Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài Thảo Luận - Luật Và Văn Bản Pháp Chế Dl-Nh-Ks - Chuyên Đề - Tư Vấn Pháp Luật Về Kinh Doanh Du Lịch Lữ Hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.96 KB, 17 trang )

TƯ VẤN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DU LỊCH
LỮ HÀNH
MÔN : Luật Và Văn Bằng Pháp Chế DL , KS ,NH
I.

KINH DOANH LỮ HÀNH
A.

KHÁI NIỆM

Kinh doanh lữ hành (Tour operators bussiness) là việc thực hiện các hoạt
động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói
hay từng phần, quảng cáo và bán các chương trình này trực tiếp hay gián
tiếp qua các trung gian hoặc văn phịng đại diện tổ chức các chương
trình và hướng dẫn du lịch.
Theo nghĩa rộng, kinh doanh lữ hành du lịch được hiểu là doanh
nghiệp đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các cơng việc trong
q trình tạo ra và chuyển giao sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh
vực tiêu dùng du lịch với mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi nhuận.
Kinh doanh lữ hành du lịchcó thể là kinh doanh một, nhiều hoặc tất cả
các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn hầu hết các nhu cầu thiết yếu, đặc
trưng và các nhu cầu khác của khách du lịch1.
Theo nghĩa hẹp, kinh doanh lữ hành du lịch chỉ bao gồm những
hoạt động tổ chức các chương trình du lịch. Theo Điều 4 Luật Du lịch
2005 giải thích khái niệm lữ hành du lịch là “việc xây dựng, bán và tổ
chức thực hiện một phần hoặc tồn bộ chương trình du lịch cho khách
1


du lịch”.
Kinh doanh lữ hành du lịch bao gồm:


- Kinh doanh lữ hành du lịch nội địa là việc xây dựng, bán và tổ
chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa.
- Kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế là việc xây dựng, bán và tổ
chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế.
Điều 53 Luật Du lịch năm 2005 cũng quy định “Kinh doanh đại lý
lữ hành du lịch là việc tổ chức, cá nhân nhận bán chương trình du lịch
của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch cho khách du lịch để
hưởng hoa hồng, tổ chức, cá nhân kinh doanh đại lý lữ hành du lịch
không được tổ chức thực hiện các chương trình du lịch”.
II. THỦ TỤC PHÁP LÝ VÀ QUÁ TRÌNH CẤP PHÉP KINH
DOANH LỮ HÀNH
A. THỦ TỤC CẤP PHÉP KINH DOANH LỮ HÀNH
1.
Trình tự thực hiện
 Doanh nghiệp gửi hồ sơ đề nghị cấp giấy phép kinh doanh lữ hành
đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Sở Du lịch nơi doanh nghiệp
đặt trụ sở chính
 Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Sở Du lịch hồn thành việc thẩm
định hồ sơ và gửi văn bản đề nghị kèm theo hồ sơ đến Tổng cục
Du lịch để xem xét, cấp giấy phép kinh doanh lữ hành cho doanh
nghiệp. Trường hợp không đủ tiêu chuẩn để đề nghị cấp giấy phép
thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Sở Du lịch thông báo bằng
văn bản nêu rõ lý do cho doanh nghiệp biết


 Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ
và văn bản đề nghị của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Sở Du
lịch, Tổng cục Du lịch xem xét, cấp giấy phép kinh doanh lữ hành
cho doanh nghiệp;

 Trường hợp từ chối cấp giấy phép, Tổng cục Du lịch thông báo
bằng văn bản, nêu rõ lý do cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch/Sở Du lịch và doanh nghiệp biết
2.
Cách thực hiện
Gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch/Sở Du lịch nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính
3.
Thủ tục
Chuẩn bị và nộp hồ sợ











Đơn đề nghị cấp giấy phép kinh doanh lữ hành
Bản sao giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp có ngành
nghề đăng ký kinh doanh: “Điều hành tua du lịch: Kinh doanh lữ
hành nội địa, lữ hành quốc tế”
Phương án kinh doanh lữ hành
Chương trình du lịch cho khách
Giấy xác nhận kinh nghiệm hoặc giấy tờ chứng minh thời gian
hoạt động của người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành quốc
tế(ít nhất bốn năm hoạt động trong lĩnh vực lữ hành quốc tế );

Quyết định bổ nhiệm chức vụ cho người điều hành hoạt động kinh
doanh lữ hành quốc tế;
“ 03 bản sao thẻ của 03 hướng dẫn viên và hợp đồng của hướng
dẫn viên với doanh nghiệp lữ hành (Thẻ hướng dẫn viên phải là thẻ
từ đang có giá trị và chưa sử dụng để xin giấy phép kinh doanh lữ
hành quốc tế cho một doanh nghiệp khác) “ chỉ với kinh doanh lữ
hành quốc tế
“Giấy chứng nhận tiền ký quỹ kinh doanh lữ hành quốc tế của
doanh nghiệp ” chỉ với kinh doanh lữ hành quốc tế


4.
Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính
 Cơ quan có thẩm quyền quyết định: Tổng cục Du lịch
 Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC: Vụ Lữ hành, Tổng cục Du lịch
 Cơ quan phối hợp: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Sở Du lịch
5.
ĐIỀU KIỀN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
 Tổ chức, cá nhân kinh doanh lữ hành phải đăng ký thành lập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và cam kết
thực hiện đầy đủ các điều kiện quy định trong Nghị định này.
 Đăng ký kinh doanh ngành nghề : lữ hành nội địa hay lữ hành quốc
tế
 Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế được kinh doanh lữ
hành nội địa
 Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa không được kinh doanh
lữ hành quốc tế
6.
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH LỮ HÀNH
- Kinh doanh lữ hành nội địa :

 Có đăng ký kinh doanh lữ hành nội địa tại cơ quan đăng ký kinh
doanh có thẩm quyền.
 Có phương án kinh doanh lữ hành nội địa; có chương trình du lịch
cho khách du lịch nội địa.
 Người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa phải có thời
gian ít nhất ba năm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành .
 Doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký xin hoạt động kinh doanh
lữ hành nội địa tại Sở Văn hoá thể thao và du lịch nơi đăng ký trụ
sở chính.
 Có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có tên ngành nghề kinh
doanh
- Kinh doanh lữ hành quốc tế :
 Có giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế do cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch ở trung ương cấp


 Có phương án kinh doanh lữ hành ; có chường trình du lịch cho
khách du lịch quốc tế
 Người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế phải có
thời gian ít nhất bốn năm hoạt động trong lĩnh vực lữ hành.
 Có ít nhất ba hướng dẫn viên được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch
quốc tế.
 Có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có tên ngành nghề kinh
doanh
 Có tiền ký quỹ kinh doanh lữ hành là
o Ký quỹ 250.000.000 đồng với doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành đối với khách du lịch vào Việt Nam
o Ký quỹ 500.000.000 đồng với doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành đối với khách du lịch ra nước ngoài hoặc kinh doanh lữ
hành đối với khách du lịch vào Việt Nam và khách du lịch ra

nước ngoài.

Thủ tục cần làm sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp công ty du lịch lữ hành:









Treo biển tại trụ sở công ty
Thơng báo áp dụng phương pháp tính thuế
Mở tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp, đăng ký mẫu 08 tài
khoản ngân hàng với cơ quan thuế, đăng ký nộp thuế điện tử .
Đăng ký chữ ký số điện tử thực hiện nộp thuế điện tử
In và đặt in hóa đơn
Kê khai và nộp thuế mơn bài
Góp vốn đầy đủ đúng hạn trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày cấp
đăng ký kinh doanh.
Chuẩn bị hồ sơ xin cấp Giấy phép kinh doanh lữ hành.

Lưu ý khi thực hiện thủ tục thành lập công ty du lịch:


Về vốn điều lệ: Do điều kiện để xin cấp giấy phép kinh doanh lữ
hành quốc tê phải yêu cầu ký quỹ tại ngân hàng, nên khi thành lập
công ty du lịch lữ hành quốc tế công ty nên thành lập với mức vốn

từ 500 triêu đồng trở lên đối với kinh doanh inbound(do khi xin
giấy phép kinh doanh lữ hành phải ký quỹ 250 triệu đồng) và 700
triệu đồng đối với kinh doanh outbound (do khi xin giấy phép kinh
doanh lữ hành phải ký quỹ 500 triệu đồng). Tài khoản được ký quỹ
không thể được rút ra trừ khi

Về ngành nghề: Công ty kinh doanh du lịch phải đăng ký ngành
nghề “Điều hành tua du lịch. Chi tiết: Kinh doanh lữ hành nội
địa, kinh doanh doanh lữ hành quốc tế”


STT Tên ngành nghề

1.

2.

Dịch vụ hỗ trợ liên quan đến quảng bá và tổ chức tua du
lịch
chi tiết: Các dịch vụ phục vụ khách du lịch (không bao gồm
kinh doanh phòng hát Karaoke, quán bar, vũ trường)
Đại lý du lịch


số

7920

7911


Hoạt động dịch vụ hỗ trợ khác liên quan đến vận tải
3.

chi tiết: Dịch vụ làm thủ tục visa, hộ chiếu Đại lý bán vé
máy bay, tàu hỏa

5229

Dịch vụ lưu trú ngắn ngày
4.

chi tiết: – Kinh doanh nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ
5510
(không bao gồm kinh doanh vũ trường, quán bar, phòng hát
karaoke);

5.

Quảng cáo

7310


6.

Nghiên cứu thị trường và thăm dò dư luận

7320

Vận tải hành khách đường bộ khác

7.

8.

chi tiết: Kinh doanh vận tải bằng ô tô – Kinh doanh vận tải
hành khách bằng ô tô theo tuyến cố định – Kinh doanh vận 4932
tải hành khách theo hợp đồng – Kinh doanh vận chuyển
hành khách du lịch bằng ô tô
Tổ chức giới thiệu và xúc tiến thương mại

8230

III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI KINH DOANH DU LỊCH
LỮ HÀNH
Hoạt động kinh doanh lữ hành liên kết với rất nhiều mảng trong du lịch .
Cụ thể khi khách hàng đặt những chuyến đi trọn gói gồm : lưu trú , vận
chuyển và ăn uống . Nên đòi hỏi doanh nghiệp phải liên kết chắc chẽ
cũng như tìm hiểu kỷ về tất cả các mảng trên hoặc bảo đảm rằng nhà đổi
tác của doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn về an toàn , vệ
sinh , vật chất , mực độ chuyện nghiệp của hướng dẫn viên cho khách du
lịch theo quy định của pháp luật .
A.

Luật Du lịch năm 2005

Luật Du lịch dành 1 mục gồm 15 điều (mục 2 từ Điều 43 đến Điều
56) để quy định các nội dung về kinh doanh lữ hành, gồm quy định về:
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành; điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch nội địa; điều
kiện kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế; giấy phép kinh doanh lữ hành

du lịch quốc tế, hồ sơ thủ tục cấp giấy phép kinh doanh lữ hành du lịch
quốc tế; đổi giấy phép kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế; quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế; doanh


nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch có vốn đầu tư nước ngoài; hợp đồng
lữ hành; điều kiện kinh doanh đại lý lữ hành; hợp đồng đại lý lữ hành;
trách nhiệm của bên giao đại lý lữ hành; trách nhiệm của bên nhận đại lý
lữ hành. Những quy định này đưa ra trên cơ sở tình hình thực tế phát
triển của ngành nghề kinh doanh lữ hành, căn cứ xu hướng phát triển du
lịch của các nước phát triển trên thế giới nhằm quản lý hoạt động kinh
doanh lữ hành du lịch và bảo đảm chất lượng dịch vụ lữ hành du lịch
hiện nay.
B.

Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Du lịch năm 2005

- Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 hướng dẫn quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch: nghị định này cụ thể
hóa những nội dung chưa được quy định rõ trong Luật Du lịch như bảo
hiểm du lịch, điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch, xúc tiến du lịch,
việc thành lập và hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện doanh
nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam.
- Nghị định số 180/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật du lịch. Nghị
định này đã sửa đổi, bổ sung một số quy định mới liên quan đến kinh
doanh lữ hành du lịch như: cụ thể hóa ngành nghề kinh doanh lữ hành
du lịch (gồm kinh doanh lữ hành du lịchnội địa và kinh doanh lữ hành
du lịchquốc tế); các trường hợp thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành du

lịch quốc tế và thủ tục thu hồi; điều chỉnh mức ký quỹ kinh doanh lữ


hành du lịch quốc tế (giữ nguyên mức ký quỹ 250 triệu đồng đối với
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch đón khách vào Việt Nam
(inbound), tăng mức ký quỹ từ 250 triệu lên 500 triệu đồng đối với
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch đưa khách ra nước ngoài
(outbound) hoặc doanh nghiệp kinh doanh cả inbound và outbound).
- Thông tư số 88/2008/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2008
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 92/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về lưu trú du lịch.
- Thông tư số 89/2008/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2008 hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về kinh doanh lữ
hành, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp du lịch nước
ngoài tại Việt Nam, hướng dẫn du lịch và xúc tiến du lịch.
- Thông tư 07/2011/TT-BVHTTDL ngày 7/6/2011 sửa đổi, bổ sung,
thay thế hoặc bãi bỏ, huỷ bỏ các quy định có liên quan đến thủ tục
hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch.
- Thông tư số 34/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 hướng dẫn về
quản lý tiền ký quỹ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch quốc
tế.


IV. THỰC TRẠNG KINH DOANH LỮ HÀNH HIỆN NAY
A. Những kết quả đạt được
Luật Du lịch năm 2005 đã tạo mơi trường pháp lý thuận lợi, thơng
thống hơn, điều kiện và thủ tục cấp phép rõ ràng đã thu hút nhiều

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia kinh
doanh lữ hành du lịch quốc tế. Từ năm 2005 đến nay, số lượng các
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế khơng ngừng tăng, có
mặt ở nhiều loại hình, thành phần kinh tế. Nếu như cuối năm 2005 cả
nước mới chỉ có 428 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế
thì đến cuối năm 2015 (sau 10 năm), cả nước có 1.557 doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế được cấp giấy phép, tốc độ tăng
trưởng đặt khoảng 15%/năm, trong đó có 7 doanh nghiệp nhà nước,
483 cơng ty cổ phần, 1.042 công ty trách nhiệm hữu hạn, 10 doanh
nghiệp tư nhân và 15 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Khơng chỉ tăng về số lượng và quy mơ, chất lượng doanh nghiệp
lữ hành du lịch cũng ngày càng được nâng cao. Nhiều cơng ty, tập đồn
lớn đã hình thành, xây dựng thương hiệu ngang tầm khu vực và quốc tế
như: Saigontourist, Hanoitourist, Vietnamtourism – Ha Noi, Vitours, HG
Travel, Focus Travel, Benthanhtourist, Fiditourist, Peacetour, Vidotour,
Buffalo Tours, Vietrantour, Redtours… Nhiều hãng lữ hành du lịch quốc
tế lớn đã đến Việt Nam đầu tư, thành lập các liên doanh đưa khách
quốc tế đến Việt Nam như: Exotissimo – Cesais, APEX, H.I.S Sông Hàn,


TNT – JTB,…
Bên cạnh sự phát triển của các doanh nghiệp lữ hành du lịch quốc
tế, để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước và do điều kiện
thành lập doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa dễ dàng
(doanh nghiệp không phải ký quỹ, không phải xin giấy phép, chỉ phải gửi
thông báo hoạt động khi kinh doanh lữ hành, có người điều hành có 3
năm kinh nghiệm), số lượng doanh nghiệp lữ hành du lịch nội địa cũng
tăng lên nhanh chóng. Từ 3.000 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du
lịchnội địa năm 2004 đến nay đã có trên 13.000 doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành du lịch nội địa được thành lập và đi vào hoạt động. 2

Những năm gần đây, mặc dù kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó
khăn nhưng hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch nói riêng và ngành du
lịch nói chung vẫn có những bước phát triển tích cực, trở thành điểm
sáng của kinh tế Việt Nam. Nếu năm 2005 du lịch nước ta chỉ đón 3,34
triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 16,1 triệu lượt khách du lịch nội địa,
tổng thu từ khách du lịch đạt 30 nghìn tỷ đồng thì đến năm 2014, chúng
ta đã đón 7,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế, phục vụ 38,5 triệu lượt
khách du lịch nội địa, tổng thu từ du lịch đã vượt 230 nghìn tỷ đồng. Việc
gia tăng số lượng doanh nghiệp tỷ lệ thuận với việc gia tăng lượng khách
du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa và tổng thu từ khách du lịch hàng
Sau khi Luật Du lịch năm 2005 có hiệu lực thi hành, doanh nghiệp
lữ hành du lịch quốc tế và lữ hành du lịchnội địa được thành lập nhiều
nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp quy mơ vừa và nhỏ, có xu hướng
2


vừa thực hiện bán lẻ vừa tổ chức chương trình du lịch. Tính chuyên
nghiệp trong kinh doanh chưa cao, thiếu sự liên kết, cơ sở vật chất và
đội ngũ nhân lực cịn yếu kém, năng lực tài chính hạn chế, chưa đủ khả
năng thực hiện được những chương trình du lịch sự kiện có quy mơ lớn
để thu hút khách du lịch. Nhiều doanh nghiệp quan tâm đến lợi nhuận
trước mắt, ít đầu tư chiều sâu. Theo thống kê sơ bộ, trong số trên 1.500
doanh nghiệp lữ hành du lịch quốc tế, thì chỉ khoảng 1/3 là doanh
nghiệp kinh doanh đưa khách du lịch quốc tế vào Việt Nam, còn 2/3 là
doanh nghiệp kinh doanh đưa người Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
Hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và phát triển thị trường
chưa được tổ chức thường xun và khoa học. Chương trình du lịch cịn
đơn điệu, sao chép lẫn nhau, không tạo được sự phong phú, mới lạ,
hấp dẫn khách du lịch.
B.


Một số hạn chế, bất cập

Các quy định của Luật Du lịch về kinh doanh lữ hành du lịch đã bộc
lộ một số hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, điều kiện đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch
nội địa còn dễ dàng, chưa bám sát thực tiễn kinh doanh.
Thời gian qua, tăng trưởng của phân khúc thị trường kinh doanh
du lịch nội địa tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Thu nhập từ
khách du lịch ngày càng cao, không kém thu nhập từ khách du lịch quốc


tế, thậm chí cịn cao hơn thu nhập từ khách du lịch quốc tế từ một số
thị trường. Tuy nhiên, những quy định về điều kiện kinh doanh đối với
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa còn dễ dàng, chưa
bám sát thực tiễn, chưa có các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của
khách du lịch. Cụ thể: các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội
địa không phải ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch và khơng cần có
hướng dẫn viên du lịch. Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội
địa chỉ phải gửi thông báo thời điểm hoạt động kèm theo phương án
kinh doanh và chương trình du lịch nội địa tới Sở Du lịch hoặc Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Song theo
thống kê mới nhất của các Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, cả nước có chỉ có 1.528 trong tổng số trên 13.000 doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành du lịch nội địa gửi thông báo hoạt động kinh doanh
lữ hành du lịch và duy trì các điều kiện kinh doanh và hoạt động kinh
doanh lữ hành du lịchnội địa. Việc phần lớn các doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành du lịch nội địa thiếu nghiêm túc trong việc chấp hành các
quy định của pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra. Số lượng doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa phát triển mạnh mặc dù

nhiều doanh nghiệp trong số đó khơng đủ năng lực kinh doanh. Hiện
nay, các cơ quan quản lý về du lịch ở địa phương chưa quản lý, kiểm
soát được hoạt động của các doanh nghiệp du lịch nội địa.
Hai là, chưa bảo đảm tính bình đẳng trong bảo vệ quyền lợi giữa


khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa.
Kinh doanh lữ hành du lịch là hoạt động mà đối tượng phục vụ là
con người, trong đó, yếu tố bảo đảm an tồn về sức khỏe, tính mạng
của khách du lịch được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, quy định về việc
mua bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với khách du lịch quốc tế, chưa
áp dụng đối với khách du lịch nội địa. Nhiều trường hợp sự cố, tai nạn
xảy ra đã để lại hậu quả đáng tiếc trong khi năng lực giải quyết của các
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa còn hạn chế, khơng có
các quy định bắt buộc (như ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch nội địa...)
để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch
nội địa. Việc không bắt buộc doanh nghiệp phải mua bảo hiểm cho
khách du lịch nội địa càng làm cho việc xử lý các vấn đề rủi ro với khách
du lịch nội địa trở nên khó khăn, khơng bảo đảm được quyền lợi của
khách du lịch.
Ba là, các điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch chưa chặt chẽ, còn
mang tính hình thức.
- Luật Du lịch hiện hành quy định doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành du lịch phải có người điều hành có kinh nghiệm trong lĩnh vực lữ
hành; việc xác định điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch thông qua bản
xác nhận của doanh nghiệp lữ hành du lịch hoặc quyết định thơi việc
hoặc giấy tờ đóng bảo hiểm. Tuy nhiên, hiện nay chưa có hình thức


kiểm tra tính xác thực của các giấy tờ này. Nhiều trường hợp các giấy tờ

xác nhận trên không đúng sự thật, khi kiểm tra doanh nghiệp mới phát
hiện được và thực tế đã phải thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành du
lịch của công ty làm giả hồ sơ. Đồng thời, trong Luật cũng chưa có quy
định xử phạt khi công ty lữ hành du lịch xác nhận không đúng sự thật
để tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân đủ hồ sơ để được cấp giấy phép
kinh doanh lữ hành.
- Điều kiện doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch phải có
phương án kinh doanh lữ hành cũng mang tính hình thức vì Luật Du lịch
khơng u cầu doanh nghiệp bắt buộc phải thực hiện theo đúng
phương án đã đề ra. Phương án kinh doanh chỉ là dự kiến ban đầu của
doanh nghiệp. Khi trực tiếp triển khai hoạt động kinh doanh, có thể
doanh nghiệp sẽ khơng thực hiện theo phương án đã đề ra do thay đổi
đối tác hoặc chiến lược trong kinh doanh. Vì vậy, điều kiện doanh
nghiệp phải nộp bản phương án kinh doanh khi nộp hồ sơ đề nghị cấp
giấy phép là không cần thiết.
- Điều kiện doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch phải có
chương trình du lịch phù hợp với phạm vi kinh doanh cũng mang tính
hình thức vì Luật Du lịch khơng có u cầu bắt buộc doanh nghiệp phải
thực hiện theo đúng chương trình du lịch đã gửi kèm theo hồ sơ đề
nghị cấp giấy phép. Chương trình du lịch được xây dựng trên sở thích
và yêu cầu đa dạng của khách du lịch. Với mỗi một đối tượng khách sẽ


yêu cầu chương trình khác nhau, ngay cả với một đối tượng khách ở các
thời điểm khác nhau cũng yêu cầu các chương trình khác nhau. Vì vậy,
việc yêu cầu doanh nghiệp phải nộp chương trình du lịch khi nộp hồ sơ
đề nghị cấp giấy phép là không cần thiết.
Bốn là, thiếu sự thống nhất về thuật ngữ giữa các văn bản pháp
luật.
Bản dịch của bản cam kết WTO: “Travel Agents” là “Đại lý lữ hành”

đã gây nhầm lẫn cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khi lập hồ
sơ xin phép đăng ký kinh doanh lữ hành. Ngành nghề “Tour Operator
and Travel Agents” trên thế giới là “doanh nghiệp lữ hành du lịchbán sỉ
và bán lẻ”, đều là các doanh nghiệp có thể xây dựng chương trình tour
và bản chương trình, dịch đúng nghĩa là cam kết về doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành. Tuy nhiên, các bản dịch của cam kết WTO và các cam
kết khác dịch “Travel Agent” theo đúng nghĩa đen là “đại lý lữ hành” đã
làm nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi hiểu là được phép
kinh doanh đại lý lữ hành du lịch như quy định của Luật Du lịch. Tuy
nhiên, đại lý lữ hành du lịch trong Luật Du lịch không phải là doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành, không được xây dựng chương trình du lịch,
đại lý chỉ bán chương trình du lịch của các công ty lữ hành du lịch và
được hưởng hoa hồng. Vì vậy, cần điều chỉnh lại các thuật ngữ thống
nhất trong các văn bản để tránh gây hiểu lầm cho doanh nghiệp.


Năm là, chưa khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du
lịch nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Sau gần 10 năm gia nhập ASEAN và WTO, đến nay nước ta mới có 15
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch có vốn đầu tư nước ngồi.
Luật Du lịch được ban hành năm 2005 đã đón đầu các cam kết quốc tế,
quy định mở cho doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư trong lĩnh vực lữ
hành du lịch với hình thức thành lập doanh nghiệp liên doanh với đối
tác Việt Nam mà không bị hạn chế về vốn và được kinh doanh lữ hành
du lịch đón khách vào Việt Nam (inbound). Tuy nhiên, theo quy định
của Luật Đầu tư, hiện nay khơng cịn hình thức doanh nghiệp liên
doanh, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam kinh doanh được lựa
chọn nhiều hình thức đầu tư từ đầu tư trực tiếp đến đầu tư gián tiếp,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo quy định
của Luật Doanh nghiệp (thành lập công ty TNHH hoặc công ty cổ phần).

Việc hạn chế về hình thức đầu tư đã làm giảm sự tự do kinh doanh của
doanh nghiệp
Tài liệu tham khảo :
/> /> />


×