Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát triển bền vững cây ba kích tại quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 80 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Quảng Ninh nằm ở phía Đơng Bắc Việt Nam, chạy dài theo hướng Đông
Bắc - Tây Nam với toạ độ địa lý: vĩ độ Bắc từ 20040’ đến 21040’; kinh độ
Đơng từ 106025’ đến 108025’; phía Bắc giáp nước Cộng hồ Nhân dân Trung
Hoa; phía Tây Bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Đơng và phía
Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, thành phố Hải Phòng và tỉnh Hải Dương.
Quảng Ninh có diện tích đất tự nhiên 6.102 km2, có đường biên giới trên
bộ (118,8 km) và trên biển (gần 191 km) với Trung Quốc; 3 cửa khẩu (Móng
Cái, Hồnh Mơ, Bắc Phong Sinh) tiếp giáp với vùng duyên hải rộng lớn Nam
Trung Quốc; bờ biển dài 250 km, có 2.077 đảo (chiếm 2/3 số đảo của Việt
Nam), trên 40.000 ha bãi triều và hơn 20.000 ha diện tích eo biển và vịnh.
Tỉnh Quảng Ninh có 14 đơn vị hành chính, trong đó 10/14 huyện, thị xã,
thành phố tiếp giáp biển. Dân số Quảng Ninh đạt 1,172 triệu người (năm
2011). Đây cũng là tỉnh duy nhất của cả nước có 4 thành phố (Hạ Long, ng
Bí, Cẩm Phả và Móng Cái) và 02 thị xã (Quảng n, Đơng Triều).
Với đặc điểm địa hình đa dạng, khí hậu có độ ẩm cao là điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển đa dạng của hệ thống thực vật, trong đó có cây Ba Kích
(Morinda officinalis How) được xác định là lồi cây có giá trị kinh tế cao.
Trong những năm qua, đã có một số doanh nghiệp đầu tư sản xuất giống
và trồng mơ hình cây Ba Kích tại tỉnh Quảng Ninh, trong đó tập trung nhiều
nhất ở các huyện Ba Chẽ và Hoành Bồ. Tuy nhiên, do tỉnh Quảng Ninh chưa
quy hoạch phát triển cây Ba Kích và thiếu hệ thống thông tin về công nghệ
sản xuất giống, kỹ thuật trồng nên việc phát triển cây Ba Kích cịn mang tính
tự phát, mỗi địa phương áp dụng một kỹ thuật khác nhau đã ảnh hưởng đến
năng xuất, chất lượng sản phẩm. Sản phẩm củ Ba Kích chủ yếu chỉ cung cấp
cho các cơ sở ngâm rượu phục vụ thương hiệu rượu Ba Kích Quảng Ninh.
Thực hiện Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2013 của Thủ tướng



2

Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm
2020 và định hướng đến năm 2030 (ưu tiên phát triển Ba Kích), tỉnh Quảng
Ninh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng tham mưu xây dựng Quy hoạch phát
triển cây Ba Kích (Quy hoạch vùng nguyên liệu; cơ sở sản xuất giống; cơ sở
chế biến tiêu thụ sản phẩm). Tuy nhiên, do thiếu thông tin về thực trạng công
nghệ sản xuất giống, kỹ thuật trồng, vùng trồng nguyên liệu, chế biến, thị
trường tiêu thụ… nên đến nay tỉnh Quảng Ninh vẫn chưa xây dựng được Quy
hoạch phát triển bền vững cây Ba Kích. Để định hướng cho việc phát triển cây
Ba Kích, ngày 27/5/2014, Ủy ban nhân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành công văn
số 2802/UBND-NLN1 về việc tạm thời chấp thuận phương án vùng trồng Ba
Kích tập trung (Hồnh Bồ là 200 ha; Ba Chẽ là 616 ha).
Việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp
phát triển bền vững cây Ba kích tại Quảng Ninh” là rất cần thiết. Kết quả
nghiên cứu góp phần tạo lập cơ sở khoa học cho việc định hướng phát triển
bền vững lồi cây Ba kích tại Quảng Ninh.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Ngồi nước
1.1.1. Về phân loại thực vật
Ba Kích (Morinda officinalis How, 1858), thuộc họ Cà phê (Rubiaceae)
(Lecomte H, 1905 - 1952).
Theo hệ thống phân loại thực vật APG II, họ Cà phê có khoảng 611 chi
và hơn 13.000 loài. Sự đa dạng về số lượng các loài đã đưa họ cà phê đứng vị
trí thứ tư về số lượng các lồi thực vật có hoa và đứng thứ năm về số lượng

chi. Trong đó có chi Nhàu (Morinda) có khoảng 80 lồi, hầu hết các loài
trong chi Nhàu được phân bố ở các vùng nhiệt đới trên thế giới. Các loài
trong chi này bao gồm cả cây thân gỗ, cây bụi và cây dây leo; hầu hết quả của
các loài trong chi này là quả thịt, trong đó có lồi Ba kích. Ở Ấn Độ ba kích
cịn được gọi là “Nhàu Ấn Độ” [26].
1.1.2. Về phân bố tự nhiên
Ba kích ưa khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình năm 2224 oC, lượng mưa hàng năm khoảng 2000 mm. Đất có Ba kích mọc tự nhiên
thuộc loại feralit đỏ vàng hay vàng đỏ, hơi chua. Ba kích có phạm vi phân bố
hẹp nên có ít cơng trình nghiên cứu về đặc điểm phân bố của lồi cây này, chỉ có
một vài cơng trình nghiên cứu điển hình ở Australia, New Guinea và Trung
Quốc [29]. Riêng ở Trung Quốc thì Ba kích có phân bố tự nhiên ở các tỉnh
Quảng Đơng, Phúc Kiến, Vân Nam, Quảng Tây và đảo Hải Nam [27].
1.1.3. Về đặc điểm hình thái, sinh thái
Ba kích là cây dây leo, có nhiều nhánh mọc ra từ thân, dai và bền, khi
non có nhiều lơng cứng nhỏ, hay đầy lơng. Lá mọc đối, cuống lá dài 4-11mm,
có nhiều lơng măng, trên cả 2 bề mặt lá có màu nâu đến nâu vàng, sáng bóng
mờ, lá hình trứng đến hình trứng ngược hoặc hình elíp, chiều dài 6-13cm,


4

chiều rộng 3-6cm. Lá kèm hợp nhất thành mo cau hoặc ống dài từ 3-5mm, có
lơng măng, mỗi bên 2 răng cưa. Cụm hoa hình tán, mọc ở đầu nhánh, cuống
hoa có từ 1-7 hoặc 15-25, có hình chùm dài từ 0,1 - 1cm. Hoa hợp nhất, đài hoa
có lơng măng nhẵn, hình tam giác, đơi khi rõ rệt khơng đều trên một hoa riêng
lẻ. Tràng hoa màu trắng, hình chng hoặc hình ly, bên ngồi có lơng măng
hoặc khơng, ống dài 3-4mm, thùy 2-4, hình mũi mác hoặc hình chữ nhật hẹp,
dài 3-4mm, đế hoa hình cầu, đường kính 5-11mm. Quả hạch hồn tồn hợp
nhất hoặc rời, khi chín màu đỏ, dài 4-5mm. Mùa ra hoa tháng 5-6, mùa quả
chín tháng 10-11[20].

Các tài liệu nước ngồi rất ít mơ tả về đặc điểm sinh thái loài cây này, chỉ
nêu khái quát như Ba kích thường mọc ở rừng nơi có nhiều cây bụi thưa hoặc
dày trên núi, cũng như ở rừng trồng, ba kích thường mọc ở độ cao 100 - 500m
so với mực nước biển [20].
1.1.4. Về thành phần hố học và cơng dụng
Ba kích là lồi cây dược liệu, bộ phận sử dụng là rễ củ. Trong đó có các thành
phần hóa học sau: 1,6-dihydroxy-2,4-dimethoxyanthraquinone, 1,6-dihydroxy-2dimethoxyan-thraquinone, methylisoalizarin, ether methylisoalizarin-1-methyl, 1hydroxy-2-

methoxyanthraquinone,

1-hydroxy-2

-methoxyanthraquinone,

physicon, 1-hydroxy-anthraquinone, 2-methoxyanthraquinon (Tectoquinon), 1hydroxy-3-hydroxymethylanthraquinone, rubiadin và ether rubiadin-1-methyl. Hợp
chất hữu cơ Terpenoid được tìm thấy bao gồm: asperuloside tetraacetate,
monotropein, morindolide và morofficinaloside. Các đường Glucosid được tìm
thấy bao gồm nystose, 1F-fructofuranosylnystose, inlunin loại hexasaccharide và
heptasaccharide. sitosterol, 24 ethylcholesterol, một xeton (officinalisin) và một số
axit amin cũng đã được tìm thấy từ cấu tạo của củ Ba kích[27].
Trong y học cổ truyền của Trung Quốc, Ba kích được sử dụng để tăng
cường năng lực nam giới, được sử dụng để điều trị chứng bệnh liệt dương và
vô sinh, chữa trị thấp khớp, điều hòa kinh nguyệt ở phụ nữ [21]


5

1.1.5. Về kỹ thuật nhân giống
Những nghiên cứu về ba kích trên thế giới cịn chưa nhiều, đặc biệt là
chọn giống, nhân giống và kỹ thuật gây trồng. Tại Trung Quốc có một số tài

liệu nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống cây Ba kích như:
- Chen W, Xu L, Li Z, Li K (2006), đã nghiên cứu và nhân giống bằng
phương pháp ni cấy mơ cây ba kích như sau: tỷ lệ tạo chồi cao nhất 95% trên
môi trường MS + 1,0 mg/l 6-BA + 0,5 mg/l α-NAA. Kết quả 85 % chồi đã ra rễ
trên môi trường MS không bổ sung chất điều tiết sinh trưởng và 90% chồi đã ra
rễ sống sót sau khi cấy[22].
- He và cs (2000), kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chồi tạo rễ đạt
được cao nhất là 80% khi bổ sung α-NAA vào môi trường với nồng độ 0,2 0,5 mg/l [23].
- Huang và cs (2007), đã nghiên cứu đưa ra môi trường MS bổ sung 1,0
mg/l BA + 0,2 mg/l IBA sau 60 ngày nuôi cấy cho hệ số nhân chồi cao nhất
đạt 6 lần [24].
1.1.6. Về kỹ thuật gây trồng
Ở nước ngồi có rất ít các cơng trình nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng, tuy
nhiên theo một số tài liệu thì Ba kích được trồng dưới tán rừng, nơi có độ dốc từ
10o-30o, đất màu đỏ sẫm và ẩm, trong 3 năm đầu cần có độ tàn che và sau 3 năm
thì cần điều chỉnh đủ ánh sáng, nhưng không rõ là bao nhiêu phần trăm. Giai
đoạn từ 3-5 năm Ba kích sinh trưởng phát triển nhanh nhất và sau 6 năm có thể
khai thác cho hiệu quả cao nhất (dẫn theo Nguyễn Tập, 1996)[12].
1.1.7. Về vấn đề bảo tồn nguồn gen
Trung Quốc là nước sử dụng thảo dược để làm thuốc chữa bệnh nhiều
nhất từ trước tới nay, Ba kích được sử dụng như một loại dược liệu làm thuốc
bổ. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề bảo tồn loài cây này vẫn chưa thực hiện,
mới chỉ xác định được những vấn đề cần quan tâm như: Nghiên cứu xem xét


6

về giá trị y học cổ truyền trong việc sử dụng Ba kích làm thuốc; Điều tra phân
bố và đánh giá sản lượng Ba kích trong tự nhiên và gây trồng; Nghiên cứu các
đặc điểm sinh thái và ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái tới khả năng sinh

trưởng và phát triển của cây Ba kích; Phân tích các đặc điểm di truyền của
lồi Ba kích ở Trung Quốc [21][27].
1.1.8. Về công nghệ chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm
Đến nay khơng tiếp cận được cơng trình nào nghiên cứu về công nghệ
chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm Ba kích.
1.2. Trong nước
1.2.1. Về phân loại thực vật
Ba kích cịn có tên khác là Ba kích thiên, Chẩu phóng xì (Tày), Chày
kiềng địi (Dao)... và có tên khoa học là Morinda officinalis How, 1858.
Thuộc họ Cà phê – Rubbiaceae [4][8][10][13][19]. Trong dân gian còn gọi là
cây ruột gà.
1.2.2. Về phân bố
Ở Việt Nam, Ba kích có phân bố tự nhiên ở các tỉnh Quảng Ninh, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Yên Bái, Phú Thọ, Hà
Tây, Hịa Bình. Gần đây mới phát hiện ở huyện Tây Giang của tỉnh Quảng
Nam và huyện Hướng Hóa của tỉnh Quảng Trị [9][13][14].
Tại Quảng Ninh Ba kích được phân bố chủ yếu ở một số huyện miền núi
như Ba Chẽ, Hoành Bồ, Vân Đồn, Tiên Yên, Móng Cái, Bình Liêu
[9][18][29][30].
1.2.3. Về đặc điểm hình thái và sinh thái
Ba kích là cây dây leo bằng thân quấn, hóa gỗ ít, phân cành nhiều. Rễ
nạc dài, có nhiều ngấn giống ruột gà. Thân và cành lúc non có lơng, khi già thì
nhẵn. Lá có cuống ngắn, mọc đối, phiến lá thn hình bầu dục, nhọn hai đầu,
dài 6 - 14cm, rộng 3 - 6 cm. Lá kèm hình ống mỏng, ôm sát thân. Cụm hoa


7

dạng tán, mọc ở đầu cành, cuống cụm hoa dài 0,5 - 3cm, có nhiều lơng. Hoa
nhỏ màu trắng ngà, đài hình chén gồm những lá đài khơng bằng nhau. Nhị 4,

bầu hạ, thường có 2 ơ, vịi nhụy rất ngắn. Quả hạch hình cầu nhỏ, mọc rời
hoặc đính nhiều quả với nhau, khi chín màu đỏ cam. Hạt màu vàng, vỏ hạt
nhám [9][13][14].
Ba kích là cây ưa ẩm và chịu bóng khi cịn nhỏ. Trong tự nhiên thường
mọc ở trong rừng thứ sinh phục hồi, các đồi cây bụi hoặc trên đất bỏ hoang lâu
ngày. Cây thường phân bố tự nhiên ở độ cao từ 300 - 900m, nơi có khí hậu
nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, nhiệt độ trung bình 230C, lượng mưa trên
2000mm/năm. Ba kích có phân bố trên nhiều loại đất khác nhau như feralit đỏ
vàng, vàng đỏ, đất mùn trên núi; môi trường đất từ trung tính đến hơi chua. Cây
sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, trong mùa đông thường rụng lá nhưng
không nhiều; ra hoa nhiều hàng năm, nhưng đậu quả ít và chu kỳ sai quả không
đều. Tái sinh từ hạt và chồi tốt[9][13][14][29].
Hình thái cây ba kích tím phân bố tại Quảng Ninh là cây dây leo, sống
nhiều năm, thân non màu tím, có lơng, cành non có cạnh. Lá mọc đối, cứng
nhọn, hình ngọn giáo thn dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm, lúc non màu xanh, có
lơng dài ở mặt dưới, sau đó ít lơng và có màu trắng mốc; lá kèm hình ống.
Hoa nhỏ, màu trắng sau hơi vàng, 2-10 cánh hoa, 4 nhị, mọc thành cụm ở kẽ
lá, đầu cành. Quả trịn, khi chín màu đỏ[9][18]
1.2.4. Về thành phần hố học và cơng dụng
Ba kích là vị thuốc q được sử dụng từ lâu đời trong Y học cổ truyền ở
Việt Nam và Trung Quốc, được dùng làm thuốc bổ tăng cường năng lực cho
nam giới và điều hòa kinh nguyệt cho nữ giới, làm thuốc chữa các bệnh đau
nhức xương ở người già... Trong rễ củ Ba kích chứa các hoạt chất:
anthraglucosid, iridoid glucosid, các sterol, lacton, đường, nhựa acid hữu cơ,
tinh dầu, các chất vô cơ (K, Na, Mg, Fe), vitamin C [9][13].


8

1.2.5. Về kỹ thuật nhân giống

Ba kích có thể nhân giống từ hạt, hom và nuôi cấy mô
- Nhân giống từ hạt:
Theo Nguyễn Tập (2007), chọn cây mẹ lấy hạt và hom từ 3-5 tuổi trở
lên, cây sinh trưởng phát triển tốt, không sâu bệnh, ra hoa kết quả đều. Hàng
năm vào cuối tháng 10 - 11, khi quả đã chín đỏ thì tiến hành thu hái. Quả chín
thu hái về ủ 2-3 ngày cho mềm vỏ để chế biến lấy hạt, chà xát, đã bỏ phần thịt
quả và hạt lép, vớt ra phơi trong nắng nhẹ cho ráo vỏ sau đó gieo ngay. Trộn
hạt Ba kích với cát vàng theo tỷ lệ 1 hạt + 3 cát ủ trong túi vải và tưới ẩm
hàng ngày. Sau 17-25 ngày, hạt nứt nanh thì đem cấy vào bầu, tỷ lệ nảy mầm
đạt cao nhất tới 91%, sau 35-45 ngày cây mầm nhú lên khỏi mặt đất. Ngồi
ra, Ba kích cũng có thể nhân giống bằng phương pháp giâm hom, chọn những
cành bánh tẻ dưới 1 năm tuổi, cắt thành đoạn 6 - 8cm, chấm vào thuốc kích
thích ra rễ và cấy vào bầu. Tuy nhiên, thuốc kích thích ra rễ và nồng độ chưa
được tác giả nêu rõ[13].
Nguyễn Chiều (1999) đã nghiên cứu sản xuất giống cây ba kích từ hạt:
Quả chín đỏ hái về loại bỏ quả thối và tạp chất rồi ủ cho đến khi thịt quả chín
nhũn ra thì đãi lấy hạt. Loại bỏ hạt lép, hạt thối sau đó hong khơ hạt đến khối
lượng khơng đổi (1.000 hạt: 10g). Đem gieo thí nghiệm[5].
- Nhân giống từ hom:
Nguyễn Chiều, nghiên cứu sản xuất giống từ hom thân ba kích. Các
cơng thức thí nghiệm xử lý hom giống bằng chế phẩm của Trung tâm Khoa
học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia – Viện Công nghệ sinh học. Kết quả cho
thấy hom không ra rễ chỉ sống tối đa 33 ngày, tỷ lệ hom ra rễ cao nhất
48,75%. Những hom ra rễ tiếp tục cấy vào bầu sau 73 ngày mới có hom đầu
tiên ra chồi [6].
Lê Đình Dung và Mai Nghị đề cập đến nhân giống bằng rễ. Mai Nghị


9


chỉ ghi: cắt đoạn rễ, vùi xuống đất sẽ tạo thành cây mới. Lê Đình Dung đào rễ
ba kích mọc tự nhiên cắt thành đoạn 20cm làm được 3.496 hom trồng thí
nghiệm. Kết quả chết 100%[7][11].
- Để cải thiện hệ số nhân giống và chất lượng giống cây ba kích, một
số tác giả đã nghiên cứu sử dụng phương pháp nuôi cấy mô tế bào.
+ Võ Châu Tuấn và Huỳnh Minh Tư (2010), đã nghiên cứu đưa ra quy
trình nhân giống invitro cây ba kích như sau: Giai đoạn vào mẫu, sử dụng đoạn
thân 1-1,5 cm có mắt lá của cây ba kích 1 năm tuổi huyện Tây Giang - Quảng
Nam ngâm trong dung dịch thuốc diệt nấm (0,3%) khoảng 15 phút sau đó khử
trùng bằng cồn 700 trong 60 giây, khử tiếp bằng HgCl2 0,1% trong 7 phút, tái
sinh chồi cơ bản trên môi trường MS bổ sung 0,25 mg/l Kinetin + 30 g/l đường
sacharose + 8 g/l agar. Nhân nhanh trên môi trường MS + 3,5 mg/l BA + 0,2
mg/l IBA+ 30 g/l đường sacharose + 8 g/l agar đạt 15 chồi/mẫu cấy. Chồi được
tạo rễ trên môi trường MS bổ sung IBA hoặc NAA, hình thành rễ tốt nhất trên
môi trường MS bổ sung 0,2 - 0,25 mg/l IBA. Cây in vitro đưa ra nhà lưới 97,9%
cây sống và thích nghi với điều kiện tự nhiên, giá thể phù hợp là đất cát pha[16].
+ Hoàng Thị Thế, Nguyễn Thị Phương Thảo, Ninh Thị Thảo, Nguyễn Thị
Thuỷ (2013), đã đưa ra quy trình nhân giống invitro cây ba kích như sau: Giai
đoạn vào mẫu là đoạn thân mang mắt ngủ khử trùng bằng Ca(ClO)2 10% trong
thời gian 15 phút và HgCl2 trong thời gian 5 phút. Trên môi trường MS + 0,25
mg/l kinetin + 1,0 mg/l BA, 96,6% đoạn thân ba kích cảm ứng tạo chồi sau 30
ngày nuôi cấy. Hệ số nhân chồi đạt cao nhất (10,13 lần) sau 45 ngày nuôi cấy
trên môi trường MS + 3,0 mg/l BA + 0,2 mg/l IBA + 10 mg/l Riboflavin. Mơi
trường thích hợp để cảm ứng tạo rễ cho chồi in vitro là 1/2 MS + 0,2 mg/l IBA +
0,4 g/l than hoạt tính. Tỷ lệ chồi tạo rễ đạt 100%, số rễ trung bình đạt 3,5 rễ/chồi
sau 30 ngày nuôi cấy. Cây in vitro sau tạo rễ 35 ngày thích hợp nhất để chuyển ra
trồng ở vườn ươm. Trên giá thể hữu cơ gồm 50% bột dừa và 50% phế liệu sản


10


xuất nấm ăn, tỷ lệ cây sống cao (96,1% sau 60 ngày), cây sinh trưởng phát triển
tốt[17].
1.2.6. Về kỹ thuật gây trồng
- Theo Nguyễn Tập (2007), thời vụ trồng Ba kích có 2 vụ là vụ Xn
và vụ Thu, nếu trồng vụ Xuân thì sử dụng cây con từ hạt 1 năm tuổi, nếu
trồng vụ Thu thì sử dụng cây con từ 7-8 tháng tuổi. Có thể trồng Ba kích dưới
tán vườn cây ăn quả hoặc trồng thuần loài trên đất trồng sau nương rẫy, mật
độ 2x2m (2.500 cây/ha). Bón lót 4kg phân chuồng hoai + 0,2kg NPK. Do Ba
kích là loại cây leo quấn nhưng ưu sáng nên phải làm giàn cho Ba kích leo.
Cứ sau 2-3 tháng thì làm cỏ, mỗi năm nên bón thúc 1 lần vào mùa mưa trước
khi cây ra hoa, phân bón chủ yếu là NPK 0,4kg/khóm.Theo tài liệu này, Ba
kích có thể khai thác từ tuổi 4-7, nơi đất tốt thì sớm cho khai thác, có thể khai
thác vào tuổi 4-5, nơi đất xấu có thể khai thác vào tuổi 6-7.[13]. Tuy nhiên,
đến nay vẫn chưa có đánh giá năng suất sau trồng.
- Tại Sơn Động và Hoành Bồ năm 2006 đã triển khai tạo giống Ba
kích bằng hom và trồng quy mơ hộ gia đình với mơ hình trồng dưới tán cây
ăn quả và dưới tán rừng phục hồi. Đã có đánh giá ban đầu về tỷ lệ sống và
sinh trưởng, nhưng chưa có đánh giá năng suất củ.
- Trên cơ sở hiện trường trồng Ba kích ở xã Đồng Lâm huyện Hồnh
Bồ do Dự án LSNG thực hiện, Lê Đình Anh (2012) đã đề xuất giải pháp bảo
tồn và phát triển một số loài cây Lâm sản ngoài gỗ ở xã Đồng Lâm - huyện
Hồnh Bồ- tỉnh Quảng Ninh, trong đó có cây Ba kích. Để thực hiện bảo tồn,
tác giả đã đề xuất thời vụ trồng chủ yếu tháng 4 - 5 hàng năm, mật độ chủ yếu
là 4.400 cây/ha, kích thước hố trồng là 40x40x40cm, bón lót bằng phân
chuồng hoai khoảng 2- 5kg/hố. Đặc biệt chú ý cây Ba kích sinh trưởng phát
triển tốt dưới tán rừng có độ tàn che 0,2- 0,3. Sau 2-3 năm trồng cây đạt
đường kính gốc từ 0,4- 0,5cm, chiều dài thân từ 2,0-2,7m, cây mọc nhiều



11

nhánh sau 4-5 năm có thể cho khai thác, năng suất bình quân 1.500 2.000kg/ha[1][18].
1.2.7. Về vấn đề bảo tồn
Theo Nguyễn Tập (2007), cây Ba kích đã bị khai thác khá nhiều và liên
tục trong nhiều năm, phạm vi phân bố tự nhiên bị thu hẹp dần do rừng bị suy
giảm cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, cây Ba kích đang có nguy cơ bị
tuyệt chủng trong tự nhiên, đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1996: K) và
Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam (1996, 2001 và 2006: EN.A1) nhằm khuyến
cáo để bảo vệ[3][4][13][28]. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơng trình nào
nghiên cứu bảo tồn nguồn gen cũng như tính đa dạng sinh học lồi cây này
mang tính đồng bộ. Các đề tài, dự án đã triển khai, thực hiện chủ yếu mang
tính thử nghiệm theo hướng thâm canh và phục vụ mục đích phát triển kinh tế
- xã hội, ít mang ý nghĩa về vấn đề bảo tồn và phát triển nguồn gen như:
- Đề tài “Nghiên cứu, xác định mối đe dọa, xây dựng mơ hình thực
nghiệm và đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững các loài cây
thuốc quý hiếm tại Vườn Quốc gia Tam Đảo” kết quả đã trồng sưu tập 10 lồi
cây thuốc, quy mơ 3,0 ha, bao gồm các lồi: Ba kích, Sâm cau, Hoàng tinh
hoa trắng, Na rừng, Hoàng đằng, Khổ sâm, Gối hạc, Hồi sơn, Thiên niên
kiện, Râu hùm hoa tía và xây dựng được 05 mơ hình trồng cây thuốc, trong đó
có 02 mơ hình trồng Ba kích và đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát
triển bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc này.
- Năm 2012, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quảng Ninh hỗ trợ
xây dựng mơ hình trình diễn trồng cây ba kích theo hướng thâm canh quy mô
2ha tại xã Thanh Lâm (Ba Chẽ), bước đầu có 20 hộ dân tham gia. Đây là mơ
hình nơng, lâm kết hợp triển khai theo phương thức trồng thâm canh kết hợp
với việc phát triển lâm sản ngồi gỗ nhiều tầng lấy ba kích làm cây chủ đạo.
- Năm 2013 UBND tỉnh Quảng Ninh đã thẩm định và phê duyệt Dự án



12

trồng và phát triển cây Ba Kích tím tại huyện Ba Chẽ do HTX Toàn Dân làm
chủ đầu tư, từ nguồn Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ của tỉnh. Dự án hỗ
trợ xây dựng vườn ươm cây giống từ cây nơi cây mơ, phát triển vùng trồng
với diện tích 30 ha, áp dụng kỹ thuật thâm canh cao, xử lý thực bì 100%, mật
độ 5000 cây/ha. Do dự án chưa kết thúc nên chưa có kết quả đánh giá hiệu
quả, năng xuất, chất lượng sản phẩm của mơ hình.
- Dự án Ứng dụng khoa học và công nghệ trong nhân giống và phát
triển cây Ba Kích làm dược liệu tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Ngun,
thuộc Chương trình Nơng thơn miền núi đã lựa chọn được lồi Ba kích vào
mơ hình thử nghiệm nhân giống và trồng phân tán.
- Tại Phú Thọ năm 2013, Bộ NN&PTNT hỗ trợ dự án “Trình diễn năng
lực phục hồi rừng bền vững ở Việt Nam” đã triển khai trồng 50 ha cây lâm
sản ngồi gỗ trong đó có ba kích, hương bài, kim tiền thảo...
Qua tổng quan các cơng trình nghiên cứu trên thế giới và ở trong nước
cho thấy cây Ba kích đã được nghiên cứu khá toàn diện về vùng phân bố, các
đặc điểm hình thái, thành phần hóa học, giá trị sử dụng, kỹ thuật nhân giống,
kỹ thuật gây trồng, sơ chế và sử dụng ở các mức độ khác nhau.
Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chủ yếu được lưu giữ ở các đơn vị
nghiên cứu khoa học, các trường Đại học nên chưa phát huy được giá trị đối
với việc định hướng phát triển bền vững sản phẩm từ lồi cây Ba kích của các
địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh. Một số vấn đề quan trọng đang
được UBND tỉnh Quảng Ninh quan tâm bao gồm:
- Cần xác định và điều tiết mối quan hệ giữa sản xuất giống, vùng trồng
nguyên liệu, xây dựng các cơ sở chế biến, thị trường tiêu thụ một các hợp lý để
tránh hiện tượng“khủng hoảng thừa” gây thiệt hại cho người dân và doanh nghiệp;
- Cần xây dựng và ban hành hệ thống các cơ chế chính sách đồng bộ, hỗ
trợ phát triển sản phẩm Ba kích Quảng Ninh;



13

- Cần đề xuất quy trình cơng nghệ gây trồng phù hợp để nâng cao năng
xuất, chất lượng sản phẩm sản phẩm Ba kích Quảng Ninh;
- Cần đa dạng hóa các sản phẩm, công nghệ chế biến và thị trường tiêu
thụ sản phẩm Ba kích Quảng Ninh.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
Đề tài sẽ góp phần cung cấp hệ thống các luận cứ khoa học có liên quan
trực tiếp đến việc định hướng phát triển bền vững sản phẩm lồi cây Ba kích
tại Quảng Ninh.


14

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MỤC TIÊU, NỘI DUNG,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Lồi Ba kích và một số doanh nghiệp gây trồng,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm trong vùng quy hoạch phát triển Ba kích của
tỉnh Quảng Ninh; một số mơ hình trồng Ba kích tại hun Hồnh Bồ và Ba
Chẽ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Tập trung nghiên cứu 06 nội dung gồm: Nghiên
cứu các cơ chế, chính sách định hướng phát triển vùng nguyên liệu, chế biến
và tiêu thụ sản phẩm Ba kích của tỉnh Quảng Ninh; Nghiên cứu thực trạng
phát triển vùng trồng Ba kích Quảng Ninh (diện tích trồng); Tìm hiểu về
phương pháp, công suất nhân giống tại một số đơn vị sản xuất giống Ba kích;
Đánh giá sinh trưởng và năng suất của một số mơ hình trồng Ba kích; Tìm

hiểu thực trạng chế biến kinh doanh các sản phẩm từ củ Ba kích tím; Những
khó khăn và giải pháp cho phát triển lồi Ba kích tại Quảng Ninh.
+ Phạm vi về không gian: Tập trung ở các địa phương trong vùng quy
hoạch phát triển Ba kích của tỉnh Quảng Ninh gồm các huyện: Hoành Bồ, Ba
Chẽ.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu tổng quát: Xác định cơ sỏ khoa học cho việc nhân giống và
trồng Ba kích nhằm nâng cao năng xuất và chất lượng củ, mở rộng thị trường
Ba kích theo hướng bền vũng.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Đánh giá được thực trạng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển vùng
nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm Ba kích của tỉnh Quảng Ninh;


15

+ Đánh giá được thực trạng nhân giống, trồng chế biến và tiêu thụ các
sản phẩm của Ba kích làm cơ sở cho đề xuất giải pháp phát triển Ba kích theo
hướng bền vững tại Quảng Ninh
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu:
2.3.1. Các nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm Ba kích của tỉnh Quảng Ninh;
- Nghiên cứu thực trạng phát triển vùng trồng Ba kích Quảng Ninh;
- Nghiên cứu thực trạng sản xuất giống Ba kích tại một số đơn vị trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
- Tìm hiểu về kỹ thuật trồng, đánh giá sinh trưởng, năng suất của một số
mơ hình trồng Ba kích tại Quảng Ninh;
- Nghiên cứu thực trạng chế biến và thị trường tiệu thụ các sản phẩm Ba
kích tại Quảng Ninh;

- Đề xuất một số giải pháp cho phát triển lồi Ba kích tại Quảng Ninh.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu tương ứng với từng nội dung:
2.3.2.1. Nghiên cứu các cơ chế, chính sách:
Thu thập các văn bản có liên quan đến hướng phát triển vùng nguyên
liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm Ba kích do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Ninh ban hành. Các văn bản được thu thập từ công báo văn bản được Văn
phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đăng tải trên cổng thông tin điện từ
giai đoạn 2010-2015. Các thông tin được tổng hợp trong mẫu biểu sau:
TT
1
2
3

Tên văn bản

Số hiệu văn bản

T.gian ban hành

Nội dung hỗ trợ
PT Ba Kích


16

2.3.2.2. Nghiên cứu thực trạng phát triển vùng trồng Ba kích Quảng Ninh:
Thu thập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của các huyện, thị
xã thành phố của tỉnh Quảng Ninh giai đến 2020, tầm nhìn đến 2030 để tổng
hợp dữ liệu về vùng trồng, diện tích quy hoạch trồng Ba Kích. Số liệu nghiên
cứu được tổng hợp trong biểu sau:

TT

Tên địa phương

Địa điểm dự kiến

Diện tích dự kiến trồng

trồng Ba kích

Ba kích

1
2
3
2.3.2.3. Nghiên cứu thực trạng sản xuất giống:
Điều tra phỏng vấn trực tiếp theo phiếu tìm hiểu về phương pháp, cơng
suất nhân giống tại 06 đơn vị sản xuất giống Ba kích trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh (Trung tâm KH&SX lâm nông nghiệp Quảng Ninh (Quảng Yên); Công
ty cổ phần Agritech và Công ty CP Đơng Sơn Xanh (Hồnh Bồ); Hợp tác xã
Tồn Dân và Công ty cổ phần phát triển rừng bền vững (Ba Chẽ); Công ty
TNHH nuôi trồng, chế biến dược liệu Đông Bắc (Cẩm Phả));
2.3.2.4. Tìm hiểu về kỹ thuật trồng, đánh giá sinh trưởng, năng suất:
- Điều tra trực tiếp tại 02 mơ hình đại diện cho 02 phương thức trồng phổ
biến nhất của Quảng Ninh hiện nay (trồng tập trung dưới tán rừng bằng giống
có nguồn gốc từ hom (Hồnh Bồ); trồng thâm canh mật độ cao bằng cây nuôi
cấy mơ (tại Ba Chẽ)).
+ Tìm hiểu kỹ thuật trồng: Phát phiếu điều tra tìm hiểu về kỹ thuật trồng
tại 02 đơn vị: Cơng ty CP Đơng Sơn Xanh Hồnh Bồ và Hợp tác Toàn Dân Ba
Chẽ.

+ Đánh giá sinh trưởng và năng suất: Để đánh giá sinh trưởng và năng
suất, tại mỗi mơ hình tiến hành lập OTC 500 m2 (bảo đảm trên 30 cây/OTC)


17

tiến hành điều tra các chỉ tiêu: chiều thân (H cm), số nhánh trên bụi, đường
kích gốc (D00 cm), số củ, chiều dài trung bình củ, khỗi lượng củ, phần ghi chú
ghi chép tình hình sâu bệnh hại.
- Đánh giá tình hình sâu bệnh hại:
+ Khảo sát thu thập tình hình sâu bệnh hại tại các mơ hình;
+ Thu thập mẫu bệnh, kết quả phân tích bào tử nấm bệnh trong các mơ
hình.
- Điều tra phỏng vấn trực tiếp theo phiếu một số cơ sở chế biến, tiêu thụ
sản phẩm để tìm hiểu thực trạng chế biến kinh doanh các sản phẩm từ củ Ba
kích. Các thơng tin điều tra gồm: công nghệ chế biến; các sản phẩm từ củ Ba
kích; thị trường tiêu thụ sản phẩm; sản lượng Ba kích tiêu thụ/năm.
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS;
- Áp dụng công nghệ ảnh vệ tinh và GIS khoanh vùng bản đồ khu vực
phát triển Ba kích Quảng Ninh.


18

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phân tích các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm Ba kích của tỉnh Quảng Ninh
Bảng 3.1. Danh mục và nội dung một số văn bản của tỉnh Quảng Ninh
liên quan tới phát triển Ba kích

TT
1

Tên văn bản

Ngày ban

Cơ quan

hành

ban hành

Nội dung chính

Quyết định số 13/02/2012 UBND tỉnh

- Hỗ trợ thành lập Hội Ba

273/QĐ-

kích Quảng Ninh.

UBND

về

- Hỗ trợ xác lập quyền sở

việc ban hành


hữu trí tuệ nhãn hiệu

chương trình

chứng nhận Quảng Ninh

xây dựng và

cho rượu Ba kích.

phát

triển

- Hỗ trợ xây dựng quy

thương

hiệu

chế, quy trình quản lý

nơng sản của

nhãn hiệu chứng nhận.

tỉnh

- Hỗ trợ xây dựng bản đồ


Quảng

Ninh đến năm

vùng nguyên liệu.

2015

- Hỗ trợ xúc tiến thương
mại thông qua việc giới
thiệu sản phẩm tại các hội
chợ.

2

Quyết định số 05/12/2014 UBND tỉnh

- Hỗ trợ 1 triệu đồng/ha

2901/QĐ-

cho

UBND

về

công


tác

tuyên

truyền, họp triển khai


19

chính

sách

cơng tác dồn điền đổi

khuyến khích

thửa;

phát

triển

- Hỗ trợ 100% kinh phí

hàng

hóa

đầu tư hệ thống được điện


nơng nghiệp

trục chính và trạm biến

tập trung trên

áp, hệ thống cấp thoát

địa bàn tỉnh

nước, hệ thống xử lý

Quảng Ninh,

nước thải, đường giao

giai

thơng trục chính;

đoạn

2014-2016

- Hỗ trợ 50% chi phí để
xây dựng nhà sơ chế, bảo
quản, chế biến tối đa
không


quá

2

tỷ

đồng/người sản xuất/dự
án;
- Hỗ trợ 60% chi phí mua
giống, tối đa khơng q
100 triệu đồng/người sản
xuất/dự án;
- Hỗ trợ đầu tư, ứng dụng
tiến bộ khoa học và cơng
nghệ
Sản phẩm Ba kích được tỉnh Quảng Ninh xác định là một trong những
sản phẩm đặc trưng, có thế mạnh ưu tiên hỗ trợ thúc đẩy phát triển. Trong giai
đoạn 2010 – 2015, tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt, ban hành 02 văn bản hỗ trợ
phát triển vùng nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cây Ba kính, cụ
thể:


20

- Về chính sách hỗ trợ xây dựng, phát triển thương hiệu sản phẩm rượu
Ba kích Quảng Ninh: Ngày 13/02/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã
ban hành Quyết định số 273/QĐ-UBND về việc ban hành chương trình xây
dựng và phát triển thương hiệu nông sản của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2015.
Ba kích là một trong 23 sản phẩm nông nghiệp được ngân sách Nhà nước hỗ
trợ 100% kinh phí (2,8 tỷ đồng) để triển khai dự án “Tạo lập, quản lý và phát

triển nhãn hiệu chứng nhận Quảng Ninh cho sản phẩm rượu Ba kích tỉnh
Quảng Ninh”. Dự án đã triển khai một số nội dung:
+ Thành lập Hội Ba kích Quảng Ninh với các thành viên là Phó chủ tịch
Uỷ ban nhân dân các huyện Hồnh Bồ, Ba Chẽ, Tiên Yên, Vân Đồn và đại
diện một số cơ sở sản xuất, kinh doanh Ba kích trên địa bàn tỉnh (HTX tồn
Dân, Cơng ty Cổ phần xây dựng và sản xuất Bia – Rượu – Nước giải khát
Cẩm Phả, Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển nông nghiệp An Hưng);
+ Xác lập quyền sở hữu trí tuệ nhãn hiệu chứng nhận Quảng Ninh cho
rượu Ba kích. Ngày 13/6/2014, Cục Sở hữu trí tuệ đã ra Quyết định số
33649/QĐ-SHTT về việc cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu chứng nhận
rượu Ba Kích Quảng Ninh.
+ Xây dựng quy chế, quy trình quản lý nhãn hiệu chứng nhận.
+ Xây dựng bản đồ vùng nguyên liệu và vùng sản xuất rượu Ba kích.
Vùng nguyên liệu cho sản phẩm rượu mang nhãn hiệu chứng nhận Quảng
Ninh được các định gồm các huyện: Ba Chẽ, Tiên Yên, Hoành Bồ, Vân Đồn,
Bình Liêu, Hải Hà và Đầm Hà. Đây là các địa điểm có thổ nhưỡng và điều
kiện khí hậu thích hợp cho việc phát triển cây Ba kích trong hiện tại và tương
lai.
+ Hỗ trợ xúc tiến thương mại thông qua việc giới thiệu sản phẩm tại các
hội chợ xuân Hạ Long 2013, hội chợ Agroviet 2013 tại Hà Nội, hội chợ
thương mại-du lịch Quảng Ninh 2014.


21

Thông qua việc hỗ trợ triển khai dự án, danh tiếng và giá trị của rượu Ba
kích Quảng Ninh đã từng bước nâng cao vị thế trên thị trường, nâng cao tính
cạnh tranh và tiềm năng phát triển.

Nguồn: Dự án xây dựng nhãn hiệu chứng nhận Ba Kích Quảng Ninh


Hình 3.1. Bản đồ quy hoạch vùng nguyên liệu trồng Ba kích Quảng Ninh
- Về chính sách hỗ trợ phát triển vùng sản xuất tập trung Ba kích: Ngày
05 tháng 12 năm 2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết
định số 2901/QĐ-UBND về chính sách khuyến khích phát triển hàng hóa
nơng nghiệp tập trung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2014-2016.
Trong đó, đối với những vùng trồng Ba kích có quy mơ trên 30 ha tại các
huyện Ba Chẽ, Hoành Bồ, Vân Đồn sẽ được ngân sách Nhà nước cấp tỉnh hỗ
trợ các nội dung sau:
- Hỗ trợ 1 triệu đồng/ha cho công tác tuyên truyền, họp triển khai công
tác dồn điền đổi thửa;


22

- Hỗ trợ 100% kinh phí đầu tư hệ thống đường điện trục chính và trạm
biến áp, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống xử lý nước thải, đường giao thơng
trục chính;
- Hỗ trợ 50% chi phí để xây dựng nhà sơ chế, bảo quản, chế biến tối đa
không quá 2 tỷ đồng/người sản xuất/dự án;
- Hỗ trợ 60% chi phí mua giống, tối đa khơng q 100 triệu đồng/người
sản xuất/dự án;
- Hỗ trợ đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ gồm:
+ Tối đa 100% cho các nội dung sau: chi phí thuê chuyên gia, cán bộ kỹ
thuật; tham quan học tập kỹ thuật trong và ngoài nước; đào tạo, tập huấn kỹ
thuật cho cán bộ kỹ; hội thảo, tập huấn mở rộng; phân tích mẫu để kiểm tra,
đánh giá chất lượng sản phẩm, hàng hoá; mua tài liệu, tư liệu, số liệu, sách,
tạp chí tham khảo, tài liệu kỹ thuật, bí quyết cơng nghệ, tài liệu chuyên môn,
các loại xuất bản phẩm; mua giống vật nuôi, cây trồng…
+ Tối đa 50% cho các nội dung sau: công lao động phổ thông trực tiếp; cua

dụng cụ, bảo hộ lao động; cua nguyên, nhiên vật liệu phục vụ trực tiếp và có tính
quyết định đến cơng nghệ chuyển giao của dự án; khấu hao tài sản cố định; mua
máy móc, thiết bị phục vụ trực tiếp và có tính quyết định đến cơng nghệ chuyển
giao của dự án; mua tài sản thiết yếu, phục vụ trực tiếp cho dự án.
Quảng Ninh là tỉnh đầu tiên và duy nhất trong cả nước ban hành và có
mức hỗ trợ cao cho cây Ba kích. Việc tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định
số 2901/QĐ-UBND đã kịp thời tháo gõ khó khăn cho các huyện trong việc hỗ
trợ đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu Ba kích.
Mặc dù đã bước đầu đã tạo được cơ chế đẩy mạnh phát triển Ba kích
Quảng Ninh. Tuy nhiên, thời hạn quy định của chính sách chỉ có hiệu lực
trong 3 năm (2014-2016), trong thời gian quá mới chủ yếu tập trung hỗ trợ
60% cây giống để phát triển vùng nguyên liệu, các nội dung liên quan đến đầu
tư hạ tầng dùng chung, chế biến vẫn chưa được triển khai.


23

Do đó, để duy trì và phát triển sản phẩm ba kích Quảng Ninh, cần đề
xuất tiếp tục kéo dài thời gian hỗ trợ của chính sách đến năm 2020. Trong đó
phải ưu tiên nguồn lực hỗ trợ nâng cao năng suất cây trồng, hỗ trợ doanh
nghiệp đầu tư các cơ sở, nhà máy chế biến các sản phẩm cao cấp từ củ Ba
kích, đặc biệt là hỗ trợ mở rộng thị trường tiêu thụ hướng tới xuất khẩu.
Như vậy, tỉnh Quảng Ninh đã có một số văn bản rất cụ thể tạo điều kiện
cho các địa phương, doanh nghiệp và hộ dân phát huy thế mạnh của địa
phương để phát triển lồi cây Ba kích, đáp ứng nhu cầu của địa phương và
đảo bảo tính cạnh tranh tạo thế mạnh cho lồi cây Ba kích.
3.2. Đánh giá thực trạng phát triển trồng Ba kích Quảng Ninh
Bên cạnh việc ban hành các chính sách khuyến khích phát triển vùng
nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cây Ba kính. Trong những năm
qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã

quan tâm chỉ đạo quyết liệt việc triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội đến năm 2020, định hướng 2030 đối với từng huyện, thị
xã, thành phố (gọi tắt là các địa phương). Đối với từng lĩnh vực cần xác định
rõ sản phẩm, quy mô, tiến độ thực hiện. Riêng lĩnh vực nông nghiệp phải xác
định được sản phẩm có thế mạnh để ưu tiên nguồn lực đầu tư, tránh đầu tư
dàn trải. Đến nay, 14/14 địa phương đã được ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Ninh quy hoạch. Kết quả tổng hợp quy hoạch diện tích trồng Ba kích trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh được tổng hợp trong bảng 3.2.


24

Bảng 3.2. Quy hoạch diện tích trồng Ba kích tỉnh Quảng Ninh
TT

Tên địa phương

Đơn vị

Diện tích

Quy hoạch

đến 2015

đến 2020

1

Hồnh Bồ


ha

115

200

2

Ba Chẽ

ha

225

616

3

Vân Đồn

ha

19

100

4

Tiên Yên


ha

4

41

5

Bình Liêu

ha

21

30

6

Cẩm Phả

ha

30

30

Tổng

ha


414

1.017

(Nguồn: Tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội các huyện, thị
xã, thành phố của tỉnh Quảng Ninh)

Bảng 3.3. Diện tích Ba kích Quảng Ninh giai đoạn 2013-2015
TT

Tên địa phương

Đơn vị

Diện tích

Diện tích

12/2013

12/2015

1

Hồnh Bồ

ha

20


115

2

Ba Chẽ

ha

30

225

3

Vân Đồn

ha

4

19

4

Tiên n

ha

0


4

5

Bình Liêu

ha

0

21

6

Cẩm Phả

ha

5

30

Tổng

ha

59

414


(Nguồn: Phịng Nơng nghiệp và PTNT các huyện, thị xã, thành phố)


25

Kết quả tổng hợp trong bảng 3.2 cho thấy:
- Có 06/14 địa phương của tỉnh Quảng Ninh lựa chọn Ba kích là sản
phẩm có thế mạnh để phát triển, tập trung diện tích lớn nhất là tại huyện Ba
Chẽ 616 ha, huyện Hồnh Bồ 200 ha và huyện Vân Đơng 100 ha.
- Tổng diện tích đã được 06 địa phương quy hoạch đến năm 2020 là
1.017 ha (tăng gần 2,5 lần so với năm 2015), tổng diện tích cần tiếp tục hỗ trợ
phát triển trong giai đoạn 2016-2020 là 603 ha, bình qn mơi năm cần trồng
mới khoảng 120 ha. Khi hoàn thiện quy hoạch đến năm 2020 Ba Chẽ sẽ trở
thành trung tâm sản xuất dược liệu của tỉnh Quảng Ninh, góp phần nâng cao
giá trị sản xuất lâm nghiệp, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế xã hội của khu
vực miền núi.
- Ba Chẽ cũng là địa phương có nhu cầu giống cây Ba kích lớn nhất (391
ha x 5000 cây/ha = 1.955.000 cây giống Ba kích, do đó huyện Ba Chẽ cần
tiếp tục duy trì hệ thống vườn ươm 10.000 m2 tại Hợp tác xã Toàn Dân nhằm
phục vụ nhu cầu cây giống chất lượng cao cho vùng nguyên liệu, chủ động đề
xuất đặt hàng việc xử lý sâu bệnh hại để giảm thiểu thiệt hại cho người dân và
doanh nghiệp.
- Nhu cầu nguồn vốn đầu tư để phát triển vùng trồng Ba kích đến năm
2020 khoảng gần 100 tỷ đồng. Tỉnh Quảng Ninh cần tiếp tục kéo dài thời hạn
thực hiện Quyết định số 2901/QĐ-UBND để tiếp tục hỗ trợ, tháo gõ khó khăn
cho người dân và doanh nghiệp.
Tính đến thời điểm 2015, diện tích trồng Ba kích trên tồn tỉnh đạt 414
ha, chiếm 40% diện tích so với quy hoạch, trong đó hun trồng nhiều nhất là
225 ha, đạt 36% so với quy hoạch, điều này khẳng định tính khả thi của Quy

hoạch và quyết tâm của các huyện trong tỉnh.


×