Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tl xhh y tế tác động của dịch bệnh covid 19 đến sức khỏe tinh thần học sinh thpt (nghiên cứu trên địa bàn thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.05 KB, 11 trang )

LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng dẫn Ts. Dương Thị
Thu Hương đã giúp đỡ và hướng dẫn chúng em tận tình trong suốt thời gian
học môn xã hội học y tế, tạo cho chúng em những tiền đề, những kiến thức để
tiếp cận vấn đề, phân tích giải quyết vấn đề.
Do kinh nghiệm và kiến thức cịn hạn chế, trong q trình hồn thành
bài tiểu luận khơng tránh khỏi thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp từ thầy/ cơ trong khoa để bài tiểu luận của chúng em được hoàn
thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


MỞ ĐẦU
1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đại dịch Covid 19 khởi phát từ tháng 12 năm 2019 từ Thành phố Vũ
Hán (Trung Quốc) và cho đến thời điểm ngày 19/11/2021, đã có 223 quốc
gia/ vùng lãnh thổ trên thế giới có người nhiễm bệnh. Trong nhiều thập kỷ,
thế giới mới phái đương đầu với sự bùng phát của một đại dịch lớn đến như
vậy. Với tốc độ lây lan nhanh chóng và gây tử vong hàng loạt, dịch Covid 19
tác động tới nhiều chiều cạnh của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở quy mơ
tồn cầu. Trong đó phải kể đến sức khỏe của người dân. Theo Tổ chức Y tế
thế giới, "Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và
xã hội và không phải chỉ bao gồm tình trạng khơng có bệnh hay thương tật".
Như vậy, sức khỏe tinh thần có vai trị vơ cùng quan trọng và được nhiều tác
giả lựa chọn làm tài liệu nghiên cứu, đặc biệt trong thời điểm tình hình dịch
bệnh vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp. Trong những năm gần đây, các vấn đề
liên quan đến sức khỏe tâm thần học sinh đang gia tăng nhanh chóng như
stress, lo âu, trầm cảm, tự tử, vấn đề “Hysteria tập thể”, các rối loạn dạng cơ
thể... Trên Thế giới có khoảng 10-20% trẻ em và thanh thiếu niên bị các rối
loạn tâm thần. Các rối loạn tâm thần là một trong những nguyên nhân hàng
đầu gây tàn tật ở thanh thiếu niên. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp


thời, tình trạng này sẽ ảnh hưởng nghiệm trọng đến sự phát triển thể chất, học
tập và sinh hoạt. Dưới đây là một số đề tài nghiên cứu tiêu biểu có liên quan
đến đề tài nghiên cứu của tơi
1.1.

Các cơng trình nghiên cứu về sức khỏe tinh thần

Ngày nay, trên thế giới, chăm sóc sức khỏe tinh thần là một trong
những vấn đề tiên quyết và đóng vai trị then chốt trong sức khỏe toàn diện
của con người. Mọi mặt của đời sống, từ kinh tế, văn hóa, xã hội, sự phát triển

2


về công nghệ thông tin đã tác động nhiều đến tâm lý của con người, địi hỏi
cần có nhiều nghiên cứu hiệu quả để nâng cao chất lượng sức khỏe tinh thần.
Trong nghiên cứu Các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng về đời
sống tinh thần của tác giả Dương Thị Thu Hương được đăng tải trên Tạp chí
Xã hội học số 4/2012, tác giả đã chỉ ra những yếu tố chính tác động đến sự
hài lịng của đời sống tinh thần, bao gồm: Ảnh hưởng từ các yếu tố nhân khẩu
học xã hội; Đặc điểm gia đình người được hỏi (kinh tế, hơn nhân, quy mơ gia
đình). “Yếu tốc thực sự có tác động đáng kể đến mức độ hài lịng về đời sống
tinh thần chính là kinh tế của bản thân, gia đình (thu nhập, tài sản), đặc biệt là
sự hài lòng về thu nhập”. Mặc dù Việt Nam là một quốc gia đang phát triển,
đời sống người dân có nhiều khó khăn, nỗi lo cơm áo gạo tiền nhưng người
dân vẫn đánh giá cao đời sống tinh thần (điểm trung bình 3,94/5). Trong tất cả
các nhóm tuổi tham gia khảo sát, nhóm trẻ tuổi nhất tự đánh giá về đời sống
tinh thần cao hơn các nhóm nhiều tuổi hơn.
Nghiên cứu Social media and mental heath (Truyền thông xã hội và
sức khỏe tâm thần) của các tác giả Luca Braghieri, Roee Levy và Alexey

Makarin đến từ đại học Stanford - Khoa Kinh tế, Đại học Tel Aviv vào tháng
7/202 về sức khỏe tâm thân, trong đó tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của
mạng xã hội facebook đến học sinh, sinh viên Mỹ, chỉ ra những khía cạnh
sau: Sự lan truyền của mạng xã hội diễn ra đồng thời với tình trạng sức khỏe
tâm thần ở thanh thiếu niên và thanh niên ở Hoa Kỳ ngày càng tồi tệ, tác giả
khẳng định mạng xã hội có thể gây bất lợi cho sức khỏe tâm thần. Trong
nghiên cứu, nhóm tác giả đã đưa ra những ước tính bán thực nghiệm đầu tiên
về tác động của mạng xã hội đối với sức khỏe tâm thần. Từ đó, nhóm tác giả
nhận thấy rằng việc triển khai Facebook tại một trường đại học đã làm tăng
các triệu chứng về sức khỏe tâm thần kém, đặc biệt là trầm cảm và dẫn đến
việc tăng cường sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần.Tác giả

3


cũng đề cập thêm, theo báo cáo của các sinh viên, sự suy giảm sức khỏe tâm
thần dẫn đến kết quả học tập kém hơn.
Nghiên cứu Các vấn đề về hành vi và cảm xúc ở Thanh thiếu niên
của Jamaica và Mỹ, sử dụng các thang CBCL (cha mẹ trả lời), TRF (do giáo
viên trả lời) và YRS (do trẻ tự trả lời). Nghiên cứu này được thiết kế để so
sánh sự phổ biến của các vấn đề sức khỏe tâm của trẻ vị thành niên tuổi từ 12
đến 18 sống ở Jamaica và Hoa Kỳ. Nghiên cứu cho kết quả khơng có sự khác
biệt có ý nghĩa trong tổng điểm của bất kỳ thang nào về các vấn đề SKTT ở
thanh thiếu niên Jamaica và Mỹ. Tuy nhiên, các vấn đề xã hội trong nhóm
thanh thiếu niên Jamaica cao hơn đáng kể trong báo cáo của thầy cô giáo và
cha mẹ. Thanh thiếu niên Jamaica có xếp hạng cao hơn ở các vấn đề Trầm
cảm thu mình và rối loạn dạng cơ thể. Có thể thanh thiếu niên Jamaica phát
triển vấn đề của họ từ những vấn đề thực tiễn trong đất nước của họ.
Điều tra sức khỏe tâm trẻ em (5-15 tuổi) ở nước Anh, 2004. Cuộc
khảo sát thực hiện bởi Văn phòng Thống kê Quốc gia. Điều tra cho thấy 9,6%

hoặc gần 850.000 trẻ em và thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 5-16 tuổi có một
rối loạn tâm thần. 7,7% hoặc gần 340.000 trẻ em tuổi từ 510 tuổi có một rối
loạn tâm thần. 11,5% tương đương khoảng 510.000 trẻ trong độ tuổi từ 11-16
tuổi có một rối loạn tâm thần. Trong đó, Rối loạn lo âu có 3.3% hay khoảng
290.000 trẻ em và thanh thiếu niên có rối loạn lo âu; rối loạn Trầm cảm có
0,9% hoặc gần 80.000 trẻ em và thanh thiếu niên bị trầm cảm nghiêm trọng,
trong đó 1.4% hay khoảng 62.000 tuổi 11-16 tuổi bị trầm cảm nghiêm trọng.
Về rối loạn hành vi, có 5,8% hoặc chỉ hơn 510.000 trẻ em và thanh thiếu niên
có rối loạn hành vi.
Khảo sát Thực trạng Sức khỏe tinh thần trẻ em TP.HCM, Lê Thị
Ngọc Dung và cộng sự, 2009, tp.HCM. Nghiên cứu trên 200 trẻ em TP.HCM,
là học sinh cấp THPT, lứa tuổi từ 15 -19 tuổi. Nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ em có
vấn đề về SKTT ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm 21,3%
4


Điều tra tỉ lệ trẻ em và vị thành niên ở miền Bắc có các vấn đề SKTT
của Nguyễn Cao Minh. Nghiên cứu lấy mẫu ở các tỉnh Hà Nội, Hải Phịng,
Thái Ngun, Hịa Bình, cho thấy tỉ lệ các trẻ gặp phải các vấn đề SKTT là
không nhỏ 18% trẻ gặp phải các vấn đề về tâm thần. Đối với từng vấn đề
SKTT cụ thể trong tám hội chứng, tỉ lệ trẻ mắc các vấn đề này dao động trong
khoảng từ 6,6% (vấn đề Thu mình trầm cảm) đến 2,7% (vấn đề Chú ý). Hành
vi hung tính là một vấn đề đang được xã hội rất quan tâm xếp thứ 4 với 5,4%.
1.2.

Các cơng trình nghiên cứu về tác động của Covid về sức khỏe

tinh thần
Dịch Covid 19 để lại nhiều hệ lụy đến sức khỏe của con người. Những
vấn đề mới nảy sinh trước, trong và cả sau khi dịch bệnh diễn, sức khỏe tinh

thần là một trong những chủ đề mới, dần nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý
và các nghiên cứu trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Dưới đây là
những nghiên cứu xoay quanh về vấn đề tác động của Covid đến sức khỏe
tinh thần:
Nghiên cứu Ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 đến sức khỏe tinh
thần- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
của tác giả Đặng Nguyên An. Tác giả đưa ra kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu
trên thế giới (1) Tỷ lệ dân số có các triệu chứng tâm lý tương đối cao. Cụ thể,
lo âu (6,33%- 50,9%), trầm cảm (14,6%- 48,3%), rối loạn cảm xúc (7%53,8%), đau khổ (34,43%- 38%) và căng thẳng (8,1%- 81,9%). (2) Cả gai
đoạn, trước và trong khi xảy ra đại dịch, tỷ lệ lo âu, căng thẳng và trầm cảm
của phụ nữ đều cao hơn nam giới. Tác giả đưa ra dẫn chứng về một nghiên
cứu, nghiên cứu này chỉ ra những người phụ nữ có con dưới 18 tuổi cho biết
các triệu chứng rối loạn tinh thần cao hơn so với nam giới có con cùng hồn
cảnh (49% so với 40%). Kết quả khảo sát do quỹ Kaiser tiến hành ở Mỹ cuối
tháng 6/2021 cho thấy, các triệu chứng rối loạn lo âu hoặc trầm cảm khi trải
qua đại dịch Covid 19 ở nam giới là 24,8%, trong khi đó ở nữ giới, con số này
5


lên đến 33,1% (3)Con số có dao động, tùy theo từng quốc gia, khu vực.
Nghiên cứu tại Việt Nam (1)Cách ly tại nhà, chờ đợi tiêm vắc xin khiến
khơng ít người khó chịu, căng thẳng kéo dài dẫn tới trầm cảm, suy sụp tinh
thần. Việc liên tục theo dõi các thơng tin về tình hình dịch bệnh và tin xấu độc
có thể dẫn đến tâm trạng hoang mang, lo lắng (2) Ảnh hưởng của đại dịch đối
với các nhóm dân cư là khác nhau. Trẻ em không được gần cha me do phải đi
cách ly; sự phân biệt, kỳ thị với gia đình có người mắc covid;...
Nghiên cứu Mental Health Problems and Social Media Exposure
During COVID-19 Outbreak (Các vấn đề về sức khỏe tâm thần và tiếp xúc
với phương tiện truyền thông xã hội trong thời gian bùng phát COVID-19)
thực hiện bởi Đại học Phúc Đán (Thượng Hải) - Viện truyền thông sức khỏe

Phúc Đá. Nghiên cứu đánh giá mức độ phổ biến của các vấn đề sức khỏe tâm
thần và kiểm tra mối liên hệ của chúng với việc tiếp xúc với mạng xã hội.
Thực hiện một nghiên cứu giữa các công dân Trung Quốc từ 18 tuổi trở lên
trong thời gian từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 2019. Khảo sát
trực tuyến được sử dụng để đánh giá nhanh. Tổng số 4872 người tham gia từ
31 tỉnh và khu tự trị đã tham gia vào nghiên cứu hiện tại. Bên cạnh nhân khẩu
học và tiếp xúc với mạng xã hội (SME), bệnh trầm cảm được đánh giá bởi
“Chỉ số sức khỏe toàn diện” của WHO-Five (WHO-5) phiên bản Trung Quốc
và lo lắng được đánh giá bằng phiên bản Trung Quốc của “thang điểm rối
loạn lo âu tổng quát” (GAD-7). Hồi quy logistic đa biến được sử dụng để xác
định mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với mạng xã hội với các vấn đề sức khỏe
tâm thần sau khi kiểm soát các biến. Phát hiện cho thấy có tỷ lệ cao các vấn
đề sức khỏe tâm thần, có liên quan đến SME thường xuyên trong thời gian
bùng phát COVID-19. Những phát hiện này cho thấy chính phủ cần quan tâm
nhiều hơn đến các vấn đề sức khỏe tâm thần, đặc biệt là trầm cảm và lo lắng
trong cộng đồng dân cư nói chung và đấu tranh với “bệnh dịch” trong khi
chống lại các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng.

6


Nghiên cứu Fear, Worry and Workplace Harassment Related to the
COVID-19 Epidemic Among Employees in Japan: Prevalence and Impact
on Mental and Physical Health (Sợ hãi, lo lắng và quấy rối nơi làm việc liên
quan đến đại dịch COVID-19 trong số nhân viên ở Nhật Bản: Tỷ lệ phổ biến
và ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể chất) nghiên cứu từ Đại học
Tokyo - Khoa Sức khỏe Tâm thần. Trong số 1.421 người được hỏi, 80% có
nỗi sợ hãi hoặc lo lắng dịch bệnh ; hơn 2/3 sợ nhiễm bệnh; và hơn 30% lo
lắng về sự bất ổn trong công việc do hậu quả của đại dịch COVID-19. Một
trong số 50 người được hỏi (2,3%) đã từng bị quấy rối tại nơi làm việc liên

quan đến COVID-19. Hầu hết những nỗi sợ hãi, lo lắng và quấy rối nơi làm
việc đều yếu nhưng có liên quan đáng kể đến sự đau khổ về tâm lý và các
triệu chứng về thể chất. Những người được hỏi với tình trạng thể chất mãn
tính cho biết nỗi sợ hãi và lo lắng dịch bệnh ngày càng nhiều hơn.
Tác động của đại dịch Covid-19 đến sức khỏe tâm thần của nhân
viên y tế tại một số Bệnh viện tuyến Trung ương năm 2020 do nhiều tác giả
thực hiện. Trong số tất cả những người tham gia, có 169, (9,6%) cho biết có
vấn đề sức khỏe tâm thần cần quan tâm 49 (2,8%) báo gặp phải tình trạng
căng thẳng; 155 (8,8%) báo cáo họ bị ảnh hưởng trầm trọng bởi tình trạng
căng thẳng, tồn tại lâu dài có thể ngăn cản hoạt động của hệ thống miễn dịch
cịn lại 1391 người (78,9%) cho là bình thường. Điểm trung bình của “Sự ám
ảnh” về COVID 19 là cao nhất (7,1 ± 7,3), tiếp theo là “Sự lảng tránh” (4,8 ±
6,9) và “Phản ứng thái quá” (3,2 ± 4,8). Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính
đa biến cho thấy, điều dưỡng có nguy cơ bị ám ảnh bới COVID-19 cao hơn
bác sĩ, người làm hành chính cao hơn cán bộ làm tại khoa cấp cứu-hồi sức;
cán bộ y tế phơi nhiễm hàng ngày có nguy cơ bị ám ảnh ít hơn những người
gần như khơng phơi nhiễm. Cán bộ y tế nữ ít lảng tránh hơn nam giới, người
sống một mình hay lảng tráng dịch bệnh hơn người sống cùng gia đình, bạn
bè, nhân viên hành chính thường lảng tránh dịch bệnh hơn nhân viên

7


cấp cứu, hồi sức và những người tiếp xúc hàng ngày ít lảng tráng hơn người
ít tiếp xúc. Những người sống một mình thường phản ứng thái quá với dịch
bệnh, điều này cũng tường tự ở người gần như không phải phơi nhiễm với
dịch bệnh. Cán bộ y tế có tuổi đời và tuổi nghề càng cao thì càng có khả năng
bị ám ảnh, lảng tránh và phản ứng thái quá với dịch bệnh COVID-19.
Tóm lại, tổng quan nghiên cứu đã mang lại cho chúng ta một bức trang
khái quát về chủ đề liên quan đến tác động của dịch covid 19 đến sức khỏe

tinh thần của học sinh THPT. Các cơng trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề và
đưa ra các lý giải dưới nhiều góc độ và chiều cạnh khác nhau, giúp chúng ta
có cái nhìn đa chiều hơn vào vấn đề nghiên cứu. Đồng thời cũng giúp cho nhà
nghiên cứu nhân ra rằng, ảnh hưởng của COVID-19 đối với sức khỏe tinh
thần của người dân nói chung và của học sinh THPT nói riêng chủ đề mang
tính cấp thiết hiện nay, cần đi sau vào phân tích.
2. Tên đề tài nghiên cứu cụ thể
Đề tài: Tác động của dịch bệnh covid 19 đến sức khỏe tinh thần học
sinh THPT (Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội)
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu
2.1.

Mục đích nghiên cứu

Luận giải tìm hiểu những tác động của COVID-19 ảnh hưởng đến sức
khỏe tinh thần của học snh THPT, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp
nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch đến sức khỏe tinh thần của các
bạn học sinh THPT
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của học sinh
THPT
- Đánh giá thực trạng sức khỏe tinh thần của học sinh THPT hiện nay.

8


3. Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu

3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: “Tác động của dịch bệnh covid 19 đến sức khỏe
tinh thần học sinh THPT”
3.2.

Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực địa nhằm thu tập thông tin cho
đề tài dự kiến từ 1/2022 đến 3/2022.
- Phạm vi không gian: thành phố Hà Nội.
3.3.

Khách thể nghiên cứu

Khách thể: Học sinh THPT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết nghiên cứu, biến số nghiên cứu
4.1.

Giả thuyết nghiên cứu

- Kết quả và quá trình học online làm gia tăng các triệu chứng tiêu cực
về sức khỏe tinh thần của học sinh
- Thời gian học online càng kéo dài học sinh càng gặp nhiều vấn đề về
tâm lý.
- Học sinh THPT có những dấu hiệu ảnh hưởng về sức khỏe tâm thần
đến từ chính phụ huynh của mình.
4.2.


Biến số nghiên cứu

Biến độc lập: Phân tích mối liên quan từng người thức hiện khảo sát
Một số yếu tố cá nhân của người dân: tuổi: giới; nơi ở; học vấn; lớp/
khối; tình trạng hơn nhân của bố mẹ

9


5. Khung phân tích

Các biện pháp
phịng chống ứng
phó

COVID 19

Gian cách xã
hội, cách ly,
phong tỏa

Học tập

Thông tin về đại
dịch và hiệu quả
kiểm sốt

Truyền thơng, dư
luận, mạng xã hội


Sức khỏe tinh thần

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.

Phương pháp phân tích tài liệu

Khi nghiên cứu lý luận, chúng tôi tiến hành thu thập các tài liệu lý luận,
các kết quả nghiên cứu thực tiễn (sách, luận án, bài báo, tạp chí, cơng trình
nghiên cứu trong và ngoài nước,..) về các vấn đề liên quan đến đề tài. Các tư
liệu trên được nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa để xây dựng cơ
sở lý luận cho đề tài.
Đề tài thu thập các thông tin có sẵn từ các cơng trình nghiên cứu khoa
học của các tác giả, các bài báo, tạp chí Khoa học… Dựa vào đó sử dụng các
thơng tin phù hợp để học tập, phân tích, so sánh với kết quả nghiên cứu của
đề tài này.

10


6.2.

Phương pháp điều tra bằng phương pháp bảng hỏi Anket

Điều tra hương pháp phỏng vấn sâu. Kết quả được xử lý và phân tích
qua phần mềm thống kê SPSS 2.0 để xử lý các thông tin định lượng.
6.3.

Cách thức chọn mẫu


Cỡ mẫu: 200 học sinh THPT
Cách thức chọn mẫu: Tiến hành chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên phân tầng với khách thể là học sinh THPT tại TP. Hà Nội, bao
gồm cả học sinh các khối, các lớp học, đảm bảo khách thể nghiên cứu được
lựa chọn một cách khách.

11



×