Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

Bài thu hoạch cảm tình Đảng năm 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.45 KB, 121 trang )

Bài thu hoạch cảm tình Đảng năm 2023
Mẫu 1:
1. Đề xuất mới đối với Đảng để có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức
đúng đắn về Đảng cộng sản Việt Nam.
1.1. Đồng chí có dự kiến mới gì đối với bản thân:
Bản thân tôi thấy rất tự hào khi được sinh ra trong một dân tộc có ý chí quật cường,
một đất nước giàu truyền thống yêu nước, tinh thần đồn kết, khơng chịu khuất phúc
trước cường địch. Tôi tự hào về thành tựu của Cách mạng, về Đảng quang vinh, tự hào
về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, về những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt
được trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới đất nước; cảm động và biết
ơn về những hy sinh, đóng góp của Bác Hồ - vị Lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã
hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và dành cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Tôi
nhận thấy mình cũng cần phải có trách nhiệm với cơng cuộc xây dựng đất nước giàu
đẹp, tiếp nối truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, sống và học tập theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh – tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và
thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện bản thân, xứng đáng là Đảng viên của
Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”. Và Đảng là tổ chức các mạng có sứ mệnh cao cả đồn kết và lãnh đạo nhân dân
đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là
được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây
dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy,
tơi đã đặt ra mục tiêu trong thời gian tới được đứng trong đội ngũ của Đảng được phục
vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, góp sức mình xây dựng đất nước ta ngày càng
tốt đẹp hơn nữa, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến; chấp nhận hy sinh, phấn
đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.


Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng, tôi hiểu sâu sắc
bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu,


nhiệm vụ do Đảng đề ra xứng đáng là đội kế cận của Đảng, là cánh tay của Đảng;
thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng
1.2. Để phấn đấu để trở thành Đảng viên tơi hiểu mình phải tơi luyện trở thành
người tích cực, tiên tiến, trải qua quá trình học tập, rèn luyện, phấn đấu, hội đủ
các yếu tố thỏa mãn điều kiện để được xét kết nạp Đảng:


Phải là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên;



Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu
chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng:

+ Người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập trường chính
trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành
nhiệm vụ do Đảng giao phó. Điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định: "Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý
tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động
lên trên lợi ích cá nhân...".
+ Người vào Đảng phải thừa nhận và thực hiện Điều lệ Đảng một cách vô điều kiện.
Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Điều lệ Đảng cũng là thể hiện sự giác ngộ chính trị
và ý thức phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiền phong, gương mẫu, ý thức cầu thị,
tinh thần đoàn kết, khiêm tốn, gắn bó với tập thể, sẵn sàng nhận và hồn thành nhiệm
vụ được giao. Người muốn vào Đảng phải nghiên cứu kỹ Điều lệ Đảng.
+ Người vào Đảng phải hiểu rõ và nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, từ đó
phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng để trở thành đảng viên của Đảng. Tự giác thực hiện
nhiệm vụ, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao, có quan hệ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm... là những điều

kiện chủ yếu được quan tâm khi xem xét để kết nạp người vào Đảng.


+ Mỗi đảng viên của Đảng phải sinh hoạt tại một tổ chức cơ sở đảng. Điều đó tạo ra sự
thống nhất ý chí và hành động của tồn Đảng
- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm: người muốn vào
Đảng phải hoạt động trong phong trào quần chúng, tỏ rõ tính tích cực, tiên tiến so với
quần chúng, cả về nhận thức, hành động và được quần chúng tín nhiệm. Phải lao động,
học tập, công tác đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có đạo đức, lối sống trong
sạch, có khả năng cảm hoá, giáo dục, tập hợp quần chúng, được quần chúng tin cậy và
noi theo. Đảng viên là người lãnh đạo quần chúng, vì vậy, người khơng được nhân dân
tín nhiệm thì khơng thể là đảng viên.
1.3. Từ những điều kiện xem xét kết nạp Đảng viên của Đảng, tôi cần xây dựng kế
hoạch, phương hướng phấn đấu trong thời gian tới:
- Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng tôi đã hiểu sâu
sắc bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục
tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh
khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất
của người chiến sĩ cách mạng.
- Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng:
“Đi lên thanh niên chớ ngại ngần chi
Đi lên thanh niên làm theo lời bác
Khơng có việc gì khó chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển qut trí ắt làm nên”
Giai điệu ấy đã tiếp thêm sức mạnh, niềm tin, ý chí để tơi hồn thành các mục tiêu đã
đặt ra hình thành bản lĩnh vững vàng, từ từ tơi rèn được bản lĩnh chính trị vững vàng
hơn. Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá
trình học tập, nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng



của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh
nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Song song với rèn luyện bản lĩnh chính trị,
thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là kết quả của q
trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, khơng ngừng nghỉ. Ngày nay, đạo đức cách mạng
cịn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thốt khỏi tình trạng kém phát triển,
trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc.
- Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: trong giai đoạn ........ đang tái
cơ cấu, tinh giản biên chế, tôi là một cán bộ trẻ, vừa được chuyển công tác sang một
nghiệp vụ mới, nhận thấy trách nhiệm của tôi là tự giác trau dồi nghiệp vụ, chủ động
trao đổi, học hỏi từ các đồng nghiệp, để nắm vững nghiệp vụ mới, hồn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
- Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đồn thể, cơng tác xã
hội: Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó
mật thiết, máu thịt với nhân dân. Từ khi được cơng tác tại ........, tơi ln nhiệt tình
tham gia sinh hoạt đoàn thể. Từ những hoạt động, những cơng trình, tơi đã tổ chức và
tham gia thực hiện tơi đã có thêm được những đồng nghiệp cùng chung lý tưởng, mục
đích chia sẻ những hoạt động tập thể: các cơng trình tặng q, xây sân chơi cho các em
học sinh vùng dân tộc thiểu số, thăm và tặng q cho các gia đình khó khăn, tổ chức
các hoạt động chăm lo đời sống cho con em cán bộ tại trụ sở chính ........…. Từ những
chương trình tơi tham gia đã góp phần phát huy vai trị của đồn thể trong nhiệm vụ
chính trị mà Đảng Bộ ........ giao cho Đồn thanh niên ......... Phần nào đó tơi đã tập hợp
hợp được lực lượng Đoàn viên thanh niên ở một số chi đồn thực hiện các cơng
trình,phần việc thanh niên, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ Đồn.
- Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở:Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế
của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan,
đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: Chủ
động nắm bắt tình hình thực tế, tình hình tư tưởng của thanh niên trong kết quả thực



hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ
chức Đảng; Tích cức hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện
chủ trương, nhiệm vụ do Chi bộ đề ra; Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối
với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên; Tham gia ý kiến, đề xuất đoàn viên
ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để Chi bộ
xét kết nạp Đảng; tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của đơn vị và đồn thể, góp
phần xây dựng cơ sở chính trong sạch, vững mạnh.
Tôi tin rằng trong tương lai không xa tôi sẽ vinh dự trở thành một Đảng viên Đảng
cộng sản Việt Nam, trở thành người chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam.
2. Đề xuất mới đối với Đảngđể có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức đúng
đắn về Đảng cộng sản Việt Nam cho đối tượng kết nạp Đảng và các quần chúng
nói chung:
2.1. Thực trạng về bản lĩnh chính trị và nhận thức lý tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam
của cán bộ, Đoàn viên thanh niên hiện nay:


Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng,
90 năm qua, Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và
khoa học; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên
định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc tổ chức
và sinh hoạt đảng; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn
mạnh…



Sự nghiệp đổi mới đến nay đã gần 35 năm, Đảng ta lãnh đạo đất nước vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức và đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,

thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ
vững ổn định chính trị; phát triển KT-XH, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối


ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng.


Thực tiễn cách mạng của Đảng, của dân tộc đã cho thấy, khi đã giác ngộ lý
tưởng cách mạng, người cộng sản có niềm tin và sức mạnh mãnh liệt. Niềm tin
ấy tạo nên sức mạnh vô địch, giúp Đảng ta, quân và dân ta vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, chiến đấu và chiến thắng bao thù trong, giặc ngồi.



Tuy nhiên, q trình tìm tịi con đường đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, bên cạnh những thành tựu to lớn mang tầm lịch sử, thì Cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gặp khơng ít khó khăn: Nội
dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi khơng cịn sự cứng nhắc, đơn điệu, hình thức
và đã đạt được khơng ít hiệu quả. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI,
XII), một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình
nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn cịn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va
chạm; một số CBĐV thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình
trong cơng việc được giao. Số ít đồn viên, thanh niên còn hạn chế trong nhận
thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn
chính trị cịn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy

thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có thể dẫn
tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng, sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên
làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong
của Đảng và chế độ.



Mặt khác, khơng ít vấn đề phức tạp, khó lường nảy sinh trong q trình tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, cộng với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù
địch, đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”, lợi dụng các vấn đề


“dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo và thổi phồng những yếu kém,
khuyết điểm của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình, cổ vũ cho lối sống cơ hội,
thực dụng, cá nhân chủ nghĩa,…


Qua đó, có thể thấy nguy cơ “Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút
niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin
tưởng vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” có thể xảy ra trong
một bộ phận ĐVTN. Từ phai nhạt lý tưởng cách mạng dẫn đến “xa rời tơn chỉ,
mục đích của Đảng, không kiên định con đường đi lên CNXH, phụ họa theo
những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”. Đó là những biểu hiện lười học
tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cũng do phai nhạt lý
tưởng cách mạng mà a dua, phụ họa theo những quan điểm lệch lạc, “thấy đúng
không bảo vệ, thấy sai khơng dám đấu tranh”, “khơng cịn ý thức hết lịng vì

nước, vì dân, khơng làm trịn chức trách, nhiệm vụ được giao”, sa vào “tham
vọng chức quyền”, không chấp hành sự phân công của tổ chức, kén chọn chức
danh cơng tác, chọn nơi có nhiều lợi ích, vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích
nhóm”,… Từ phai nhạt về lý tưởng cách mạng - một biểu hiện cốt lõi của suy
thối về tư tưởng chính trị có thể dẫn đến suy thối đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, nguy hiểm khơn lường. Từ suy thối đến “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” là rất ngắn, thậm chí là một bước rất ngắn.



Bên cạnh vai trị, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các
đồn thể trong cơng tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trịcho cán
bộ, ĐVTN, đảng viên trẻ thì vấn đề tự bồi dưỡng vẫn giữ vai trị then chốt.

2.2. Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên thanh niên và quần
chúng tại ........


Trong nhiệm kỳ 2017 – 2020, Đảng bộ ........ đã tiếp tục phát huy truyền thống
đoàn kết, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ vững các nguyên tắc lãnh đạo, vận
dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; Ban chấp hành Đảng bộ ........ đã bám sát yêu cầu đối với công tác nắm


bắt và giải quyết diễn biến tư tưởng và dư luận xã hội trong cơ quan, quán triệt,
tuyên truyền để cán bộ, đảng viên, người lao động nhận thức sâu sắc, toàn diện,
đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, qua
đó khẳng địnhvai trị lãnh đạo của Đảng; tạo dựng được tình cảm và niềm tin
của cán bộ nhân viên đối với Đảng.



Hiện nay, VDB đang triển khai giai đoạn hai tái cơ cấu hoạt động theo chiến
lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;ảnh hưởng tới tâm lý của các cán
bộ cũng như tư tưởng chính trị, Ban chấp hành Đảng bộ ........ đã bám sát, nắm
bắt và giải quyết diễn biến tư tưởng và dư luận trong cơ quan, tạo sự chuyển
biến tích cực trong nhận thức sâu sắc, tồn diện và chấp hành chủ trương đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, nếp
sống văn hóa của cán bộ, đảng viên, người lao động trong đơn vị. Cơng tác giáo
dục chính trị, tư tưởng đã góp phần ổn định tư tưởng, cổ vũ, động viên cán bộ,
đảng viên, người lao động từng bước vượt qua những khó khăn, tích cực thi đua
thực hiện nhiệm vụ chính trị.



Với mục tiêu tạo sự thống nhất, đồng thuận trong cấp ủy, Ban Thường vụ, tập
thể lãnh đạo, giữa cấp trên và cấp dưới; ổn định tư tưởng của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, người lao động n tâm cơng tác, đồn kết, chung sức triệt để khắc
phục những tồn tại yếu kém trong thời gian qua; đồng thời đẩy mạnh phong trào
thi đua yêu nước, tạo lập môi trường làm việc tốt, lành mạnh.

Để cơng tác tư tưởng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng VDB lần
II, Đại hội Đảng bộ Khối DNTW lần II, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị
quyết Hội nghị TW 4 (khóa XII); trọng tâm là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”. Đảng ủy ........ đã ban hành Nghị quyết 06/NQ-ĐU ngày
28/3/2017 về nâng cao chất lượng cơng tác chính trị, tư tưởng chỉ rõ nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu sau: Kịp thời triển khai học tập, quán triệt đầy đủ nghị quyết, chỉ thị của



Đảng tới toàn thể cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, chỉ đạo xây dựng chương trình
hành động để thực hiện nghị quyết;Tổ chức thực hiện chương trình hành động để thực
hiện nghị quyết, nâng cao tính chiến đấu của tổ chức đảng và mỗi đảng viên; Công tác
tổ chức và quản lý đảng viên; Tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong
cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XII);Lãnh đạo công tác
truyền thông; Lãnh đạo phát huy vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội.


Đảng bộ ........ nói chung và các Chi bộ nói riêng đã phát động các phong trào thi
đua, xây dựng các mơ hình, tấm gương của tập thể, cá nhân tiêu biểu trong rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng; tạo sự chuyển biến thực sự về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ cũng như trong
toàn Đảng bộ.



Chi bộ cũng đã rất nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; luôn chú trọng
tăng cường kiểm tra, giám sát đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng, về tự học, tự rèn nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
trong Chi bộ. Và thực tế, tôi nhận thấy rằng việc kiểm tra, giám sát quá trình rèn
luyện, tu dưỡng phấn đấu, về tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên đã tạo điều
kiện, động lực cho cán bộ, đảng viên trong Chi bộ thường xuyên làm tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà
nước.

3. Đề xuất mới gì đối với Đảng


Thời gian qua, Đảng bộ ........ đã thực hiện tốt cơng tác chính trị, tư tưởng nhằm

nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của các Chi bộ, Đảng bộ. Từ
những kết quả đã đạt được, thời gian tới, với những khó khăn, thách thức trong
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, cũng như chiến lược tái cơ cấu gắn với xử lý
nợ xấu, công tác chính trị tư tưởng càng cần được tiếp tục chú trọng và thực
hiện một cách thường xuyên. Ngoài những nhiệm vụ và giải pháp đã thực hiện
tốt trong thời gian qua, tơi có đề xuất như sau:




Đổi mới hình thức, cách thức tiến hành cơng tác tư tưởng: Về nội dung công tác
tư tưởng phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị.



Tiến hành đồng thời cơng tác chính trị tư tưởng với cơng tác tổ chức, cán bộ và
công tác thi đua, khen thưởng. Thực hiện tốt phương châm “Lấy tích cực đẩy lùi
tiêu cực”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Qua đó, tạo hiệu ứng tác động lan tỏa trong
các cơ quan báo chí và toàn xã hội.



Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiêm tra, giám sát trong công tác
xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị; đấu tranh phịng, chống tham
nhũng, lãng phí, lợi ích nhómnhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ



Đẩy mạnh công tác dân vận, phát huy có hiệu quả vai trị của các tổ chức đoàn
thể, người lao động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ

trong hệ thống .........



Đổi mới, sáng tạo trong xây dựng và thực hiện có hiệu quả văn hóa ........ nhằm
khơi dậy mạnh mẽ ý chí, khát vọng, tự hào được làm việc, cống hiến vì sự
nghiệp phát triển .........



Xây dựng kế hoạch, tổ chức các lớp đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cấp ủy, cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, trí tuệ; đào
tạo, phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý các mặt nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát
triển của ........ và phù hợp với tình hình hiện nay.



Chú trọng phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên trẻ để có điều kiện
cọ sát, rèn luyện, thử thách.



Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đồng thời nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ tuyên truyền, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
công tác tư tưởng đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới: Sử dụng quản lý
văn bản hiện tại có hiệu, tránh gây lãng phí, giảm tải thời gian xử lý cơng việc.
Đặc biệt với điều kiện các phịng ban làm việc ở trụ sở chính khơng cùng một
địa điểm làm việc, việc phối hợp, xử lý công việc ở 2 địa điểm có thể gây mất
thời gian, khó khăn nên việc tăng cường giải quyết qua phần mềm là cần thiết.
Xây dựng hệ thống quản lý văn bản điện tử khoa học, hiện đại, hiệu quả nhằm



giảm tải cơng tác quản lý, tìm kiếm văn bản, phân tách các văn bản của từng
nghiệp vụ, kèm theo hiệu lực của văn bản.


Bên cạnh vai trò, trách nhiệm của Đảng bộ ........, của các đơn vị, các đoàn thể
trong công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ,
ĐVTN. Tơi sẽ chủ động tự bồi dưỡng,tự rèn luyện nhằm bổ sung, hoàn thiện về
phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực, kinh nghiệm công tác, đáp
ứng sự nghiệp phát triển .........

Những thu hoạch cho bản thân về Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh thơng qua
khóa học bồi dưỡng lý luận chính trị
Câu 1: Sau q trình tham gia khóa học bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối
tượng kết nạp Đảng do Đảng bộ ............tổ chức, tôi cảm thấy vinh dự và tự hào khi
nhận được sự quan tâm, tin tưởng của Lãnh đạo, của Đảng bộ NHPT. Khóa học rất có
ý nghĩa đối với cá nhân tơi và giúp tơi có thêm được nhiều kiến thức q báu, sự hiểu
biết sâu sắc về Đảng Cộng sản Việt Nam: về quá trình thành lập Đảng; về Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam; sự đóng góp xây dựng của thế hệ cha ông cho công cuộc
xây dựng Đảng đặc biệt là Bác Hồ; sự kế thừa vun đắp và tích lũy kinh nghiệm của
lịch sử Đảng vào sự phát triển của đất nước; về nội dung, những vấn để thực tiễn của
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tơi được tiếp
xúc, học tập cùng với các đồng nghiệp khác đến từ các đơn vị thuộc......... Hơn thế nữa
tôi đã được rèn luyện nâng cao hơn về bản lĩnh chính trị, lý tưởng Đảng, phẩm chất
đạo đức cách mạng, mục tiêu phấn đấu nhiều hơn nữa để được đứng trong hàng ngũ
của Đảng. Tơi xin trình bày chi tiết những thu hoạch cho bản thân sau khóa học, tơi
xin trình bày về những kiến thức đã đạt trong tôi về Đảng Cộng sản Việt Nam và lý
tưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Nhận thức của tôi về Đảng Cộng sản Việt Nam:

1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm sàng lọc của lịch sử đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới cùng sự lãnh đạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh:


Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, Phong
trào công nhân và Phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX;
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn
của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân.
Trải dài theo dòng lịch sử của nước nhà, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân đi hết từ thắng lợi này cho tới thắng
lợi khác. Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua,
cho thấy sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cuộc chiến tranh xâm lược, tạo ra những trận chiến lịch sử lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong sự
phát triển của dân tộc Việt Nam, đem lại cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc cho
toàn dân tộc Việt Nam.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước
lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần
đấu tranh anh dũng bất khuất. Hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn, phong trào chống thực
dân Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau như khởi nghĩa của Trương
Công Định, Thủ khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đơng Dương…Các
cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng anh dũng, nhưng chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của thời đại và xã hội nên đã bị
thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và cuối cùng đều thất bại.
Trong lúc cách mạng Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước. Ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua

nhiều nước, vừa lao động vừa kiếm sống, quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm
của các nước, rút ra bài học làm cơ sở cho lựa chọn con đường cách mạng của đất
nước.


Năm 1917, Cách Mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người chỉ đến khi Người
đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I.Lênin (vào tháng 7/1920). Từ đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc khỏi ách đơ hộ của thực dân Pháp, đó là con đường cách mạng vơ sản,
giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội; cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng vô sản
trên thế giới... Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phòng dân tộc khơng cịn
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Sự gắn kết
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là con đường tất yếu khách quan, hợp
với quy luật phát triển của đất nước, bối cảnh thời đại, hợp lòng người:
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng
sản, tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cốt cán,
tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Đến
cuối những năm 20 của thế kỷ XX, ở nước ta, các tổ chứng cộng sản lần lượt được
thành lập:


Ngày 17/6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập.



Khoảng tháng 11/1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập.




Ngày 01/01/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã thành lập ba tổ chức cộng sản. Điều đó
phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở nước ta lúc bấy giờ;
đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có
nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một
đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam.


Từ ngày 6/01 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán
đảo Cửu Long, đã hợp nhất một đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là cột mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam
đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ
chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng đoàn kết, kiên cường, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Từ những thành tựu đã đạt đước của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đã chứng tỏ chân lý: “…một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng
lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc
lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi
đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp cơng nhân mà Đảng ta
là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có
thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.

Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là: Đảng đứng vững trên nền
tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng khơng chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
mà còn vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cơ sở,
nguồn gốc sức mạnh của Đảng cịn ở chỗ Đảng đã khơng ngừng phát huy truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
1.2. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý trí và hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân; là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của đân


tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc:
Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu
nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, khẳng định sức mạnh
của Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý trí và hành động đã đấu tranh chống
thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trải qua các
cuộc đấu tranh gian khổ, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 19391945), Đảng đã lãnh đạo Nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến
hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945. Nhân dân Việt Nam đã đạp
tan xiềng xích nơ lệ của chế độ thực dân và lật đổ chế độ phong kiến tay sai thối nát,
Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do dân chủ nhân dân,
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã phải đối mặt với nhiều
khó khăn, mọi lực lượng của nước nhà cịn rất non yếu. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh với đường lối chính trị sáng suốt vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm
dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người
như một, vượt qua mn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền,
đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến
lâu dài chống thực dân Pháp. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện trường kỳ,
dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo Nhân

dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược và đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Tất cả thực tiễn phong phú, sôi động, hào hùng của dân tộc ta trong 90 năm qua ngày
càng khẳng định rõ hơn nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng vừa trịn 30
tuổi:
"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.


Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hồ bình ấm no”
Đảng ta vĩ đại, trước hết chính vì Đảng tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp
cơng nhân hiện đại, cho tiềm lực tinh thần truyền thống của dân tộc và tiếp thu được
những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Ngay từ khi thành lập, sức mạnh của Đảng nằm
ngay trong ba yếu tố hợp thành của Đảng: chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ln đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc
lên trên hết, đó cũng chính là ngun nhân sâu xa làm nên sức mạnh đoàn kết rất đáng
tự hào của Đảng ta, đã tạo nên uy tín lãnh đạo của Đảng đối với toàn dân tộc; làm cho
Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ.
Lịch sử 90 năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng tỏ, cội nguồn sức mạnh của
Đảng không chỉ thể hiện ở chỗ mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát vì lợi ích của
nhân dân mà cịn thể hiện Đảng ln ln gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân
dân tin tưởng, ủng hộ và che chở. Lãnh tụ Hồ Chí Minh coi việc hoạch định đường lối
chính sách của Đảng khơng chỉ là cơng việc của bản thân Đảng mà còn phải biết phát
huy trí tuệ của tồn dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng: "Tin vào dân chúng.
Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết". Đảng đã nhận thức
sâu sắc: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá
nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy
được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”.

Khi tổng kết những kinh nghiệm quý sau hơn 30 năm đổi mới, một trong những bài
học quan trọng hàng đầu được Đại hội X của Đảng đúc kết là bài học “lấy dân làm
gốc”: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và
sáng kiến của nhân dân có vai trị quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới


của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực
tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của
thành cơng”.
Nhìn lại chặng đường đấu tranh đầy khó khăn, thử thách nhưng vơ cùng oanh liệt của
Đảng ta trong chín thập kỉ qua, tơi nhận ra bài học “lấy dân làm gốc”, trân trọng quá
khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả cách mạng của cách mạng, càng thấm thía và
biết ơn vơ hạn cơng lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ đảng viên đã xả
thân vì nền độc lập, thống nhất của đất nước, càng thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân
và dân tộc Việt Nam ta.
1.3. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, khơng cịn người bóc lột người, thực hiện thành cơng chủ
nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai
cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, coi đó là
điểm xuất phát của mọi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngay Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng phản ánh đúng quy luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, vạch ra được mục tiêu, phương
hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng. Từ đó tiến hành tập hợp, tổ chức, động viên
toàn thể nhân dân biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần
chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy được phát triển, cụ thể hoá đáp ứng
những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, hoàn thành cuộc cách mạng

dân tộc dân chủ và từng bước xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước độc
lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì". Mục
tiêu của Đảng là làm cho mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học


hành, được sống ấm no và sung sướng; mang lại quyền làm chủ về kinh tế, xã hội cũng
là thước đo trình độ giải phóng xã hội, sự phát triển của xã hội.
1.4. Đảng ta luôn kiên định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định: con đường duy nhất
đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, là sự kiên định và sáng tạo của Đảng ta dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp quy luật, đúng như Đại hội lần thứ XII
(2016) của Đảng khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”
Khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn trong Cương lĩnh,
Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ
nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản” - tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu
độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng; trong đó: 1) Để xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc. 2) Đi lên chủ
nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc và xây
dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những
thuận lợi song cũng có khơng ít khó khăn. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII của
Đảng đã thơng qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội ở nước ta.

Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tổ chức cơ bản. Phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh
đạo của Đảng.


Tiếp đó, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VIII nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới
những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa” 14. Đại hội
Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” 15. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ X (2006) của
Đảng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn
mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (2011) đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm
lớn mà Cương lĩnh năm 1991 rút ra từ 60 năm cách mạng Việt Nam: (1) tiếp tục nhấn
mạnh bài học đầu tiên “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”là
điều kiện tiên quyết, nhiệm vụ chiến lược gắn liền với xây dựng CNXH; (2) sự nghiệp
cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (3) khơng ngừng củng cố,
tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế; (4) kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế; (5) sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng, hơn bao giờ hết, bài học “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới”, tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ lớn,
phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở Việt Nam (giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội

và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế) càng
phải được chủ động bám sát và kiên trì thực hiện.
Cương lĩnh thời, khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử” 16. Cương lĩnh nêu những nội dung cơ bản của con


đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản: 1) Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; 2) Do Nhân dân làm chủ; 3) Có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; 4) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6) Các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7) Có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; 8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới; 8
phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định rằng,
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt
không thể tách rời của con đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
1.5. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ
bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh
thần cách mạng tiến cơng, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận
dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ
bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri

thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.



×