học sinh đã phân loại, nhận ra dạng toán được tốn trung bình cộng để từ
đó trình bày được bài giải, chất lượng học tập của học sinh có chuyển biến rõ rệt, các
em sơi nổi tích cực xây dựng bài, hứng thú hơn trong giờ học.

4. Kết luận nội dung trình bày
Qua nghiên cứu lý thuyết kết hợp với việc áp dụng thực tế, Biện pháp giúp học
sinh lớp 4 học tốt dạng tốn tìm số trung bình cộng” đã góp phần nâng cao chất lượng
dạy học dạng tốn tìm số trung bình cộng.
Để thực hiện dạy học có hiệu quả các bài tốn liên quan đến trung bình cộng cho
học sinh thì người giáo viên cần:
- Giáo dục cho học sinh lịng u thích, say mê học tốn: tạo ra khơng khí tự
nhiên, thoải mái cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề sau đó dẫn dắt học sinh tìm
cách giải quyết.
- Xây dựng nề nếp học tốn: Xây dựng cho học sinh những thói quen, cách học
hợp lý, có trật tự, chú ý nghe giảng, hăng say phát biểu xây dựng bài, chia sẽ những ý
kiến trong giờ học; lựa chọn đúng, hợp lý các thành viên trong Ban học tập...
- Phân hóa đối tượng học sinh trong quá trình dạy học, xác định những kiến thức
mà học sinh mình đang gặp khó khăn khi thực hiện. Từ đó, giúp các em nắm chắc lý

thuyết về giải tốn trung bình cộng một cách đơn giản nhất, phù hợp với trình độ của
mình và hướng dẫn thực hành làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
-Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, hình thức dạy học, kỹ thuật dạy học,
sử dụng thiết bị dạy học phù hợp đồng thời luôn quan tâm giúp đỡ học sinh kịp thời,
động viên, khuyến khích học sinh, kích thích học sịnh tự tìm tịi, vận dụng vào thực tế
một cách sáng tạo. Đặc biệt chú ý những lỗi học sinh hay mắc phải và khắc phục lỗi
kịp thời trong khi thực hiện các bài tốn liên quan đến trung bình cộng.
Trong thời gian tới đây, tôi sẽ tiếp tục mạnh dạn thực hiện các biện pháp trên vào
trong quá trình giảng dạy, đồng thời tiếp tục nghiên cứu để rút ra những ưu nhược
điểm và khắc phục những nhược điểm của các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
dạy học nói riêng, phát triển sự nghiệp giáo dục nói chung.
Đây là một vài biện pháp nhỏ mà cá nhân tôi đã đúc rút được trong quá trình
giảng dạy, trên thực tế cũng có những thành cơng nhất định. Nhưng do khả năng của
bản thân còn hạn chế nên các biện pháp mà tơi đưa ra khơng thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp chân thành của quý ban giám khảo, đồng
nghiệp, các cấp lãnh đạo để giúp tôi có thêm kinh nghiệm để hồn thiện mình hơn
trong việc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Người viết

10


DƯƠNG THỊ HOÀN

11




×