Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

[TIỂU LUẬN] CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.79 KB, 10 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Công tác dân vận là một mặt cơng tác cơ bản của Đảng, nhân tố quan trọng
góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng “thế
trận lòng dân” vững chắc. Trước u cầu mới của tình hình, nhiệm vụ, cơng tác
dân vận cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, xứng đáng là cầu nối
giữa “ý Đảng” với “lòng dân”, phát huy sức dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đại hội lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”
nhằm phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, trong q trình thực
hiện công cuộc đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng
được nâng cao, bên cạnh mặt tích cực song cũng khơng ít thách thức, khó khăn đó
là một số nơi tình trạng mất đồn kết, nhân dân khiếu kiện kéo dài; một số cán bộ,
đảng viên, cơng chức, viên chức cịn gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân; đặc biệt là
các thế lực thù địch vẫn ra sức chống phá, gây mất đoàn kết và chia rẽ mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng với nhân dân, làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Chính vì thế thực hiện tốt cơng tác dân vận của Đảng trong tình hình mới là hết sức
quan trọng và cần thiết.
PHẦN II: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1. Khái quát về công tác dân vận
1.1. Khái niệm công tác dân vận
- V.L.Lênin cho rằng: “Chỉ có các chính đảng dựa hẳn vào những giai cấp
nhất định thì mới mạnh mẽ, mới đứng vững được trong bất cứ bước ngoặt nào của
các sự kiện. Cuộc đấu tranh chính trị cơng khai buộc các đảng phải liên hệ chặt chẽ
hơn nữa với quần chúng vì khơng có những mối liên hệ đó thì các đảng chẳng cịn
giá trị nữa”(1).
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác,
Ph.Angghen, V.I.Lênin, đã đưa ra khái niệm dân vận: “Dân vận là vận động tất cả
lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành lực
lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm, những cơng việc Chính phủ


và Đồn thể đã giao cho”(2).

1


- Từ các quan niệm nêu trên có thể đưa ra khái niệm: Cơng tác dân vận của
Đảng là tồn bộ hoạt động của Đảng nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Đảng với nhân dân, được thể hiện bằng việc tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà
nước; chăm lo lợi ích, nguyện vọng chính đáng; phát huy quyền làm chủ của nhân
dân; tăng cường khối đại đồn kết tồn dân tộc thơng qua các tổ chức đảng, chính
quyền, các đồn thể nhân dân và vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên.
1.2. Tầm quan trọng của công tác dân vận
- Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa
khơng phải là sản phẩm tự phát mà cần có ý thức tự giác của các thành viên trong
xã hội. Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, nhưng Đảng vẫn giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhân dân và cá nhân lãnh đạo. Để dẫn dắt phong
trào cách mạng cần phải có Đảng tiên phong lãnh đạo.
- Cách mạng không phải công việc của một cá nhân, một nhóm người mà là
cơng việc của tồn dân. Cơng tác dân vận có vai trị giác ngộ, tập hợp, lôi cuốn quần
chúng nhân dân thành lực lượng và sức mạnh to lớn.
- Tầm quan trọng của công tác dân vận đã được thực tiễn lịch sử cách mạng
Việt Nam chứng minh. Trong buổi trứng nước của cách mạng, hầu hết cán bộ, đảng
viên đều gắn gó, sống trong lòng nhân dân.
- Sinh thời, V.I.Lênin đã từng cảnh báo hai nguy cơ của Đảng Cộng sản cầm
quyền, đó là sai lầm về đường lối và quan liêu, xa rời nhân dân. Cơng tác dân vận
góp phần tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
- Qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng như Đại hội VI, Đại hội X
và Đại hội XI và Đại hội XII đều khẳng định vai trò to lớn của nhân dân, sự nghiệp

cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người
làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới.
1.3. Quan điểm về công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới
1.3.1. Quan điểm về vị trí, vai trị của nhân dân, cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ.
1.3.2. Quan điểm về lợi ích, động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát
huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hịa các lợi
ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của

2


người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho
dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
1.3.3. Quan điểm về phương thức lãnh đạo của công tác dân vận phải gắn
liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh. Mọi quan điểm,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức phải
gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.
1.3.4. Quan điểm về trách nhiệm đối với công tác dân vận, công tác dân
vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên
chức, đồn viên, hội viên các đồn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đồn thể
làm tham mưu và nịng cốt.
1.3.5. Quan điểm về hình thức cơng tác dân vận, nhà nước tiếp tục thể chế
hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành quy
chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, cơng chức,
viên chức, đồn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng,
phong phú, khoa học, hiệu quả.

2. Nội dung và phương thức công tác dân vận của Đảng
2.1. Nội dung của công tác dân vận của Đảng
- Tuyên truyền, vận động làm cho dân hiểu, dân tin, dân theo và tập hợp tổ
chức cho dân làm nhằm thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng; chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
- Chăm lo lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân thông qua việc
xây dựng, ban hành và thực hiện những chủ trương, chính sách, đáp ứng lợi ích và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ tận tâm,
tận lực phục vụ nhân dân.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân
thông qua các tổ chức đại diện của mình thực hiện quyền làm chủ và làm chủ trực tiếp.
- Tổ chức, vận động nhân dân tham gia phong trào quần chúng; tập hợp nhân
dân vào các tổ chức khác nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết thực hiện thắng lợi các
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Như
vậy, có thể thấy cơng tác dân vận vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật (dân vận khéo).
 2.2. Phương pháp công tác dân vận

3


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương pháp cơng tác dân vận có ba việc quan
trọng để thực hiện, đến nay vẫn cịn ngun giá trị, đó là: Tun truyền cho
dân; Gương mẫu trước dân và Quan tâm giải quyết lợi ích của dân. 
- Thứ nhất là tuyên truyền cho dân, tức là làm cho dân biết, dân hiểu, dân tin,
dân làm theo. Người làm dân vận phải giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu
được việc đảng, đoàn thể vận động họ làm là có lợi cho họ và là nhiệm vụ của họ,
họ phải hăng say thực hiện. Song, để nhân dân có thể một lịng đi theo Đảng, khi mà
những lợi ích đối với họ khơng những chưa có ngay trước mắt mà còn phải đương
đầu với gian khổ, hy sinh thì cần phải tun truyền, giải thích để nhân dân hiểu,
thấy được lợi ích lâu dài của sự hy sinh, gian khổ khi làm cách mạng mà dấn thân

làm theo. Hiểu và thấy được lợi ích chính đáng mà họ được thụ hưởng khi cách
mạng thành cơng thì chắc chắn họ sẽ một lịng theo Đảng, xả thân vì sự nghiệp của
họ, do họ và vì họ.
- Thứ hai là gương mẫu trước dân, Bác đã dạy “một tấm gương sống cịn có
giá trị hơn 100 bài diễn văn tun truyền”. Khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công nhân, vừa
là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vận động được dân, nhân dân, cả
dân tộc, Đảng phải: vừa là đạo đức, vừa là văn minh; Đảng Cộng sản phải tiêu biểu
cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại; Đảng phải thực sự đồn kết
nhất trí; được nhân dân thừa nhận. Muốn dân vận có kết quả tốt, bên cạnh nội dung
và phương pháp tuyên truyền, vận động thì địi hỏi đạo đức, năng lực của mỗi đảng
viên, cán bộ. Cán bộ, đảng viên phải làm gương trong sáng, khơng vun vén cho
riêng mình, coi lợi ích cho dân là lợi ích cho mình, sống được dân yêu thương, quý
trọng; phải xứng đáng tiên phong trong mọi công việc, giải quyết tốt những vấn đề
thuộc về trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên. Nhân dân trọng đức, nể tài đảng
viên, cán bộ là nguyên nhân căn bản làm nên thành công của công tác dân vận.
- Thứ ba là quan tâm và giải quyết lợi ích của dân. Công tác dân vận phải
gắn liền với việc quan tâm và giải quyết lợi ích của nhân dân “việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
3. Công tác dân vận của Đảng thời tình hình mới
3.1. Thực trạng cơng tác dân vận của Đảng
Qua các kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đều tập trung nhấn mạnh đến
tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; sự gắn bó mật thiết

4


giữa Đảng với nhân dân và việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động quần chúng sao cho phù hợp với thực tiễn ở từng thời kỳ, từng

giai đoạn cách mạng,… đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc về
công tác vận động quần chúng, lấy đó làm cơ sở để tiếp tục đổi mới, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 8 (Nghị quyết 8b), khóa VI (27-3-1990) - Nghị quyết chuyên đề
đầu tiên về công tác dân vận, một dấu mốc quan trọng nữa đó là Nghị quyết 25 NQ/TW, ngày 03-6-2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác dân vận trong tình hình mới”. Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng đặc
biệt và ý nghĩa to lớn về công tác dân vận trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, nâng
cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân” nhằm phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thực trạng công
tác dân vận từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đã có
những chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động. Trong những năm qua,
Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng chăm lo đời sống nhân dân. Đảng luôn
luôn coi việc bảo đảm và cải thiện đời sống nhân dân là trách nhiệm to lớn thường
xuyên của mình. Việc nắm bắt diễn biến tâm lý, tư tưởng của nhân dân, giải quyết
kịp thời, thỏa đáng những vấn đề bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, tổ chức động viên,
khích lệ nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở được chú
trọng thường xuyên hơn. Vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội
được phát huy thông qua việc chủ động thảo luận, bàn bạc về các chủ trương, nghị
quyết của Đảng bộ, tổ chức đảng nhằm phát huy sáng kiến trong việc tổ chức hoạt
động của mình, tạo sự thống nhất trong phương thức tiến hành công tác dân vận.
Việc triển khai thực hiện công tác dân vận được xây dựng thành chương trình, kế
hoạch, định hướng nhiệm vụ cơng tác dân vận trong từng thời điểm, điều kiện cụ
thể, đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội,
xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Quan tâm coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác
dân vận, công tác tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên. Hệ thống tổ chức Mặt trận
Tổ quốc, các đồn thể chính trị – xã hội được kiện toàn, củng cố, đổi mới phương

thức hoạt động, đã có nhiều hình thức hoạt động vận động nhân dân, tích cực tham

5


gia xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, đẩy mạnh các phong
trào thi đua yêu nước. Với việc ban hành và thực hiện hiệu quả quy chế dân chủ,
nhân dân được tham gia thảo luận xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước, tham gia kiểm tra mọi hoạt động của tổ chức Đảng,
giám sát, phê bình cán bộ, đảng viên, góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới, bảo
đảm quốc phịng an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận
một số hạn chế trong công tác dân vận hiện nay.
- Việc xây dựng và triển khai thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng về
công tác dân vận còn chưa kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính
xác những chuyển biến; thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân…để chủ trương, chính sách phù hợp.
- Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa
kịp thời, nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
- Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị
của Đảng về công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức.
- Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều
bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân nhiều nơi bị vi phạm,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
- Vẫn còn thực tế ở nhiều nơi, nhất là cấp cơ sở, cấp ủy chưa coi trọng đúng
mức công tác dân vận.
Nguyên nhân những hạn chế, khuyết điểm, có thể thấy đó là vẫn cịn một số
cấp ủy Đảng chưa nhận thúc đầy đủ về vị trí, vai trị của cơng tác dân vận; chưa

thấy hết trách nhiệm và chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo công tác này.
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong có cán bộ lãnh đạo, quản
lý cịn thiếu gương mẫu, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận chậm được đổi mới,
chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn; Tổ chức Đảng, chính quyền,
Mặt trận, đồn thể chính trị - xã hội ở một số cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh
đạo, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân, không làm tốt công tác tuyên truyền
vận động nhân dân.

6


- Chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm và bố trí đủ nguồn lực cho việc
triển khai, thực hiện chủ trương chính sách cơng tác dân vận.
- Phương pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối tượng,
đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, người theo đạo.
- Việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận,
đồn thể chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.
3.2. Giải pháp tăng cường công tác dân vận trong tình hình mới
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định một trong những
nhiệm vụ quan trọng về xây dựng Đảng trong điều kiện hiện nay là “tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng
với Nhân dân”. Theo đó, nghị quyết đưa ra mục tiêu rất rõ của công tác dân vận là:
“Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình
hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân;
tập hợp, vận động Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân, tạo thành phong
trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trên cơ sở các nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và tình

hình thực tế của từng địa phương, các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng về cơng tác dân vận trong tình hình mới nhằm
củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng.
- Thứ nhất, kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng
ta thực sự trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. 
Thực hiện tốt Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội và Quy định để Mặt trận Tổ quốc, các
đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là nhân tố tạo nên sức
mạnh để giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời, cũng là mục tiêu
hướng tới của cơng tác dân vận. Vì vậy, trong tình hình hiện nay, thực hiện nghiêm
túc các nội dung, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là nguyên tắc tập

7


trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đẩy mạnh tự phê bình và phê
bình, tăng cường đồn kết, thống nhất, gắn bó với nhân dân, ngăn chặn và đẩy lùi
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, gắn với tiếp tục đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
- Thứ hai, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy
và chính quyền các cấp đối với công tác dân vận, đổi mới công tác tuyên truyền,
giáo dục, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu,
quan điểm, nhiệm vụ cơng tác dân vận.

Trong đó, lấy chi bộ làm trọng tâm để chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Sự lãnh
đạo của cấp ủy, tổ chức đảng phải bám sát nhiệm vụ chính trị của từng địa phương,
sâu sát đến từng địa bàn, cơ sở; thấy được những thuận lợi, khó khăn cùng tâm tư,
nguyện vọng và những bức xúc của người dân để có giải pháp lãnh đạo phù hợp.
Đồng thời, phải phát huy tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy và chính
quyền trong cơng tác chỉ đạo cơng tác dân vận, coi đó là nhiệm vụ chính trị trọng
tâm. Do đó, u cầu người đứng đầu phải tiên phong gương mẫu về phẩm chất,
năng lực, phương pháp, tác phong công tác. Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị tập
trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là
những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù, thu hồi đất đai, tệ
nạn xã hội,… theo nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân.
Tăng cường lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền, chủ động đấu tranh
với các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch chống phá khối đại
đoàn kết dân tộc, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến, gương
người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực; phát huy tinh thần yêu nước, thực hành dân
chủ, tạo ra phong trào hành động cách mạng của toàn dân. Phát hiện, bồi dưỡng kỹ
năng vận động nhân dân cho những người có uy tín trong cộng đồng dân cư.
- Thứ ba, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, các đồn thể nhân
dân về cơng tác dân vận. Đảng coi Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là một bộ
phận quan trọng cấu thành hệ thống chính trị nước ta, là khâu quan trọng để củng cố
mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân, phát huy tính tích cực của nhân dân vào quản lý

8


Nhà nước, giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, Đảng
khơng ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt

trận và các đoàn thể theo hướng dân chủ hóa, tiếp xúc, đối thoại chân thành, lắng
nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đồn thể nhân dân, góp phần tích cực xây
dựng các đồn thể ngày càng vững mạnh.
- Thứ tư, nâng cao trách nhiệm đối với công tác dân vận của các cơ quan nhà
nước. Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương mới của Đảng về công tác dân
vận thành văn bản pháp luật để các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên và mọi tầng
lớp nhân dân thực hiện. Các cấp chính quyền phải thường xuyên lắng nghe những
đề xuất, kiến nghị từ các đoàn thể về xây dựng nội dung và phương thức hoạt động
của công tác dân vận trong tình hình mới. Đổi mới nội dung, hình thức tiếp xúc cử
tri, lắng nghe các ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; gắn công tác dân vận với thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở để
khơi dậy và động viên tinh thần, trí tuệ, vật chất, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tạo điều kiện để nhân dân hiểu và giám sát hoạt động của chính quyền, trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước. Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, đổi mới lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân
dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, tăng cường đối thoại, tiếp
xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết kịp thời đơn, thư khiếu tố của dân; làm tốt
công tác thanh tra nhân dân và hòa giải ở cơ sở; chủ động nắm tình hình, giải quyết
có hiệu quả những công việc liên quan đến đời sống của nhân dân.
- Thứ năm, đổi mới tổ chức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
hướng mạnh về cơ sở, sát cơ sở. Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân.
Quan hệ Đảng với dân, dân với Đảng bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống cịn
đối với vận mệnh đất nước. Do đó, vai trị, phương thức cơng tác của Mặt trận và
các đồn thể nhân dân cũng có sự thay đổi cho phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên,
mục đích của Mặt trận và các đồn thể nhân dân khơng thay đổi, đó là đồn kết với
quần chúng, dân chủ với quần chúng, chăm lo lợi ích của đồn viên, hội viên. Do
vậy, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phải đổi mới phương thức hoạt động là
hướng mạnh về cơ sở, sâu sát cơ sở, khắc phục tệ hành chính hóa; phải đi sâu vào
từng đối tượng và từng loại hình cơ sở để làm cơng tác dân vận có hiệu quả, tránh
phơ trương, hình thức, tránh tình trạng làm công tác dân vận chỉ chú ý và dừng lại ở

những nơi có phong trào khá, ở các đơ thị và những nơi dễ làm.

9


- Thứ sáu, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trị, tầm
quan trọng của cơng tác dân vận; tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các
cơ quan nhà nước; đẩy mạnh phong trào thi đua u nước, góp phần thúc đẩy q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập chủ quyền,
an ninh chính trị; quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ ban
dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh. Đồng thời
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện công tác dân vận.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Nội dung cốt lõi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân vận là
quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công
tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, giải quyết kịp thời, có hiệu quả
những bức xúc, kiến nghị chính đáng của Nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, về tăng cường và đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, thực
hiện tốt quy chế dân vận của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.
Thấy được thực trạng và giải pháp công tác dân vận trong tình hình hiện nay
là cơ sở để cấp ủy các cấp quan tâm, xác định cho mình hướng đi phù hợp tình hình
và điều kiện thực tế tại địa phương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm của hệ
thống chính trị và nhân dân, cơng tác dân vận của Đảng trong thời gian tới sẽ có
những bước chuyển biến mới, thiết thực, hiệu quả hơn. Đây là điều kiện quan trọng
để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, củng cố vững chắc niềm tin yêu của nhân dân đối với Đảng.


10



×