Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

khảo nghiệm năm giống xà lách lô lô xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 51 trang )

LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành báo cáo thử nghiệm này ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn được sự
hỗ trợ rất lớn từ nhiều người, tôi chân thành gửi lời cám ơn tới:
Trường Cao Đẳng Công Nghệ Và Kinh Tế Bảo Lộc, các thầy cô trong khoa
Trồng Trọt đã trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản, làm nền móng để tôi thực hiện
đề tài và làm tốt công việc sau này.
Th.S Nguyễn Thị Thanh Mai, cô đã hướng dẫn và giúp tôi hoàn thành bài báo
cáo.
Ban giám đốc cùng anh chị nhân viên, công nhân của công ty Fresh Studio
Inovations Asia đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành đợt thực tập.
Anh Lò Xuân Dũng, trưởng nhóm Sourcing tại công ty Fresh Studio Inovations
Asia, anh là người trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện thử nghiệm và viết bài báo cáo.
Các bạn trong tập thể lớp CĐTT1, đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt khóa
học.
Tôi xin chân thành cám ơn những sự giúp đỡ đó.
Đà Lạt, tháng 9 năm 2013
Nguyễn Đình Trung Đan
1
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Công ty TNHH FRESH STUDIO INNOVATIONS ASIA
Địa chỉ: 14 Ba Tháng Tư – Phường 3 – Đà Lạt – Lâm Đồng
Điện thoại: 063.3533.137
Để giúp sinh viên có điều kiện hiểu rõ và áp dụng lý thuyết đã học vào thực tiễn,
công ty chúng tôi đồng ý tiếp nhận sinh viên thực tập làm chuyên đề tốt nghiệp sau:
Sinh viên: Nguyễn Đình Trung Đan
MSSV: 13A1CD040106
Lớp: Cao Đẳng Khoa Học Cây Trồng
Khoa: Trồng Trọt
Trường: Cao Đẳng Công Nghệ Và Kinh Tế Bảo Lộc
Trong thời gian thực tập từ ngày 01/7/2013 đến 21/09/2013, sinh viên Nguyễn Đình Trung
Đan đã thực hiện đúng các quy định của công ty đề ra và có trách nhiệm cao đối với các


công việc công ty giao. Ngoài ra sinh viên Nguyễn Đình Trung Đan đã có tinh thần ham
học hỏi và biết áp dụng một cách linh hoạt từ lý thuyết vào thực tiễn.
Qua quá trình thực tập sinh viên đã quyết định làm đề tài: “ KHẢO NGHIỆM NĂM
GIỐNG XÀ LÁCH LÔ LÔ XANH”.
Công ty chúng tôi đồng ý với đề tài này.
Và với đề tài này đã một phần đóng góp cho công ty chúng tôi về vấn đề tìm ra giống lô lô
xanh để phát triển thị trường hạt giống lô lô xanh tại Lâm Đồng.
Đà Lạt, ngày 20 tháng 09 năm 2013
2
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN





















3
MỤC LỤC
4
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Hình4.1: Màu sắc lá của các giống xà lách
Hình 4.2: So sánh kích thước màu sắc các giống
Hình 4.3 So sánh từng giống với giống địa phương Trang Nông
Hình 4.4: So sánh lõi và độ chặt của lá của các giống
Hình 4.5: Bệnh cháy lá trên giống 8186
Hình 4.6: Bệnh cháy lá trên giống 8158
Hình 4.7 Bệnh thối tim
Hình 4.8 Giống xà lách Trang Nông bắt đầu ngồng.
Hình 4.9 Cắt dọc thân xà lách bị ngồng
Hình 4.10 Giống Fonseca ngồng sau 7 ngày từ thời điểm thu hoạch
Hình 4.11 Sau 10 ngày từ ngày thu hoạch, giống Invicta vẫn chưa bị ngồng
5
PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của mỗi
người Việt. Theo nghiên cứu của IFPRI (2002), ICARD (2004), hầu hết các hộ đều tiêu
thụ rau trong năm trước đó, và 93% hộ tiêu thụ quả. Các loại rau quả được tiêu thụ rộng
rãi nhất là rau muống (95% số hộ tiêu thụ), cà chua (88%) và chuối (87%). Hộ gia đình
Việt Nam tiêu thụ trung bình 71 kg rau quả cho mỗi người mỗi năm. Trong đó tiêu thụ rau
chiếm tới 3/4.
Xà lách (Lactuca sativa L.) là loại rau ăn sống phổ biến, có giá trị dinh dưỡng cao,
cung cấp cho cơ thể người các chất khoáng, enzim, hợp chất hữu cơ, đặc biệt nguồn
vitamin E và C phong phú và rẻ tiền. Ngoài ra, trong xà lách còn chứa chất lactucarium có

hoạt tính sinh học cao, có tác động đến thần kinh, làm giảm đau và gây ngủ. Xà lách còn
có tác dụng giải nhiệt, kích thích tiêu hóa, lợi sữa, trị ho, suy nhược tâm thần, táo bón,
thấp khớp. Từ cây xà lách có thể chiết ra một loại dịch như nhựa để chế thành xirô hoặc
để khô làm thành viên thuốc chữa bệnh. Xà lách là loại rau được làm xa lát quan trọng
nhất. Xà lách quyết định chất lượng của hỗn hợp rau tươi và tính ngon miệng, nên được
người tiêu dùng ưa chuộng, nhu cầu và khả năng tiêu thụ quanh năm rất lớn.
Xà lách là loại rau ăn lá có đặc điểm sinh trưởng như: cây thấp; rễ ngắn, ăn nông; có
thể trồng dày; có khả năng cho năng suất cao; thích ứng rộng trên nhiều vùng sinh thái; ít
sâu bệnh; thời gian sinh trưởng ngắn ngày, quay vòng/6 - 7 lần/năm nên mang lại hiệu
quả kinh tế cao. Nếu được đầu tư thâm canh đúng mức, đẩy mạnh trồng xà lách là điều
kiện sử dụng có hiệu quả các loại đất, góp phần cải tạo đất trong chế độ luân canh thích
hợp, tận dụng được sức lao động địa phương, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, tạo thêm nhiều sản phẩm cho xã hội, đáp ứng nhu cầu rau xanh tại chỗ ngày càng
cao của nhân dân.
6
Toàn tỉnh Lâm Đồng có khoảng 255.407 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp.
Trong đó diện tích trồng rau, hoa khoảng 23.783 ha tập trung tại Đà Lạt, Đơn Dương, Lạc
Dương, Đức Trọng, Lâm Hà. Hiện nay người nông dân tại Đơn Dương và Đức Trọng
trồng xà lách lô lô xanh rất nhiều. Vào thời điểm từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 9, người
nông dân trồng xà lách lô lô xanh gặp rất nhiều khó khăn do các giống của các vườn ươm
tại địa phương cung cấp hiện nay rất hay bị ngồng và bị thối tim. Điều này là do giống
đang được sử dụng có phản ứng với điều kiện ngày dài, kích thích quá trình sinh trưởng
sinh thực của cây, làm cây nhanh ngồng. Đồng thời giống hiện tại sức chống chịu với nấm
bệnh trong mùa mưa còn kém, nên dễ nhiễm bệnh thối tim.
Chính điều này đã thúc đẩy tôi thực hiện đề tài “khảo nghiệm năm giống xà lách lô
lô xanh”
1.2 MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
- Khảo nghiệm để tìm ra giống có khả năng ra kháng ngồng, kháng thối tim, năng
suất cao hơn giống hiện hành.
- Khảo nghiệm chọn ra mật độ tốt ưu để trồng xà lách lô lô xanh.

1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đề tài chỉ giới hạn về sinh trưởng, năng suất, khả năng kháng ngồng và bệnh thối
tim, cháy lá chân trong mùa mưa của năm giống xà lách lô lô xanh thử nghiệm.
- thời gian thực hiện đề tài từ 09/07/2013 đến 09/09/2013
- Địa điểm thực hiện đề tài:trang trại thực nghiệm của công ty The Fruit Republic
(Demo fram) địa chỉ Thôn Suối Thông B, xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương
1.4 Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Ý nghĩa khoa học: Qua khảo nghiệm nhằm biết rõ hơn về ưu nhược điểm, đặc tính
của các giống khi sản xuất trên đồng ruộng
- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần đề xuất sử dụng giống mới giúp tăng năng suất và chất
lượng của sản xuất xà lách lô lô tại địa phương.
7
PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY XÀ LÁCH
2.1.1 Nguồn gốc và phân loại
Theo Ryder và Whitaker, xà lách có nguồn gốc từ Địa Trung Hải sau đó được các
nhà truyền đạo, thương nhân du nhập ra khắp thế giới. Những dấu hiệu sớm nhất cho thấy
sự tồn tại của xà lách khoảng 4.500 năm trước công nguyên qua hình khắc trên mộ cổ Ai
Cập mới được tìm thấy.
Xà lách đã phát triển lan rộng qua khỏi lòng chảo Địa Trung Hải, đặc biệt đã có mặt
trong nền văn minh của La Mã và Hy Lạp cổ đại. Về sau xà lách phát triển đến Tây Âu
rồi các địa phương khác. Xà lách là thực vật bậc cao có đơn vị phân loại như sau:
Ngành hạt kín: Angiosprematophy
Lớp 2 lá mầm: Dicotyledoneae
Dưới lớp cúc: Asteridae
Bộ cúc: Asterales
Họ cúc: Compositae
Chi: Lactuca, có số lượng nhiễm sắc thể là 8, 9, 17 cặp.
Có rất nhiều loài hoang dại được sử dụng như nguồn chống chịu sâu bệnh.

Giống xà lách (Lactuca sativa L.) có khoảng 300 loại, có 7 cấp độ nhiễm sắc thể như 2n =
10, 16, 18, 32, 34, 36, 48, vv Nhưng chỉ có 4 loại được công nhận từ việc thành lập
nhóm nhân giống hữu ích bởi các phương pháp đã có ở giai đoạn 1940 - 1960. Các loài
đó là:
+ Lactuca sativa: là loài thông dụng nhất, có nhiều dạng khác nhau, năng suất cao
phẩm chất ngon được người dân ưa thích và được trồng rộng rãi ở nhiều nơi.
+ Lactuca serriola: loại này có hạt rất nhỏ, mầm hình thành ngay ở thân, lá tương
đối nằm ngang có thể có răng cưa ở mép lá hoặc bản lá hình cánh hoa hồng.
+ Lactuca saligna: bản lá trải ngang và có răng cưa.
8
+ Lactuca virosa: có hạt và phẳng, lá có màu xanh lục nhạt có cả dạng hai năm và
hàng năm. Mỗi loài có 2n = 18. L. sativa và L. serriola giao phấn tự nhiên với nhau và có
thể được xếp cùng một loài. L. saligana và L. virosa khác nhau rõ rệt. L. saligana trông
giống L. serriosa nhưng chúng có thể phân biệt bằng nhiều đặc điểm hình thái học.
- Các giống xà lách:
+ Xà lách mỡ: lá cuốn lại, có vị ngọt, giòn
+ Xà lách xoắn, còn gọi là lô lô: năng suất cao, ăn ngon, giòn, được người dân ưa
thích, trồng nhiều.
+Xà lách thẳng: lá vàng hoặc lá xanh, bản lá mỏng, chịu nóng, gân đắng; có thể thu
tỉa hoặc thu cả cây; có thể gieo trồng trong mùa nóng.
2.1.2 Giá trị của cây xà lách
- Giá trị dinh dưỡng:
Xà lách được sử dụng là rau sống quan trọng và phổ biến ở vùng ôn đới trước đây.
Tuy nhiên ngày nay nó cũng có vai trò lớn trong hỗn hợp rau ở vùng nhiệt đới. Rau xà
lách có giá trị dinh dưỡng cao. Trước hết nó cung cấp chất tươi, chất xơ cho cơ thể để cân
bằng và tiêu thụ lượng đạm, mỡ từ thịt cá trong thức ăn. Phần lớn các loại thực phẩm,
được nấu chín vì vậy enzim, vitamin không còn nhiều, chỉ duy rau xà lách luôn luôn được
dùng tươi sống với số lượng lớn trong mỗi bữa ăn. Vì vậy, xà lách là nguồn vitamin chủ
yếu trong bữa ăn.
Xà lách chứa nhiều vitamin A, C, chất khoáng: kali, canxi, sắt, có vai trò chữa một

số bệnh. Theo viện nghiên cứu ung thư ở Mỹ, thực phẩm chứa nhiều vitamin A, C như xà
lách có khả năng ngăn chặn một số dạng ung thư.
9
Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng trong rau xà lách ở một số nước và Việt Nam (trong
100g phần ăn được)
Nước
T. P dinh dưỡng
Mỹ Ấn Độ Việt Nam
Calori (calo) 9 21 15
Dietary (fiber) 1.3 - -
Protêin (g%) 1 2.1 1.5
Carbohydrate (g) 1.34 2.5 2.2
Chất béo (%) 0.3 - -
Nước (%) - 93.4 95.0
Chất khoáng (g) - - 1.2
Vitamin A (IU) 1,456 - 1,650
Caroten (mg) - 66 2.0
Vitamin C (mg%) 13.44 10.0 15
B
1
(mg) - - 0.14
B
2
(mg) - - 0.12
PP (mg) - - 0.70
Tro (g%) - - 0.8
Xellulose (g%) - - 0.5
Ca (mg) 20.16 50.0 77.0
Fe (mg) 0.62 0.7 0.9
P (mg) - - 34.0

K (mg) 162.4 - -
Thiamin (mg) - 0.09 -
Riboflavin - 0.13 -
(Nguồn: viện ung thư Mỹ 1998; viện dinh dưỡng quốc gia Ấn Độ 1980; thành phần hoá
học thức ăn Việt Nam, 1980)
- Giá trị kinh tế:
Xà lách chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu cây lương thực, thực phẩm nói
chung và các loại rau nói riêng. Cây lương thực như: Lúa, ngô, cao lương, khoai, sắn
chủ yếu cung cấp năng lượng cho con người. Cây thực phẩm bao gồm các loại đậu, rau,
gia vị nhằm bổ sung chất dinh dưỡng các loại.
Trong các loại rau thì xà lách có diện tích trồng nhiều nhất nên chiếm một vị trí đáng
kể trong cơ cấu cây rau các loại. Với khoảng thời gian sinh trưởng từ khi trồng đến thu
hoạch ngắn, xà lách thường được trồng gối vụ, trồng xen giữa 2 vụ cây lương thực như
ngô, khoai, sắn Nhờ vậy nó góp phần tăng thu nhập cho nông dân, tạo thêm việc làm
cho hàng trăm người lao động ở khu vực nông thôn. Xà lách còn giúp đất được luân canh
10
với giai đoạn ngắn để đất có thời gian tiêu huỷ chất hữu cơ và phục hồi dinh dưỡng đất
với loại cây trồng chính ở vụ tiếp theo.
Xà lách còn là cây ít có sâu bệnh. Do vậy luân canh xà lách sẽ giúp sự gián đoạn
vòng đời của sâu bệnh, giảm thiểu được sự tồn tại của sâu bệnh đối với vụ trồng chính
tiếp theo sau. Thêm vào đó với bộ lá phát triển nhanh và rộng, che phủ toàn bộ diện tích
đất canh tác đã góp phần hạn chế cỏ dại cho vụ sau.
Xà lách còn được trồng xen với ngô, đậu, cao lương để tận dụng tối đa diện tích, hạn
chế cỏ dại và góp phần tăng thu nhập cho nhà nông.
2.1.3 Đặc điểm thực vật học của cây xà lách:
Đối với xà lách, tuỳ giống mà lá có thể cuốn hay không cuốn, mép lá có răng hay không
có răng. Thân xà lách thuộc loại thân thảo và có một loại dịch trắng như sữa dùng làm
thuốc. Cây có bộ rễ phát triển nhanh.
- Rễ:
Xà lách có rễ cọc phát triển, làm nhiệm vụ chính là giữ cây, bám vào đất được chắc

ngoài ra còn làm nhiệm vụ hút nước và dinh dưỡng nuôi cây. Trên rễ cọc có rất nhiều rễ
phụ giúp cây bám đất, hút nước và chất khoáng. Nhìn chung xà lách có bộ rễ phát triển
mạnh và nhanh.
- Thân:
Thân xà lách thuộc thân thảo, là nơi kết nối giữa bộ rễ và lá, vận chuyển chất
khoáng do bộ rễ hút lên và chất hữu cơ do bộ lá tổng hợp nuôi cây. Thân xà lách giòn,
trên thân có dịch trắng sữa. Thời gian đầu thân phát triển chậm nhưng sau khi cây đạt cao
nhất về sinh khối, thân vống rất nhanh và ra hoa, gọi là ngồng.
- Lá:
Xà lách có số lượng lá lớn, lá sắp sếp trên thân theo hình xoắn ốc, lúc đầu mật độ lá
dày, giai đoạn sau mật độ lá thưa dần. Lá ngoài có màu xanh đến xanh đậm, lá trong xanh
nhạt đến trắng ngà. Các lá phía trong mềm có chất lượng cao. Bề mặt lá không phẳng mà
11
lồi lõm, gấp khúc do đặc tính di truyền. Lá làm nhiệm vụ chủ yếu là tổng hợp chất hữu cơ
nuôi cây.
- Hoa:
Chùm hoa dạnh đầu, chứa số lượng hoa lớn, các hoa nhỏ duy trì chặt chẽ với nhau
trên một đế hoa, với 5 đài hoa, 4 nhị và 2 lá noãn. Độ tự thụ rất cao, hạt phấn và có độ
hữu thụ cao.
- Quả và hạt:
Quả xà lách thuộc loại quả bế đặc trưng. Hạt không có nội nhũ, hạt hơi dài và dẹt,
có màu nâu vàng.
2.1.4 Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của cây xà lách
- Nhiệt độ:
Xà lách có nguồn gốc ôn đới, ưa nhiệt độ thấp 13 - 16
0
C. Tuy nhiên trong quá trình
trồng trọt, chọn lọc và thuần hoá, ngày nay cây xà lách có thể trồng được trên nhiều vùng
khí hậu khác nhau như nhiệt đới, cận nhiệt đới. Để cây sinh trưởng tốt thì nhiệt độ thích
hợp là 15 - 25

0
C. Nhiệt độ ngày và đêm rất quan trọng cho sinh trưởng phát triển của xà
lách. Nhiệt độ ngày và đêm thích hợp là ban ngày 20
0
C, ban đêm 18
0
C. Xà lách cuốn phát
triển được trong khoảng 10 - 27
0
C.
- Nước và độ ẩm:
Cũng như các loại rau nói chung xà lách rất cần nước để phát triển do cây có bộ lá
lớn, tốc độ thoát hơi nước cao. Tuy nhiên nếu mưa kéo dài hay đất úng nước sẽ ảnh
hưởng xấu đến sinh trưởng phát triển xà lách. Để đảm bảo nhu cầu nước cho cây sinh
trưởng tốt, ẩm độ thích hợp trong khoảng 70 - 80%.
- Ánh sáng:
Ánh sáng là yếu tố quan trọng cho sự sống của thực vật. Đối với xà lách ánh sáng
thích hợp là ánh sáng vùng cận nhiệt đới với cường độ khoảng 17000 lux và 16 giờ. Để xà
lách sinh trưởng bình thường và cho năng suất cao yêu cầu thời gian chiếu sáng 10 - 12
12
giờ/ngày. Cường độ chiếu sáng không chỉ ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp chất hữu cơ
cho cây, giúp cây tăng nhanh sinh khối mà còn ảnh hưởng đến sự hình thành hoa.
- Dinh dưỡng:
Để tạo nên sinh khối cho cây, bên cạnh các yếu tố nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng thì xà
lách cần hàm lượng dinh dưỡng trong đất trung bình đến cao. Mặc dù xà lách không kén
đất, tuy nhiên cũng như các loại rau khác để cây cho năng suất cao, phẩm chất tốt yêu cầu
đất phải tơi xốp, kết cấu viên, thoát nước tốt, hàm lượng dinh dưỡng trong đất trung bình
đến cao, độ pH đất thích hợp 5,8 - 6,6.
Do xà lách có thời gian sinh trưởng ngắn, sau gieo 40-60 ngày là thu hoạch được,
nên cần các loại phân dễ tiêu. Đối với xà lách, bón lót các loại phân hữu cơ (phân chuồng

hoai mục; bánh dầu đậu phụng; đậu tương; phân cút) và phân vô cơ NPK 16:16:18 sẽ
thích hợp cho cây.
2.2 SẢN XUẤT, TIÊU THỤ VÀ NGHIÊN CỨU RAU XÀ LÁCH
2.2.1 Sản xuất và tiêu thụ rau trên thế giới
- Tình hình sản xuất rau:
Nhu cầu tiêu thụ rau của người dân ngày càng cao, do đó diện tích cũng như sản
lượng rau ngày càng tăng. Qua các năm, sản lượng rau trên thế giới tăng nhanh năm 1980
sản lượng rau chỉ đạt 375,737 triệu tấn nhưng đến năm 1990 sản lượng rau đạt được
451,523 triệu tấn, chỉ sau 10 năm sản lượng rau trên toàn thế giới đã tăng 66 triệu tấn.
Không dừng ở đó, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật sản lượng rau, trên thế giới
không ngừng tăng nhanh, đến năm 1997 sản lượng rau trên toàn thế giới đạt 595,565 triệu
tấn, tăng 144 triệu tấn, so với năm 1990 . Đến năm 2005, sản lượng rau trên thế giới đạt
249,879 triệu tấn, sản lượng rau thế giới giảm không phải do năng suất giảm mà do diện
tích trồng rau của một số nước bị giảm xuống đáng kể.
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất rau ở một số nước trên thế giới năm 2005
Quốc gia
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
13
Toàn thế giới 17,999,009 138.829 249.879
Trung Quốc 8,266,500 171.790 142.000
Ấn Độ 3,400,000 102.941 35.000
Việt Nam 525,000 133.500 7.008
Philippin 500,000 88.000 4.400
Liên Bang Nga 207,000 162.802 3.370
Hàn Quốc 195,000 318.966 6.219

Brazin 195,000 115.385 2.250
Băngladét 150,000 62.800 0.942
Thái Lan 145,000 162.802 2.361
Italia 144,000 180.556 2.600
Nhật Bản 110,000 280.412 3.084
Phần Lan 75,000 200.000 1.500
Hoa Kỳ 11,050 771.801 0.853
(Nguồn: FAO,2006)
Từ bảng 2.2 cho thấy:
Diện tích trồng rau trên thế giới năm 2005 đạt 17,999,009 ha. Trong đó nước có diện
tích trồng rau lớn nhất là Trung Quốc với đến 8,266,500 ha, đứng thứ hai thế giới về diện
tích trồng rau là Ấn Độ với là 3,400,000 ha. Việt Nam là một trong những nước có diện
tích trồng tương đối lớn, 525,000ha, đứng thứ 3, sau Trung Quốc và Ấn Độ. Bên cạnh các
nước có diện tích trồng rau lớn thì cũng có không ít nước có diện tích trồng rau nhỏ như
Hoa Kỳ (11,050 ha), Phần Lan(75,000 ha), Nhật Bản là nước có nhu cầu rau lớn nhưng
diện tích trồng chỉ 110,000 ha.
14
Trong những năm gần đây cùng với sự thay đổi chủng loại rau và quá trình áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản suất đã làm năng suất rau của nhiều nước trên thế giới
tăng đáng kể. Ở một số nước, tuy có diện tích trồng không lớn song lại cho năng suất khá
cao như: Hoa Kỳ (778.01tạ/ha), Nhật Bản (280.412tạ/ha), Phần Lan (200.000tạ/ha), ở
Việt Nam (133.500tạ/ha) năng suất rau cũng tương đối cao so với các nước trên thế giới.
Sản lượng rau Trung Quốc lớn nhất thế giới, tiếp theo là Ấn Độ với sản lượng là
35.000 triệu tấn ( chiếm 14%). Việt Nam cũng là nước có sản lượng rau lớn trên thế giới
với 7.008 triệu tấn.
- Tình hình tiêu thụ rau:
Rau là loại thức ăn không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình,
nó cung cấp các chất cấn thiết cho cơ thể. Khi mức sống của người dân tăng thì nhu cầu
về rau quả tăng lên. Theo tính toán của nhiều nhà khoa học dinh dưỡng, mỗi khu vực trên
thế giới có nhu cầu về rau quả khác nhau. Tình hình tiêu thụ rau ở mỗi nước phụ thuộc

vào điều kiện kinh tế. Ở khu vực Châu Á và Viễn Đông, theo nghiên cứu dự báo, cứ thu
nhập tăng 1.0% thì nhu cầu rau, đậu quả tươi tăng 0.9%; đậu hạt tăng 0.3%;đường tăng
1.3%; sữa tăng 1.8%; dầu, mỡ và bơ tăng 1.2%…
Rau là cây trồng rất được chú trọng trên thế giới, theo thống kê của các tổ chức
lương thực thì tổng diện tích trồng rau trên thế giới là 17,730,887 ha với tổng sản lượng là
246,480,485 tấn, đạt năng suất bình quân 139,012 tạ/ha. Trong đó, một số nước có diện
tích trồng rau lớn như: Trung Quốc (8,0668 triệu ha), Ấn Độ (3.37 triệu ha), Nigeria (0.67
triệu ha), Philippin (0.5 triệu ha); nhưng cũng có nước chỉ có trồng 700 ha như Quata, 300
ha như Singgapore.
Bảng 2.3: Xuất nhập khẩu rau quả trên thế giới (năm 2003)
Nước
Rau sản xuất trong nước đáp ứng (1000 tấn)
Sản lượng Nhập khẩu Dự trữ Xuất khẩu Tổng số
Thế giới 848,161 47,197 415 49,242 846,531
Châu Phi 50,310 1,232 483 1,227 50,798
Bắc Mỹ 56,294 9,069 7 9,395 5,5975
Nam Mỹ 20,637 819 1 1,372 20,084
15
Châu Á 618,243 9,556 -190 13,405 614,204
Châu Âu 99,357 26,102 121 23,153 102,427
Châu Đại Dương 3,321 419 -7 691 3,042
(Nguồn: FAO, 2006)
Ở một số nước diện tích trồng rau không lớn nhưng năng suất lại đạt rất cao như:
Nhật Bản (245.5 tạ/ha), Hoa Kỳ (516.8 tạ/ha). Theo Gansen, năm 1992 nhu cầu rau bình
quân cho một người là 200 g/ngày, mức tiêu thụ đầu người là 73 kg/năm (1996) và ngày
có xu hướng tăng.
16
Bảng 2.4: Tiêu thụ rau tính theo đầu người trong ngày ở một số nước
Nước Rau (g/người/ngày) % so thế giới
Thế giới 250 100

Liên Xô(cũ) 564 225
Trung Quốc 280 112
Nhật Bản 197 71
Việt Nam 177 71
Ý 167 66
Ấn Độ 135 54
Pháp 122 49
Srilanca 120 48
Pakistan 69 27
(Nguồn: FAO, 1999)
Trước nhu cầu rau ngày càng tăng, một số nước trên thế giới đã có chính sách nhập
khẩu rau. Năm 2005, nước nhập khẩu rau nhiều nhất thế giới là Pháp (145,224 nghìn tấn);
tiếp theo là các nước như: Canada (143,332 nghìn tấn); Anh (140,839 nghìn tấn); Đức
(116, 866 nghìn tấn). 5 nước chi tiêu cho nhập khẩu rau lớn trên thế giới là: Đức (149.140
nghìn USD); Trung Quốc (80.325 nghìn USD); Pháp (132.942 nghìn USD); Canada
(84.496 nghìn USD); Nhật Bản (75.236 nghìn USD).
2.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau ở Việt Nam
- Tình hình sản xuất:
Kể từ đầu thập kỷ 90, diện tích trồng rau của Việt Nam phát triển nhanh chóng và
ngày càng có tính chuyên canh cao. Tính đến năm 2005 diện tích trồng rau cả nước là
525,0 nghìn ha, tăng 59,96% so với năm 1995 (328,2 nghìn ha). Bình quân mỗi năm tăng
19,68 nghìn ha (5,99 %/năm). Đồng Bằng Sông Hồng là vùng sản xuất lớn nhất chiếm
khoảng 29% sản lượng rau toàn quốc. Điều này là do đất đai ở vùng Đồng Bằng Sông
Hồng tốt hơn, khí hậu mát hơn và gần thị trường Hà Nội. Đồng Bằng Sông Cửu Long là
17
vùng trồng rau lớn thứ 2 của cả nước chiếm 23%, tổng sản lượng rau. Đà Lạt là vùng
chuyên canh sản xuất rau cho xuất khẩu và tiêu thụ thành thị, nhất là thị trường thành phố
Hồ Chí Minh.
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 2005
Năm

Chỉ tiêu
1995 2000 2005
Diện tích (1000 ha) 328.2 377.0 525.0
Năng suất (tạ/ha) 125.5 147.5 133.5
Sản lượng (triệu tấn) 4.1 5.5 6.6
(Nguồn: FAO, 2006)
Năng suất rau Việt Nam nói chung còn thấp và bấp bênh, năm 2005 năng suất đạt
133.5 tạ/ha, đạt 96.16% so với mức trung bình của thế giới (138.829 tạ/ha). Trong khi đó
sản lượng rau cả nước năm 2005 đạt 6.6 triệu tấn so với năm 1995 (4.1 triệu tấn) tăng
60.97%. Mức sản lượng tăng trung bình hàng năm là 0.25 triệu tấn, chủ yếu là do tăng
diện tích gieo trồng.
18
Bảng 2.6: Diện tích, năng suất, sản lượng rau phân theo vùng
Vùng
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
1999 2005 1999 2005 1999 2005
Cả nước 459.6 635.1 126.0 151.8 5,792.2 9,640.3
Đồng bằng sông Hồng 126.7 158.6 157.0 179.9 1,988.9 2,852.8
Trung du miền núi
Bắc Bộ
60.7 91.1 105.1 110.6 637.8 1,008
Bắc Trung Bộ 52.7 68.5 81.2 97.8 427.8 670.2
Duyên hải nam
Trung Bộ
30.9 44.0 109.0 140.1 336.7 616.4

Tây Nguyên 25.1 49.0 177.5 201.7 445.6 988.2
Đông Nam Bộ 64.2 59.6 94.2 129.5 604.9 772.1
Đồng bằng sông
Cửu Long
99.3 164.3 136 166.3 1,350.5 2,732.6
(Nguồn: )
Rau quả nước ta tuy đa dạng, phong phú và có diện tích lớn. Nhưng sự phát triển
chưa theo yêu cầu của thị trường, quy trình canh tác chưa đồng đều, nhiều nơi còn lạc
hậu. Mặc dù sản xuất rau phân bố đều trong cả nước, nhưng đa số phát triển với diện tích
manh mún, nhỏ lẻ. Phần lớn rau không đáp ứng được yêu cầu của thị trường về chất
lượng, kích thước, hình dạng, số lượng nên không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
- Tình hình tiêu thụ
Một số nghiên cứu về tình hình tiêu thụ các loại rau của Việt Nam trong thời gian
qua cho thấy rau là sản phẩm khá phổ biến trong các hộ gia đình. Thành phần tiêu thụ rau
thay đổi theo vùng, đậu, su hào và cải bắp là những loại rau được tiêu thụ rộng rãi ở miền
Bắc. Rõ nét nhất có thể thấy là trường hợp su hào với trên 96% số hộ nông thôn ở miền
núi phía bắc và Đồng Bằng Sông Hồng tiêu thụ nhưng dưới 15% số hộ ở miền Đông Nam
bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Theo tính toán của IFPRI, tiêu thụ ở khu vực thành thị
có xu hướng tăng mạnh hơn so với các vùng nông thôn. Khi thu nhập cao hơn thì các hộ
cũng tiêu thụ rau nhiều hơn, tiêu thụ rau quả theo đầu người giữa hộ giàu nhất gấp 5 lần
hộ nghèo nhất, từ 26 kg đến 134 kg.
19
Bảng 2.7: Tỷ lệ tiêu thụ đối với từng sản phẩm theo vùng
Vùng
Sản phẩm
HN
HCM
Tp
khác
Thị


MNPB ĐBSH BTB NTB TN ĐNB SCL
Rau muống 97 99 96 91 98 98 90 79 94 94
Su hào 42 69 45 91 96 68 19 59 12 3
Bắp cải 94 92 90 90 94 70 47 78 79 78
Cà chua 98 99 95 85 94 78 76 79 89 87
Rau khác 94 93 91 81 84 91 98 97 98 97
(Nguồn: IFPRI, 2002)
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu về thực phẩm và sức khỏe tính bình quân chung
là 250 - 300g/người /ngày. Theo tính toán thì tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong
điều kiện hiện tại lao động một ngày hoạt động nặng cần dùng từ 400 - 500g rau. Theo
tính toán của Dorolle năm 1942 thì lượng rau cần thiết cho mỗi người Việt Nam khoảng
360g/người/ngày
Theo FAO, nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới tăng bình quân 3,6% năm, nhưng
mức cung chỉ tăng 2,8% năm. Điều này cho thấy thị trường xuất khẩu rau quả có nhiều
tiềm năng. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua thị trường xuất khẩu rau quả Việt Nam giảm
mạnh. Nếu năm 2001 rau quả Việt Nam xuất khẩu đến 42 nước và vùng lãnh thổ thì đến
năm 2004 chỉ còn lại 39 nước và năm 2005 còn lại 36 nước. Sự suy giảm này có nhiều
nguyên nhân, trong đó chủ yếu vẫn là do sản xuất manh mún, số lượng không tập trung,
giá cao, đặc biệt lượng dư thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép.
Bảng 2.8: Tình hình tiêu thụ rau trên đầu người ở Việt Nam
Năm
Dân số
(triệu người)
Tiêu thụ (kg/người/năm) Diện tích trồng (ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng (1000
tấn)
2000 82.10 82.30 500.000 135.20 6,760.00

2005 88.50 96.30 600.000 140.00 8,520.00
20
2010 95.80 105.90 700.000 145.00 10,105.00
(Nguồn: FAO, 2000)
- Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau tại Lâm Đồng:
Lâm Đồng là tỉnh có điều kiện thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng rất thuận lợi cho việc
canh tác các loại rau cao cấp mang tính đặc tù riêng của Đà Lạt, đặc biệt là canh tác rau,
hoa theo hướng công nghệ cao. Sản xuất rau ở Lâm Đồng được hình thành và phát triển
cách đây trên 70 năm, phân bố ở thành phố Đà Lạt, huyện Đơn Dương, Đức Trọng và Lạc
Dương, đây là những vùng có độ cao trung bình từ 1000 - 1600m so với mực nước biển,
khí hậu quanh năm ôn hoà mát mẻ. Riêng thành phố Đà Lạt ở độ cao 1400 - 1600 m, với
nhiệt độ trung bình quanh năm từ 17 - 18
0
C, có điều kiện ngoại cảnh thích nghi cho sự
phát triển các loại rau có nguồn gốc ôn đới, á nhiệt đới.
Bên cạnh những giống rau truyền thống như bắp cải, súp lơ trắng, cà rốt, khoai tây,
củ dền, nhiều chủng loại, giống rau mới đã được đưa vào sản xuất như các giống rau xà
lách, cải thảo, cần tây, cà chua, ớt ngọt, bí ngồi, củ cải bi, góp phần tạo nên sự đa dạng,
phong phú về chủng loại, nổi tiếng về chất lượng do đó sản phẩm rau của Lâm Đồng ngày
càng đáp ứng tốt thị hiếu và sự lựa chọn tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, ổn định thu nhập của nông
dân, chính nơi đây cũng đã hình thành nhiều vùng sản xuất rau quả chuyên canh tập trung
có sản lượng hàng hoá đạt giá trị kinh tế cao hơn so với các cây trồng khác.
Vùng chuyên canh rau của Lâm Đồng có nhiều đặc trưng:
- Đa dạng, phong phú về chủng loại.
- Mùa vụ sản xuất quanh năm.
- Chất lượng ngon, mẫu mã đẹp.
- Thời gian bảo quản lâu.
Diện tích rau trên toàn tỉnh năm 2011 là 44,159 ha, trong đó nhóm rau ăn lá với hơn
20 chủng loại (48% diện tích); nhóm rau ăn củ với 10 chủng loại rau (20%), nhóm rau ăn

quả bao gồm 9 chủng loại (27%), còn lại là các loại rau ăn hoa, rau gia vị.
21
Nghề trồng rau ở Đà lạt mang tính hàng hóa cao, đã giải quyết việc làm và mang lại
thu nhập không nhỏ cho hàng trăm ngàn hộ nông dân (giá trị sản xuất trên đất canh tác
bình quân 150 triệu đồng/ha/năm). Vì vậy, qua đó nông dân đã tích luỹ được khá nhiều
kinh nghiệm và mạnh dạn đầu tư khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt trong công
nghệ giống, tưới tiêu,…; 100% diện tích rau được cơ giới cho khâu làm đất và tưới nước;
3700 ha (gần 10%) diện tích rau ứng dụng công nghệ cao, trong đó 240 ha rau trồng trong
nhà kính; 114.47 ha rau nhà lưới và gần 100 ha có hệ thống tưới tự động kết hợp bón phân
lỏng.
Sản lượng rau của Lâm Đồng hiện nay vào khoảng 1,398,469 tấn mỗi năm, chủ yếu
tiêu thụ ở thị trường nội địa như thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh phía Nam và duyên hải
miền Trung thông qua chợ đầu mối ở các tỉnh thành (trong đó tiêu thụ ở thành phố Hồ Chí
Minh chiếm 90%). Một số sản phẩm cao cấp của tỉnh được xuất khẩu sang các nước Đài
Loan, Singapore, Nhật Bản, . Tuy nhiên, sản phẩm xuất khẩu với tỷ lệ còn thấp, chưa
ổn định (chiếm 18 - 21% so với sản lượng).
Chất lượng rau quả Lâm Đồng có phẩm chất tốt, nhờ yếu tố khí hậu và biên độ dao
động nhiệt giữa ngày và đêm lớn nên khả năng tích luỹ dinh dưỡng trong sản phẩm rau
quả Lâm Đồng hơn hẳn so với trồng ở nơi khác (như bó xôi, khoai tây, cà rốt, xà lách các
loại, ); có những chủng loại rau quả dường như là độc quyền chỉ trồng được ở Lâm
Đồng như bó xôi, đậu Hà Lan, súp lơ, atiso,
Việc tổ chức sản xuất rau quả ở Đà Lạt và các vùng phụ cận khá phong phú, đa dạng
bao gồm các hình thức sản xuất như sản xuất nông hộ, hợp tác xã, công ty tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, Trong đó sản xuất nông hộ chiếm hơn 90%
diện tích cung cấp chủ yếu sản lượng, cung cấp chủ yếu sản lượng rau quả cho thị trường
và các cơ sở chế biến.
Trong những năm qua ngành sản xuất rau ở Lâm Đồng đã có sự tăng trưởng phát
triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng hàng năm về diện tích là 5.95%, về sản lượng là 7.75%.
Nhiều loại rau quả được sản xuất, chế biến, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn VietGAP,
22

tiêu chuẩn ISO - 2000, EURGAP nên chất lượng sản phẩm được đánh giá cao ở các thị
trường xuất khẩu. Tỉnh đã xây dựng thành công thương hiệu rau Đà Lạt, đã xây dựng và
phê duyệt đi vào triển khai thực hiện dự án “Quy hoạch sản xuất rau hoa dâu tây công
nghệ cao”; các cơ quan chuyên ngành ngày càng thực hiện tốt vai trò chuyển giao khoa
học kỹ thuật và quản lý chất lượng sản phẩm.
Hiện nay toàn tỉnh Lâm Đồng có 89/303 cơ sở được cấp giấy chứng nhận sản xuất,
sơ chế, chế biến an toàn đang còn thời hạn, với diện tích đất: 464/11,000 ha, chiếm 4.2%
tổng diện tích canh tác rau của toàn tỉnh (Trong đó: GlobalGAP:0.2%, VietGAP:0.7%,
MetroRequiment:0.04%, RAT:3.3%), sản lượng 90,132/1,398,469 tấn/năm. Trong đó: Có
57/193 cơ sở sản xuất rau với sản lượng: 41,379 tấn/năm, chiếm 5% tổng sản lượng rau
tươi trên toàn tỉnh (GlobalGAP: 0.5%, VietGAP: 1.8%, MetrolGAP: 0.07%, RAT: 2.6%)
và 32/110 cơ sở sơ chế, chế biến rau, sản lượng tiêu thụ: 48,753 tấn/năm, chiếm 40% tổng
sản lượng rau thành phẩm đã qua chế biến trên toàn tỉnh . Tiêu chuẩn HACCP(Hazard
Analysis and Critical Control Point System): 20%, ISO 22000:2005: 20% .
2.2.3 Tình hình nghiên cứu rau, xà lách trên thế giới và Việt Nam
- Trên thế giới:
Trong lĩnh vực sản xuất rau, trên thế giới có nhiều công trình và nhiều tác giả
nghiên cứu về rau. Cùng với việc thay thế dần tập quán canh tác rau, nhiều nước đã chọn
lựa được nhiều dòng giống rau phong phú, có chất lượng, năng suất cao đáp ứng được các
điều kiện canh tác và nhu cầu tiêu dùng trên thế giới.
Một trong những cơ quan nghiên cứu về rau đó là Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển rau Châu Á (AVRDC) đã nghiên cứu và phân phối nhiều nguồn gen rau có uy tín
cho các nước và địa phương trên thế giới. Đến năm 1993, có 67 quốc gia trên thế giới đã
dùng mẫu và giống rau của AVRDC, 17.618 mẫu rau được phân phối ra thị trường và
5.390 mẫu rau được trung tâm AVRDC thu nhập để sử dụng vào mục đích nghiên cứu.
AVRDC cũng đã có 40.000 giống biểu tượng cho sự độc nhất về giá trị nguồn giống
rau trên thế giới và đã tiến hành khảo sát những đặc tính các giống rau ở Malaisia,
23
Indonedesia, Philippin và Thái Lan. Ngoài ra, AVRDC đã có sự hợp tác quốc tế ở Nhật về
nguồn di truyền rau trong chu trình bảo tồn, đánh giá và sử dụng nguồn rau, một mạng

lưới canh tác ở miền nam Châu Á.
Về rau xà lách, E. D. Ward J. Ryder đã có nhiều nghiên cứu về giống rau xà lách trên thế
giới. Theo ông có 5 dòng xà lách phổ biến là:
Xà lách quắn đầu (Crisphead)
Xà lách La Mã (Romaine or cos)
Xà lách láng dầu (Butterhead)
Xà lách lá (Leaf lettuce)
Xà lách măng (Stem lettuce)
Những nhà lai tạo ở Caliofornia đã chọn tạo được các dòng xà lách kháng được
bệnh khô nâu (brow blight), bệnh phấn trắng (downy mildew), bệnh khảm (mosaic) và
bệnh cháy đọt (tipburn). Ở Forida có giống kháng bệnh khảm (mosaic). Ở Texas có giống
kháng bệnh héo rũ vi khuẩn (bacterial wilt). Nhiều quốc gia ở châu Âu cũng đã tạo ra
được những giống kháng bệnh này. I.C. Jagger (1926) đã tạo ra dòng kháng bệnh khô nâu
(brow blight) đầu tiên. Ông tuyển chọn những cây xà lách khỏe còn lại, từ đó chọn lọc lai
tạo để đạt được kết quả nói trên.
Ở Mỹ đã có những chương trình cải tạo xà lách nhằm vào các mục tiêu như:
Tạo ra những dòng kháng, cải thiện tạo ra các giống có chất lượng, hình thức ưa thích,
làm đồng dạng về kích cỡ và tạo giống rau thích nghi với những điều kiện môi trường đặc
biệt.
Ở Úc, Trung tâm Công nghệ Rau Quốc gia đã có những nghiên cứu về áp dụng IPM
cho xà lách, áp dụng nhiều biện pháp trong trừ sâu bệnh trên rau xà lách như: phương
pháp canh tác, phương pháp sinh học, phương pháp hóa học và phương pháp cơ học.
Hiện nay một số công ty giống cũng đã chú trọng nghiên cứu đến việc phát triển
giống xà lách mới, nổi trội trong đó là công ty Rijkzwaan có công ty mẹ ở Hà Lan và
nhiều chi nhánh ở các nước, công ty Rijkzwaan đã nghiên cứu và đưa ra thị trường trên
72 giống rau xà lách mới.
24
- Tại Việt Nam:
Tại Việt Nam hầu như có rất ít các công trình nghiên cứu về xà lách, đặc biệt là về
giống xà lách. Có các công trình nghiên cứu như “nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất

xà lách, dưa leo, cà chua sạch trên giá thể trong nhà che phủ tại Đà Lạt” của Thạc sĩ Cao
Thị Làn và cộng sự. Đề tài nghiên cứu “Khảo sát ảnh hưởng của giống và mật độ trồng
đến sinh trưởng, phát triển và năng suất rau xà lách được trồng theo phương thức thủy
canh” của Thạc sĩ Phạm Hữu Nguyên và cộng sự.
2.3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.3.1 Cơ sở lý luận
- Các giống xà lách lô lô xanh hiện nay trên thì trường thường có hiện tượng ngồng
sớm và bệnh thối tim, cháy lá chân đặc biệt vào khoảng thời gian mùa mưa.
- Thử nghiệm giống mới của công ty Rijkzwaan là một công ty nổi tiếng với các
giống rau trên thế giới.
- Thử nghiệm với điều kiện giống với điều kiện sản xuất của người nông dân sẽ
mang lại kết quả thực tế nhất.
- Thử nghiệm để chọn được giống phù hợp nhất trong thời điểm mùa mưa của năm.
2.3.2 Cơ sở thực tiễn
- Hiện nay người nông dân hầu như vẫn chưa quan tâm nhiều đến giống, chỉ đơn
giản là ra những điểm kinh doanh cây con và mua về trồng, qua thử nghiệm khuyến khích
người nông dân chọn giống tốt, biết rõ nguồn gốc giống để mang lại hiệu quả kinh tế cao
hơn.
25

×