Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tl xhhyt tác động của covid 19 đến giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.21 KB, 22 trang )

1. Đặt vấn đề
Giáo dục được cho là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến triển vọng sống
của một cá nhân. Tăng cường tiếp cận giáo dục là một trong những phương thức hữu
hiệu và bền vững nhất để đầy lùi đói nghèo cũng như thúc đẩy tăng trường kinh
tế và phát triển xã hội. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 đang khiến tiến trình phát
triển ấy chậm lại hơn bao giờ hết khi nhiều nước trên thế giới đã và đang phải tạm
thời đóng cửa các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nỗ lực ngăn chặn lây lan dịch
bệnh. Trích dẫn báo cáo “Học tập từ xa trong thời kỳ giãn cách xã hội Covid-19”
của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), tính đến tháng 4/2020, gần 1.6 tỷ hay
91.3% học sinh đã bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa hệ thống tại 188 quốc gia [23].
Cũng theo báo cáo của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) năm 2020, có ít
nhất 1/3 trẻ em trên thế giới đã không thể học từ xa khi các trường học bị đóng
cửa, “các em khơng hề biến đến cái gọi là học từ xa” và nhóm này hầu như đến từ
các hộ gia đình nghèo nhất và những người sống ở các vùng nông thôn. Giám đốc
điều hành UNICEF phát biểu thêm “Số lượng lớn trẻ em bị gián đoạn việc học tập
trong nhiều tháng liên tục đe dọa nền giáo dục toàn cầu và sẽ để lại hậu quả cho kinh
tế và xã hội trong nhiều thập kỷ tới” [25].
Còn tại Việt Nam, cách đây 3 tháng dù tồn quốc chính thức bước vào năm
học mới nhưng theo số liệu từ Hội Khuyến học Hà Nội, khảo sát các hộ nghèo
thuộc các huyện trên địa bàn thành phố, trung bình mỗi huyện có khoảng 70 em
học sinh chưa có máy tính, trang thiết bị học online, tuy nhiên thực tế số học sinh
thiếu thiết bị còn cao hơn con số này. Thống kê sơ bộ của Bộ Giáo dục cho thấy,
khoảng 76.000 học sinh tại thành phố Hồ Chí Minh thiếu thiết bị học trực tuyến
[24]. Điều này đã làm gia tăng đáng kể bất bình đẳng trong giáo dục, cụ thể là giáo
dục trực tuyến, đặt ra cần có nghiên cứu khoa học về vấn đề này nhằm giải quyết các
rào cản, khó khăn trước cơ hội phát triển của các em trong độ tuổi được thừa
hưởng những tri thức, kiến thức cần thiết nhưng lại đang bị tác động không hề nhỏ
do khoảng cách số mà Covid-19 tạo ra.


2. Tình hình nghiên cứu về tác động của Covid-19 đến giáo dục


Đại dịch Covid-19 trở thành vấn đề toàn cầu, là chủ đề nghiên cứu trên toàn
thế giới, ảnh hưởng của nó đã tác động đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Khi gia
tăng ca nhiễm, xuất hiện các biến chủng mới, các quốc gia tăng cường cách ly xã
hội,... và để đảm bảo học tập vẫn được diễn ra, một phương pháp dù không mới
nhưng đã trở thành tất yếu của các học sinh, sinh viên trong thời gian trường học
buộc phải đóng cửa, đó là học từ xa, học trực tuyến. Nhưng không phải ai cũng
tiếp cận được, Covid-19 thậm chí trở thành rào cản với những nhóm yếu thế trong xã
hội, gây trở ngại khiến sự tiếp cận giáo dục không liền mạch cũng giống như việc
các em không thể đến trường thường xuyên, phải thôi học, tuy nhiên đơi khi nó lại
mở ra nhiều cách thức, lợi ích khác như kết nối tồn cầu, khơng giới hạn bài giảng,
đảm bảo được sức khỏe,...
2.1. Nghiên cứu nước ngoài
Khủng khoảng Covid-19 khiến gián đoạn việc học tập, phát triển bản thân
của cả thế giới. Đầu năm 2020, Hiệp hội các trường Đại học quốc tế IAU đã tiến
hành một cuộc khảo sát trên 400 trường đại học ở hơn 100 quốc gia để đánh giá tác
động của Covid-19. Trên 97% trường tham gia trả lời rằng, đại dịch đã ảnh hưởng
đến cách thức học tập và giảng dạy, theo đó làm sâu sắc thêm bất bình đẳng trong
giáo dục do giảm tính linh hoạt, tính di động, hạn chế tiếp cận các nguồn lực và cơ
hội phát triển trực tiếp. Nổi bật, với bối cảnh giãn cách xã hội, có tới 43% các hộ
gia đình khơng có quyền truy cập vào internet, nhất là ở các khu vực Mỹ Latinh và
Caribe do thuế các sản phẩm công nghệ cao, gây ra rào cản những người không đủ
khả năng chi trả để tiếp cận [15].
Khi đối mặt với sự chuyển đổi gần như hoàn toàn từ phương thức học tập
truyền thống sang học trực tuyến, bài viết “Factors influencing student’s
behavior and attitude towards online education during Covid-19” chỉ ra phần lớn
sinh viên khoa Kinh tế – Đại học Kỹ thuật Cluj Napoca dù thích học online hơn
nhưng khẳng định không thể thay thế phương pháp học trực tiếp truyền thống khi
3



gần 1/2 cho rằng trực tiếp và học trên giảng đường có lợi, khơng đánh giá q cao
học trực tuyến, 23.7% coi các khóa học online chỉ là giải pháp duy nhất hiện tại để
ứng phó với đại dịch. Khảo sát cịn chỉ ra khó khăn như 16.7% sinh viên khơng thể
tham gia các khóa học do kết nối inernet kém, lượt truy cập cao [14].
Tương đồng về thái độ của người học với việc học trực tuyến, kết quả
nghiên cứu tại trường Cao đẳng Alula – Ả Rập Xê Út cho thấy có hơn 30% sinh
viên đã bỏ lỡ những yêu cầu, nhiệm vụ và sự giao tiếp với giảng viên – người đóng
vai trị chủ yếu trong q trình học tập, 13.8% sinh viên tỏ ra khơng hài lịng, vui
vẻ gì với việc học online và có tới 42.9% khơng ủng hộ hồn tồn cho việc học
online nếu tình hình dịch bệnh được cải thiện bởi có tới 48% cho biết internet là trở
ngại với họ, 14% gặp các vấn đề về truy cập, tải tài liệu học tập hay 13% với các
bài kiểm tra online. Khảo sát cũng chỉ ra thêm hầu hết sinh viên đến từ các vùng xa
xôi nơi mà internet đã trở thành một áp lực với kinh tế bởi dịch COVID-19, họ khó
khăn trong việc tiếp cận với bài học, các tư liệu học tập [17].
Trong khi một nghiên cứu ở Đại học Near East – Địa Trung Hải cho thấy
thái độ của học sinh, giáo viên tham gia khảo sát hoàn toàn ngược lại, 90% mong
muốn thay đổi hệ thống giáo dục hiện nay, thúc đẩy phát triển học trực tuyến và
chỉ 10% khơng đồng tình. Hầu hết đều cho rằng hệ thống trực tuyến sẽ trở thành xu
hướng mới trong việc học và đến 80% ủng hộ các công cụ trực tuyến để vượt qua
ảnh hưởng của Covid-19, tỷ lệ còn lại không chấp nhận bởi sẽ gia tăng sức ép tài
chính với các gia đình trung lưu [19].
Những mặt tích cực của việc học trực tuyến cũng được bài viết “The impact
of the Covid-19 pandemic on the quality of educational process” đề cập tới với
60.7% sinh viên Đại học Bacau – Romania nhận định trong thời gian Covid-19,
học online mang lại sự linh hoạt trong quá trình dạy – học, 26.6% cho rằng dễ giao
tiếp với giảng viên hơn, 21.4% giúp thay đổi phương thức đánh giá năng lực, cung
cấp phản hồi của sinh viên đầy đủ hơn. Tuy vậy, mặt hạn chế vẫn còn tồn tại nhiều
khi 18.5% sinh viên bị mất kết nối internet, 3.7% thiếu thiết bị học trực tuyến,
11.8% thấy thiếu sự tương tác với giáo viên và 9.6% thiếu ứng dụng thực tế [18].
3



Không khác biệt với khảo sát sinh viên Đại học Plovdiv – Bulgaria, gần 70%
có thái độ tích cực với học online và 1/3 cho biết có thể dành nhiều thời gian cho
việc học nhiều hơn khi Covid-19 diễn ra, tuy nhiên tình trạng chung mà người học
gặp phải chủ yếu đến từ môi trường như 32.4% mắc sự cố kết nối internet, 20.5%
khơng có chỗ học online tại nhà và đáng chú ý 8.1% sinh viên khơng có thiết bị có
khả năng kết nối internet. Yếu tố nơi sống hay thu nhập đều là nguyên nhân gia
tăng khoảng cách số trong giáo dục do đại dịch Covid-19 gây ra khi sinh viên nông
thôn, vùng sâu vùng xa phải đối mặt với việc mất mạng thường xuyên, 57.5% cho
rằng thu nhập của gia đình giảm sẽ gây ảnh hưởng đến việc học và 25.4% có thể
phải dừng học vì Covid-19 khiến có tới 13.3% cảm thấy lo lắng, căng thẳng, chán
nản trong thời gian học online [16].
Không chỉ sinh viên Đại học mà trẻ em cũng phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn khi học tại nhà, dạy từ xa trong thời gian trường học đóng cửa. Bài viết
“Inequalities in home learning and schools’s provision of distance teaching
during school closure of Covid-19 lockdown in the UK” với bộ số liệu trên 3000 trẻ
em nhận thấy những em trước đây đủ điều kiện được nhận bữa ăn miễn phí ở trường,
bố mẹ có trình độ học vấn thấp hơn hoặc đơn thân và nguồn gốc từ Pakistan/
Bangladesh, dân tộc thiểu số tại Anh ít có thời gian được học tập tại nhà hay nhận
giáo dục từ xa ngoại tuyến, trực tuyến hơn, đồng nghĩa bị thiệt thòi hơn do việc
đến trường gián đoạn [20]. Với học sinh Tiểu học, Trung học, một bài báo sử dụng
dữ liệu từ UNICEF Đông Caribe về dạy và học trong đại dịch Covid-19 ở 8 quốc
gia xác định có 92.4% các em cảm thấy hài lòng cao về tương tác xã hội khi học trực
tiếp trong khi học trên mạng chỉ đạt 52% hài lòng về sự tương tác giữa học sinh
và giáo viên, tỷ lệ ít học sinh có thể tập trung (35.1%) và hiểu được bài học trên
môi trường trực tuyến (36.1%) [21].
2.2. Nghiên cứu tại Việt Nam
Việt Nam cũng khơng nằm ngồi sự tác động nghiêm trọng của Covid-19, báo
cáo từ Liên hợp quốc đưa ra góc nhìn tồn diện về những ảnh hưởng của

4


Covid-19 tới giáo dục Việt Nam, đặt ra thách thức liên quan đến khả năng tiếp cận,
chất lượng học tập giáo dục. Theo phân tích của Liên hợp quốc về tác động xã hội
của đại dịch Covid-19 đối với Việt Nam, cụ thể chất lượng giáo dục và học tập
toàn diện cho thấy thời gian đóng cửa trường học trong những tháng đầu năm 2020
đã tác động đến 21.2 triệu trẻ em trên cả nước, gây ra việc các em không thể tiếp cận
y tế và bảo vệ quan trọng hay các bữa ăn trợ cấp trong trường. 30% hộ gia đình nơng
thơn thừa nhận phải dừng cho con đến trường do thu nhập giảm hoặc phải theo
cha mẹ đi tìm cơ hội việc làm nơi khác. Đáng chú ý nhất là Covid-19 làm gia tăng
khoảng cách số giữa các vùng trên cả nước: học sinh vùng sâu xa với độ phủ sóng
kém của internet, khơng thể chi trả các thiết bị cơng nghệ cần thiết; các
chương trình học trực tuyến, học từ xa không bao phủ đồng đều mọi cấp học toàn
quốc, tập trung chủ yếu khối 9 và 12 [12, tr.7-8].
Còn bài viết “Đánh giá nhanh tác động kinh tế và xã hội của đại dịch
Covid-19 đối với trẻ em và gia đình tại Việt Nam” tập trung đánh giá đến những
nhóm yếu thế khi việc học online chưa bao phủ cho trẻ em thiệt thòi nhất, đặc biệt
như trẻ em dân tộc thiểu số, từ các hộ nghèo do thiếu tiếp cận về thiết bị, kết nối
internet và kỹ năng số hay khó khăn do khơng biết sử dụng công nghệ hiện đại của
93% giáo viên vùng khó khăn, các em học sinh dân tộc thiểu số thiếu các tài liệu
trực tuyến bằng tiếng dân tộc càng tạo ra khoảng cách lớn trong việc hưởng lợi từ
cách thức này. Gia đình có trình độ học vấn thấp và nghèo nhất thường ít tiếp cận
được với máy tính và cơng nghệ số, chỉ có khơng gian, sách và các tài liệu học tập
khác tại nhà. Có đến 9% người tham gia khơng có thiết bị cơng nghệ thơng tin
hoặc khơng kết nối Internet, do đó con cái khơng thể tham gia các lớp học trực tuyến
thường xuyên. 1/2 người có con phải học ít hơn hoặc khơng học gì trong suốt
thời gian trường học đóng cửa. Khoảng 37% cho biết con họ gặp vấn đề kỹ thuật
trong các lớp học trực tuyến thường xuyên. Gần 1/4 người có con bị các vấn đề về
thị giác, thính giác,... thậm chí gia tăng các vấn đề tâm lý, lo lắng [13, tr.23].

Các cuộc khảo sát tại các trường đại học cũng cho thấy trong q trình học
trực tuyến có những khó khăn, trở ngại đáng kể đối với sinh viên. Bài viết “Các
5


yếu tố rào cản trong việc học online của sinh viên khoa Du lịch – Đại học Huế”
của nhóm tác giả từ Đại học Huế năm 2020 đã xác định 4 rào cản mà sinh viên của
khoa Du lịch gặp phải, bao gồm kinh tế, về sự tương tác, tâm lý và về mơi trường.
Trong đó, rào cản về mơi trường là tình trạng chung sinh viên lo ngại nhất khi học
trực tuyến; đặc biệt đường truyền có tới 4.21/5 điểm đồng ý phải “phụ thuộc vào
điện và kết nối Internet” và lo lắng về hiệu quả từ phương pháp học tập này (4.12
điểm). Sau đó là mối quan tâm đến sự tương tác, họ đồng ý “thiếu tương tác với
các sinh viên khác” (3.81/5 điểm) và “giáo viên không quản lý được lớp học” (3.71
điểm), sự lo lắng chủ yếu đến từ sinh viên các ngành cần thực hành nhiều như dịch
vụ, du lịch,... bị gián đoạn do dịch bệnh. Ngồi ra, hầu như sinh viên khơng cho rằng
kinh tế hay tâm lý là rào cản quá lớn khi học online [5]. Là đơn vị trực thuộc Đại học
Huế, 65% sinh viên Đại học Khoa học tiếp tục gặp khó khăn về đường truyền, kết
nối mạng, đáng chú ý là có tới 24% khơng có hoặc phương tiện học tập không đảm
bảo và 4% đã khắc phục bằng cách phải học nhờ nhà bạn [2].
Tương tự khảo sát “Cảm nhận của sinh viên chính quy khi trải nghiệm
học trực tuyến hồn tồn trong thời gian phịng chống dịch Covid-19” tại một số
trường tại TP.HCM, nhóm khó khăn có số lượng phản hồi nhiều nhất liên quan đến
internet như kết nối không ổn định, đường truyền kém,... và với quy mơ lớn hơn,
nghiên cứu đã có phát hiện có khoảng 5% sinh viên tham gia khảo sát không đủ thiết
bị đáp ứng việc học, cho thấy Covid-19 làm gia tăng hơn nữa bất bình đẳng giáo dục
[11].
Học trực tuyến là phương pháp thích ứng trước tình hình dịch bệnh nhưng
hiệu quả của nó đem lại khơng được đánh giá cao. Với sinh viên Đại học Sư phạm
Kỹ thuật TP.HCM, có đến 40.5% cho rằng ít và ít hiệu quả hơn nhiều học trực tiếp,
gần 50% thấy không hiệu quả, 88.5% khó tương tác khi trao đổi, giao tiếp với giáo

viên; ngun do cũng bởi 64% sinh viên khơng có nơi riêng tư để học trực tuyến hay
bị người nhà làm phiền, gị bó, khơng được đi lại,... [8]. Tình trạng này cũng diễn ra
với sinh viên Đại học Giáo dục tại Hà Nội, hơn 85% cảm thấy khó tiếp thu kiến thức
hay quá nhiều bài tập về nhà, 64.9% không thu hút như kiểu học truyền thống,
6


48.5% giảm hiệu quả sự tương tác giữa giáo viên và sinh viên,...; mặc dù thuận lợi là
không nhiều nhưng việc học online do ảnh hưởng của dịch bệnh phần nào giúp
người học có thời gian hỗ trợ gia đình việc nhà, dành nhiều thời gian hơn cho nghiên
cứu tài liệu [3].
2.3. Khoảng trống trong các nghiên cứu
Các nghiên cứu dù trong hay ngoài nước liên quan đến vấn đề ảnh hưởng
của Covid-19 đến giáo dục thì đều cùng hướng đến mục đích tìm hiểu thực trạng học
– dạy trong bối cảnh khủng hoảng của dịch bệnh; phân tích thái độ, hành vi của
người học như thế nào và những rào cản họ gặp phải trong quá trình học. Phần lớn
tài liệu có điểm chung là nhận thấy các vấn đề về internet, thiết bị công nghệ phục
vụ học tập đã gây trở ngại, khó khăn khơng hề nhỏ đến hiệu quả học tập, thậm
chí gia tăng khoảng cách số dưới sự tác động của nhiều yếu tố xã hội như kinh tế
hộ gia đình, học vấn của cha mẹ, dân tộc và khu vực sinh sống thuộc vùng sâu vùng
xa như một số tài có đề cập chung mặc dù chưa có con số cụ thể.
Hầu hết các đề tài nghiên cứu khoa học về vấn đề học tập, phát triển bản
thân trong hai năm nay chủ yếu khảo sát nhóm khách thể là sinh viên đang theo
học Đại học nhiều hơn học sinh, trẻ vị thành niên – nhóm xã hội cũng chịu tác
động khơng nhỏ của đại dịch. Ngoài ra, tại Việt Nam thường là nghiên cứu nhanh tại
một trường đại học nhất định, việc chọn mẫu cũng khơng đủ tính đại diện cao với
phạm vi của trường học, đặc biệt không nhận diện, phân biệt nhiều đến nhóm học
sinh, sinh viên yếu thế có thái độ, hành vi như thế nào trong tiếp cận mọi dịch vụ về
giáo dục. Điều này cũng có thể giải thích do bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng, thời
gian đầu chuyển sang hình thức trực tuyến cịn gấp rút, chưa có nhiều kinh nghiệm

dẫn đến tình trạng lúng túng cả ở người học và người dạy nên những đánh giá
nhanh, sơ bộ, bước đầu để các cơ sở hay các cơ quan ban ngành, thầy cô cải thiện
cách dạy, tương tác với sinh viên,... Hay các báo cáo của tổ chức có nhiều điểm
mạnh hơn khi tập trung phân tích ở quy mơ tồn quốc, có nhắc đến các yếu tố xã
hội, cho thấy “bức tranh” tổng thể về bất bình đẳng trong giáo dục hiện nay
nhưng với từng địa bàn cụ thể chưa được nhắc tới chi tiết. Các nghiên cứu đang thể
7


hiện những hạn chế như chưa đánh giá, tìm hiểu đâu là các yếu tố xã hội có thể ảnh
hưởng tới khả năng được học tập đầy đủ, hiệu quả trong suốt thời gian qua, tại một
địa bàn để có thể đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhất.
3. Đề xuất nghiên cứu
Trong quá trình tổng quan, nhận thấy những hạn chế các đề tài đi trước chưa
phát huy được và cũng do là vấn đề mới đáp ứng sự cấp thiết hiện nay, không
nhiều nghiên cứu nhắc đến khách thể là vị thành niên, học sinh và yếu tố xã hội có
thể tác động nên tác giả đề xuất đề tài “Thực trạng tiếp cận giáo dục trực tuyến
của vị thành niên huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong bối cảnh Covid-19”
thực hiện tại thị trấn Tây Đằng, xã Minh Quang, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội.
Lý giải việc lựa chọn phạm vi nghiên cứu trên do khu vực sinh sống, dân tộc
là một trong các yếu tố gắn liền khi tìm hiểu về rào cản, khó khăn của việc học trực
tuyến trong bối cảnh Covid-19 như thách thức về điều kiện hạ tầng công nghệ, chi
phí, khoảng cách số,... và Ba Vì là huyện có đông đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm
khoảng 37.1% dân số vùng dân tộc miền núi và có nhiều xã có điều kiện kinh tế
khó khăn của thành phố Hà Nội, trong đó thị trấn Tây Đằng là đơ thị duy nhất tại
huyện, xã Minh Quang thuộc khu vực I – xã bước đầu phát triển, có hộ nghèo dưới
10%, được cơng nhận đạt chuẩn nơng thơn mới, cịn xã Ba Vì là xã khu vực II – xã
cịn khó khăn [22]. Đặc biệt tập trung khai thác thông tin tiếp cận giáo dục trực
tuyến trong thời gian các trường học đóng cửa, thực hiện giãn cách xã hội, học sinh
không thể đến trường, tham gia các bài giảng trực tuyến, thậm chí phải nghỉ học từ

năm 2020 đến nay, Covid-19 làm gián đoạn và gây ra bất bình đẳng trong giáo dục
trực tuyến tại địa bàn huyện Ba Vì.
3.1. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tiếp cận giáo dục trực tuyến của vị thành niên đang sinh
sống tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2020 đến nay;
phân tích các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự tiếp cận, tham gia giáo dục trực
8


tuyến nhằm chỉ ra bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục bối cảnh Covid-19; từ đó
gợi ý một số khuyến nghị về chính sách, hoạt động hỗ trợ, thiện nguyện tăng
cường khả năng, cơ hội tiếp cận và được học tập trực tuyến hiệu quả.
3.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Mô tả, làm rõ thực trạng tiếp cận giáo dục trực tuyến (tình hình đi học, học
đúng tuổi, mức chi tiêu, thái độ/ nguyện vọng với học trực tuyến) theo các đặc
điểm nhân khẩu học cá nhân, đặc điểm gia đình, đặc điểm liên quan đến Covid-19,
từ đó rút ra được đặc điểm nhận diện của vị thành niên tham gia học trực tuyến tại
huyện Ba Vì.
- So sánh với số liệu liên quan tới tiếp cận giáo dục các năm trước 2020 của
huyện.
- Kế thừa các giả thuyết đã được chứng minh, từ đó kiểm chứng giả thuyết
nghiên cứu đề ra, các kết quả về lý luận và thực tiễn, nhằm đưa ra các gợi ý khuyến
nghị về chính sách hỗ trợ, hoạt động thiện nguyện tăng cường khả năng, cơ hội tiếp
cận và được học tập trực tuyến hiệu quả.
3.2. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiếp cận giáo dục trực tuyến của vị thành niên huyện Ba Vì trong bối cảnh
Covid-19.
3.2.2. Khách thể nghiên cứu

Nhằm thu thập thơng tin chính xác nhất, khách thể nghiên cứu chính được
xác định là phụ huynh/ đại diện hộ gia đình có con trong độ tuổi vị thành niên từ 6
đến 14 tuổi đã từng đi học tại các trường trên địa bàn trước khi bùng phát dịch
Covid-19 và hiện nay đang/đã từng được học trực tuyến hoặc chưa bao giờ được học
trực tuyến.
Ngoài ra, riêng vị thành niên có tiêu chí trên sẽ tham gia trả lời các câu hỏi
phân thành các nhóm: học liên tục, học gián đoạn, đã từng học và chưa bao giờ học
9


trực tuyến để tìm hiểu thái độ, đánh giá và nguyện vọng với học trực tuyến, một số
nguyên nhân, yếu tố, khó khăn/thuận lợi liên quan dẫn đến tình trạng tiếp cận giáo
dục trực tuyến.
Các khách thể đều được mời tham gia phỏng vấn bằng bảng hỏi với tất cả
câu hỏi và phỏng vấn sâu.
3.2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian khảo sát tại thực địa: 12/2021 – 6/2022
- Phạm vi không gian: Thị trấn Tây Đằng, xã Minh Quang, xã Ba Vì, huyện
Ba Vì, Hà Nội.
3.3. Giả thuyết nghiên cứu
- Do trường học đóng cửa, chuyển sang hình thức mới khiến một số vị thành
niên tại huyện Ba Vì phải thôi học/ chưa từng học trực tuyến hoặc không thể nhập
học đúng độ tuổi, chậm 1 năm so với tuổi tương ứng từ lớp 1 đến lớp 9 khi học
trực tuyến.
- Nhiều gia đình phải chi tiêu nhiều hơn cho việc mua thiết bị công nghệ
phục vụ học trực tuyến của con.
- Vị thành niên đang theo học và phụ huynh đánh giá học trực tuyến không
hiệu quả bởi đường truyền internet kém, khơng có sự tương tác với giáo viên.
- Vị thành niên ở những nhóm yếu thế (dân tộc thiểu số, gia đình đơng con,
thu nhập thấp, cư trú ở xã miền núi) tiếp cận giáo dục trực tuyến thấp hơn so với vị

thành niên khác.
- Trình độ học vấn, nghề nghiệp của bố mẹ, đặc điểm liên quan tới Covid-19
tác động tới tiếp cận giáo dục trực tuyến: bố mẹ học vấn càng cao, làm nghề
chuyên mơn, gia đình ít/khơng bị mất việc/giảm thu nhập do Covid-19 thì con cái
có mức độ tiếp cận giáo dục trực tuyến cao hơn.
3.4. Khung phân tích, biến số nghiên cứu
10


3.4.1. Khung phân tích
- Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Ba Vì
- Điều kiện hạ tầng cơng nghệ của huyện Ba Vì
Thực trạng tiếp cận giáo dục trực tuyến của vị thành niên huyện Ba Vì, Hà Nội

- Đặc điểm cá nhân vị
thành niên
- Đặc điểm hộ gia đình
- Đặc điểm liên quan
đến
Covid-19

- Tình hình học trực
tuyến
- Nhập học trực tuyến
đúng độ tuổi
- Mức chi tiêu cho giáo
dục trực tuyến
- Đánh giá, nguyện vọng
học trực tuyến


11


- Chính sách hỗ trợ, hoạt động thiện nguyện trên địa bàn
- Tình hình dịch bệnh Covid-19 tại huyện

3.4.2. Biến số nghiên cứu
a. Biến độc lập
- Đặc điểm cá nhân của vị thành niên: giới tính, tuổi, dân tộc, thời gian dành
cho việc học tập/phát triển bản thân.
- Đặc điểm hộ gia đình: khu vực sống; trình độ học vấn, nghề nghiệp của bố
mẹ; số con cái; thu nhập bình quân hàng tháng của hộ; tổng chi tiêu của hộ; số
lượng và khả năng sử dụng các thiết bị công nghệ cần thiết cho học trực tuyến
(điện thoại thông minh, Tivi, máy tính, internet tại nhà,...)
- Đặc điểm hộ gia đình liên quan đến Covid-19: so sánh thu nhập, việc làm
trước và trong Covid-19; nguyên nhân (giãn cách xã hội/cách ly phong tỏa, liên
quan/là F0,...)
b. Biến phụ thuộc
Tiếp cận giáo dục trực tuyến của vị thành niên huyện Ba Vì
- Tình hình học trực tuyến (học liên tục, học gián đoạn, đã thôi học/đã từng
học trực tuyến, chưa bao giờ học trực tuyến) và nguyên nhân
- Nhập học trực tuyến đúng độ tuổi (tuổi từ 6 – 14 tương ứng nhập học từ
lớp 1 – lớp 9)
- Mức chi tiêu cho giáo dục trực tuyến (học phí, thiết bị cơng nghệ, internet,
đóng góp trường lớp, đồng phục, sách giáo khoa, học thêm, khác...)
- Thái độ, đánh giá về học trực tuyến theo nhóm vị thành niên đang theo học
- Nguyện vọng tham gia học trực tuyến theo nhóm vị thành niên đã từng học
và chưa bao giờ học trực tuyến
c. Biến can thiệp
12



- Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Ba Vì
- Điều kiện hạ tầng cơng nghệ của huyện Ba Vì
- Chính sách hỗ trợ, hoạt động thiện nguyện trên địa bàn
- Tình hình dịch bệnh Covid-19 tại huyện Ba Vì
3.5. Cơ sở lý thuyết
3.5.1. Lý thuyết xung đột
Lý thuyết xung đột được Karl Marx (1818-1883) đề xuất trong học thuyết
chính trị của ơng. K.Marx là nhân chứng lịch sử đối với các cuộc bóc lột của chế
độ tư bản châu Âu thế kỷ XIX. Ông là người nhìn thấy rõ sự bóc lột của chủ nghĩa
tư bản đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Theo Marx, cuộc đấu
tranh tư bản và vô sản là “bẩm sinh” không thể tránh khỏi. Thuyết đã ra đời vào
thế kỷ XIX nhưng nó được sử dụng một cách phổ biến vào những năm 70-90 của thế
kỷ XX để nghiên cứu các hiện tượng xã hội như chiến tranh và cách mạng, giàu
có và nghèo đói, đấu tranh chính trị, bóc lột, định kiến xã hội,... [9, tr.54]. Nếu Marx
chỉ yếu tố cơ bản là kinh tế để giải thích mẫu thuẫn xã hội thì M. Weber cho rằng,
nguồn gốc dẫn đến xung đột xã hội đó là bất bình đẳng về cơ hội xã hội. Trong xã
hội có nhóm người có uy tín xã hội cao hơn so với nhóm khác, vì thế họ giành được
những ưu thế do địa vị xã hội mang lại [10, tr.186-187].
Thuyết xung đột cụ thể được nhắc đến trong các nghiên cứu về bất bình
đẳng phân phối nguồn lực y tế, sức khỏe, nguyên nhân xã hội của sự bất bình đẳng
xã hội đối với việc tiếp cận nguồn lực và dịch vụ y tế, những nhóm được hưởng lợi
và những nhóm đối mặt với những bất bình đẳng xã hội. Những người nghèo
thường có xu hướng gánh chịu tỷ lệ cao về các loại bệnh tật và ốm đau so với
những người giàu, và có xu hướng chịu sự bất bình đẳng trong chăm sóc y tế [6,
tr.37].
Hay nghiên cứu giáo dục, lý thuyết xung đột cho rằng sự bất bình đẳng trong
xã hội đã ảnh hưởng đến mơ hình giáo dục và sự tiếp cận giáo dục. Giáo dục phản
13



ánh và chứa đựng mâu thuẫn xã hội giữa các nhóm xã hội khác nhau trong hệ
thống giáo dục. Nó như là một bộ phận của phương thức sản xuất. Cách thức hành
động của nền giáo dục là hợp pháp hóa nó trong mục đích tạo điều kiện phát triển
kinh tế. Trong xã hội công nghiệp, một loạt hệ thống giáo dục ra đời để thực hiện
việc giáo dục miễn là gia đình trang trải được các chi phí cho các dịch vụ đó, Vì
thế, những gia đình có mức sống thấp, dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng sâu vùng xã sẽ
ít có cơ hội, khả năng tiếp cận được các nguồn lực giáo dục. Yếu tố giáo dục – đào
tạo liên quan trực tiếp đến yếu tố gia đình, năng lực, phẩm chất cá nhân. Gia đình
ngày càng có xu hướng đầu tư học tập cho con cái. Trẻ em sẽ kế thừa không chỉ vốn
tài sản mà quan trọng hơn trẻ em còn kế thừa các nguồn vốn xã hội, vốn văn hóa
và nhất là có điều kiện tiếp cận, tích lũy vốn con người thơng qua việc đi học.
Những gia đình có địa vị xã hội, giàu có thường để lại một lượng vốn văn hóa cho
con cháu và đó là một ưu thế lớn để thế hệ sau tiếp tục duy trì vị thế quyền lực ngay
trong nhà trường và tiếp đến là trong lĩnh vực đời sống xã hội. Sự phân bổ nguồn
vốn văn hóa trong xã hội ln mang tính bất bình đẳng. Mâu thuẫn về hệ giá trị và
vốn văn hóa giữa các nhóm gia đình, tầng lớp xã hộ có thể được duy trì, củng cố
thơng qua giáo dục [7, tr.62-66].
Có thể nói, xung đột là hiện tượng phổ biến trong đời sống xã hội, việc nghiên
cứu hiện tượng xung đột trong giáo dục là cần thiết để tìm hiểu nguồn lực tiếp cận
giáo dục của mọi cá nhân dưới hình thức các cơ hội đi học và đạt được cấp học như
thế nào giữa các nhóm xã hội khác nhau. Vận dụng lý thuyết xung đột trong nghiên
cứu bối cảnh dịch bệnh của tác giả để xem xét, chứng minh những khác biệt, bất
bình đẳng trong tiếp cận giáo dục trực tuyến – hình thức học tập được cho là
cần thiết hiện nay, là do phụ thuộc vào địa vị xã hội, nguồn gốc hay giai tầng xã
hội của trẻ, gia đình trẻ. Những bất bình đẳng về mặt kinh tế – xã hội của gia đình
các em là nguyên nhân của những bất bình đẳng xã hội khi vị thành niên tiếp cận
giáo dục trực tuyến. Việc tiếp cận hình thức học trực tuyến của vị thành niên huyện
Ba Vì có sự khác biệt, bất bình đẳng giữa các nhóm có đặc trưng kinh tế – xã hội

khác nhau.
14


3.5.2. Lý thuyết vốn con người
Schultz được xem là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết này. Năm
1961, Schultz phát triển khái niệm vốn con người và xác định mỗi con người nhờ
có giáo dục mà có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, còn được gọi là ‘vốn trí tuệ’.
Nhờ vốn này mà mỗi cá nhân có thu nhập tiền lương và địa vị xã hội. Có thể thấy,
theo lý thuyết vốn con người của Schultz thì vốn con người có liên quan đến vốn
xã hội và hai loại vốn này có mối quan hệ qua lại với nhau. Nhờ có sự đầu tư vào
giáo dục mà con người có cơ hội nâng cao thu nhập cũng như vị thế của mình
trong xã hội. Chính vì thế, giáo dục và đào tạo là một thành tố quan trọng của đầu
tư vốn con người. Hoạt động đầu tư vào vốn con người liên quan đến kiến thức, tới
quá trình giáo dục đào tạo mà mỗi cá nhân cần lĩnh hội để tăng khả năng của họ
trong các hoạt động mang giá trị kinh tế [trích dẫn theo: 7, tr.67].
Tương tự, vốn con người theo Mincer Jacob (1974) giống như vốn hữu hình,
muốn có thì con người phải đầu tư để tích luỹ thơng qua giáo dục rèn luyện trong
lao động và thuộc về mỗi người, và nó đem lại cho người sở hữu nó khoản thu
nhập [trích dẫn theo: 1].
Còn J. Coleman xác định, vốn con người là tiềm năng của cha mẹ nhằm tạo
ra môi trường giúp đỡ cho việc học tập của con cái. Ông nhận thấy rằng, một số
cha mẹ tuy có nguồn vốn con người khơng cao nhưng vẫn có thể thúc đẩy thành
tích giáo dục của con cái. Các bậc cha mẹ có thể làm được điều đó bằng cách dành
thời gian để cố gắng truyền đạt kiến thức và những nguyên tắc học tập cho con cái
[trích dẫn theo: 7, tr.68]
Vốn con người cấu thành từ ba nhân tố chính (1) năng lực ban đầu, nhân tố
này gắn liền với yếu tố năng khiếu và bẩm sinh ở mỗi người, (2) những năng lực
và kiến thức chun mơn được hình thành và tích luỹ thơng qua q trình đào tạo
chính quy, (3) các kỹ năng, khả năng chun mơn, những kinh nghiệm tích luỹ từ

quá trình sống và làm việc. Năng lực ban đầu nhận được từ cha mẹ và các điều
kiện của gia đình và xã hội khi khi chăm lo cho bà mẹ mang thai và sinh nở. Khi đi
15


học để có năng lực thì người ta phải bỏ ra chi phí học hành và cuối cùng những trải
nghiệm trong cuộc sống làm việc nhiều trường hợp người ta phải trả giá rất cao
[trích dẫn theo: 1]. Lý thuyết này cho rằng các cá nhân sẽ đầu tư vào giáo dục để
kiếm được lợi ích cao hơn vào những năm sau khi học. Sự đầu tư này bao gồm các
chi phí học tập và thu nhập bị giảm trong ngắn hạn do dành thời gian cho việc đi
học, tuy nhiên, nhà đầu tư hi vọng sẽ kiếm được thu nhập cao hơn trong tương lai [4,
tr.6-7].
Tóm lại, vốn con người là những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tích luỹ
trong mỗi con người nhờ q trình học tập, rèn luyện và lao động được thể hiện
trong quá trình sử dụng trong sản xuất. Vốn con người cũng hao mịn và phải tốn chi
phí đề đầu tư hình thành và là nguồn vốn quan trọng nhất để phát triển. Vì vậy, khi
áp dụng lý thuyết vốn con người trong nghiên cứu tiếp cận giáo dục nói chung và
tiếp cận giáo dục trực tuyến của vị thành niên nói riêng, tập trung tìm hiểu gia đình
các em đưa ra các quyết định đầu tư vào giáo dục như thế nào bởi trên cơ sở lý
thuyết, gia đình sẽ sẵn sàng bỏ ra các khoản chi phí cần thiết cho giáo dục trực tuyến
vì đó là khoản đầu tư cho sự phát triển trong tương lai của vị thành niên, thậm
chí nâng cao vốn xã hội của gia đình. Trong điều kiện dịch bệnh hiện nay, học
tập trực tuyến còn nhiều khó khăn nhưng việc được tiếp cận giáo dục trực tuyến
và học tập một cách hiệu quả thì khi trường học mở cửa trở lại, các em sẽ có được
những kỹ năng, kiến thức nhất định, không bị bỏ lại phía sau hay trở thành nhóm trẻ
em ngồi nhà trường.
3.6. Phương pháp nghiên cứu
3.6.1. Phương pháp thu thập thông tin
a. Phương pháp định lượng
Sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi nhằm mô tả và làm rõ kết quả

khảo sát về tiếp cận giáo dục trực tuyến của vị thành niên huyện Ba Vì. Phân tích
những yếu tố xã hội của cá nhân và gia đình, liên quan tới Covid-19 tác động đến

16


cơ hội, mức độ, khả năng tiếp cận sử dụng giáo dục trực tuyến thơng qua phân tích
tương quan mối quan hệ giữa biến số độc lập và biến số phụ thuộc.
b. Phương pháp định tính
- Phân tích tài liệu: Sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, cơng trình
nghiên cứu khoa học, lý thuyết, chính sách được đăng tải, công bố trên các phương
tiện truyền thông đại chúng về tiếp cận giáo dục nói chung, tác động của Covid-19
đến hệ thống giáo dục, tới học tập và phát triển của trẻ nói riêng. Các tài liệu có
sẵn sẽ làm căn cứ để bổ sung, so sánh với kết quả nghiên cứu của đề tài.
- Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin quan
trọng đối với đề tài được thực hiện sau khi tiến hành điều tra bằng bảng hỏi, kết
quả nghiên cứu sẽ được lý giải, minh chứng sâu sắc hơn và bổ sung dữ liệu cho
phương pháp Anket.
3.6.2. Phương pháp chọn mẫu
a. Chọn mẫu trong nghiên cứu định lượng
Cỡ mẫu: 150 phụ huynh/đại diện hộ gia đình và 150 vị thành niên
Bước 1: Lập danh sách hộ gia đình có trẻ vị thành niên 6 đến 14 tuổi đang
sinh sống tại Thị trấn Tây Đằng, xã Minh Quang, xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội
và có đi học tại các trường trên địa bàn trước khi dịch Covid-19 bùng phát (liên hệ
các trường học trong phạm vi nghiên cứu)
Bước 2: Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản khơng hồn
lại từ danh sách hộ gia đình trên, tại mỗi thị trấn/xã chọn ra 50 hộ đáp ứng tiêu chí.
Bước 3: Từ danh hộ chọn ra tương ứng 50 trẻ vị thành niên từ 6 đến 14 tuổi
ở mỗi thị trấn/xã vào mẫu nghiên cứu.
b. Chọn mẫu trong nghiên cứu định tính

Nhằm có thêm thơng tin bổ sung cho nghiên cứu, tại mỗi thị trấn/xã trong mẫu
nghiên cứu định lượng, chọn ngẫu nhiên đơn giản 5 phụ huynh/đại diện hộ và 5 trẻ
vị thành niên, cỡ mẫu là 15 phụ huynh và 15 trẻ vị thành niên.
17


3.6.3. Phương pháp xử lý thông tin
Thông tin định lượng thu thập từ điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi được xử
lý qua phần mềm SPSS 20.0 dưới các dạng tần suất, điểm trung bình, các tương
quan, kiểm định Chi-square,... nhằm đánh giá thực trạng tiếp cận giáo dục của vị
thành niên huyện Ba Vì ở nhiều khía cạnh theo các yếu tố, môi trường xã hội tác
động, đặc biệt nhấn mạnh trong khoảng thời gian trường học đóng cửa.
Đối với thông tin thu được từ phỏng vấn sâu sẽ được phân chia theo các
nhóm chủ đề để phục vụ mục đích nghiên cứu, bổ sung và làm sáng tỏ, thậm chí
đưa ra góc nhìn mới hơn mà số liệu định lượng không thể đề cập hết.

18


19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước


1. Bùi Quang Bình (2009), “Vốn con người và đầu tư vào vốn con người”,
Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 2(31).
2. Bùi Quang Dũng & cộng sự, “Một số khó khăn của sinh viên khi học
trực tuyến trong bối cảnh đại dịch Covid-19”, Khoa Xã hội học & Công tác xã hội,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.

3. Phạm Lê Dương & cộng sự (2020), “Thực trạng học tập trực tuyến của
sinh viên trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội trong đại dịch Covid19”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học của người học năm học: 2019-2020, Hà Nội.
4.

ThS. Nguyễn Thị Diệp (2009), Vốn con người và mơ hình xác định số

năm đi học hiệu quả, Trường Đại học Dân lập Hải Phòng.
5. Đặng Thị Thúy Hiền & cộng sự, “Các yếu tố rào cản trong việc học online
của sinh viên khoa Du lịch - Đại học Huế”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế
và Phát triển, tập 129 số 5C tr63-79.
6.

TS. Dương Thị Thu Hương (2015), Xã hội học Y tế, Học viện Báo

chí và Tuyên truyền.
7. Trần Qúy Long (2020), Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tiếp cận giáo
dục Trung học phổ thông của trẻ em Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
8. Lữ Thị Mai Oanh & cộng sự (2020), “Đánh giá hiệu quả học tập trực tuyến
của sinh viên trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19”, Tạp chí Khoa học, Đại học
Quốc Gia Hà Nội, tập 37, số 1.
9. Vũ Hào Quang (2017), Xã hội học gia đình – Những nghiên cứu lý
thuyết và thực nghiệm, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Vũ Hào Quang (2017), Các lý thuyết Xã hội học, Khoa Xã hội học, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

20




×