Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

bài thu hoạch cảm tình đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.37 KB, 27 trang )

CÂU 1:

Câu hỏi 1: Trong hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân
dân giành được những thắng lợi vĩ đại như thế nào?
Trả lời:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
nền độc lập dân tộc. Qua 8 thập kỷ (1930-2010), Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được
những thắng lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội; mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: là cả một pho lịch sử bằng vàng.

1

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, bước ngoặt quyết định của cách mạng Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ
nghĩa thực dân trên đất nước ta. Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước,
thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực. Sự
câu kết giữa đế quốc và phong kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa. Đồng thời, chúng thực hiện chính sách đàn áp,
khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc, tôn giáo..., làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do
dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man, mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào bị
ngăn cấm. Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta, tăng
cường vơ vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến..., làm cho nhân dân ta, trước hết là
công nhân và nông dân, bị bần cùng hóa, nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm
trọng kéo dài. Về văn hóa- xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa nô dịch, vong bản, sùng
Pháp, kìm hãm dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng. Với chính sách khai thác
thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa, nửa phong kiến. Chính sách
thống trị của Pháp và bọn tay sai đã tạo ra trong xã hội Việt Nam hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân


tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là giữa nông dân, với giai cấp địa chủ
phong kiến- chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân
Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải
gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải
quyết. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài và gian khổ, ác liệt, dân tộc ta sớm hình thành
truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược,
nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm phong trào, cuộc khởi
nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau
như phong trào Cần Vương, phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân do cụ Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh và một số người yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản khởi xướng, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn
Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... tất cả các phong trào đấu tranh đó dù vô cùng
anh dũng nhưng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các


phong trào đấu tranh đó là những người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn phản
ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta thời kỳ đó đứng trước cuộc khủng hoảng, bế
tắc về đường lối cứu nước. Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Trên con
đường bôn ba khắp năm châu, bốn biển, Người vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các
cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ) và tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một
trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người đã từng bước rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự
lựa chọn con đường cách mạng của mình. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc
đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con
đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải
phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới... Từ đây, Người dứt
khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin, con đường Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là bước ngoặt từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản
quốc tế của Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt

Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt
Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp (1925) của Người. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn
bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông,
sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất
bản tác phẩm Đường kách mệnh (1927)... để một mặt tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, mặt khác
tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt
Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người
yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả
nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy các tổ
chức đảng được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh
xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động
biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng
thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ
năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở


Việt Nam. Từ ngày 6/1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương cảng, Trung
Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng... Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản việt Nam mang tầm vóc lịch

sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở
nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá
trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do
Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng
Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

2

Đảng ra đời, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh
mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh
chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng,
trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ hy sinh, Đảng từng bước vận động, giáo dục quần chúng, qua ba cao trào cách
mạng lớn (1930-1931, 1936- 1939, 1939- 1945) như ba cuộc tổng diễn tập cách mạng, với khí thế cách mạng vĩ đại
của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta lãnh
đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã
đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại trong gần một thế
kỷ. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập
tự do, dân chủ nhân dân tiến lên Chủ nghĩa Xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân
Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo

cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc” . Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã phải đối mặt với ba thứ giặc hung dữ: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đã làm cho hơn 2
triệu đồng bào chết đói; trên 95% dân Việt Nam mù chữ; miền Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng, miền Nam trên 15 vạn
quân Pháp lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của
đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ
trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với
các thế lực thù địch, chúng ta thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời gian
củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo
về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó
khăn, nguy hiểm tưởng như không qua được, củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng vượt qua tình thế hiểm


nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Bất chấp nguyện vọng của nhân dân ta
và mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Lich sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới, phải đứng
lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi, nhân dân cả nước
quyết tâm “ Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”... Với đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mạnh là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (tháng 5-1954) mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi
Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ
thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực
dân. Đánh giá ý nghĩa thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu
đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng
là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”. Thắng lợi đó làm sáng tỏ một
chân lý:... “Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên
quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công
nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có thể tạo điều kiện
cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập” .

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc
điểm là đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị- xã hội đối lập nhau. Con đường phát triển tất yếu
của cách mạng Việt Nam như Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của
cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng
miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam. Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dân cả nước ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với tinh thần
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quyết “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt
này, đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng tiêu diệt
lực lượng cách mạng nước ta. Song, trải qua 21 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó
khăn, gian khổ, chiến đấu kiên cường, lại được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần
lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, thấy hết lực lượng mà kẻ địch đã sử dụng, những ý
đồ mà chúng đã thực thi, nhớ lại những tình huống cực kỳ phức tạp mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua, chúng ta
càng thấy rõ tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. “Năm tháng sẽ trôi qua,
nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một


trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí
tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc
tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc !”
Thắng lợi oanh liệt mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ

đại trong lịch sử dân tộc ta, mở ra thời kỳ mới- thời kỳ độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước.
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi, song cũng không
ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là nền kinh tế nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả
chiến tranh để lại nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm mọi cách phá hoại. Phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đã và đang trải qua nhiều diễn biến phức tạp; chủ nghĩa xã hội thế giới gặp phải những khó khăn,
thử thách lớn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc biệt từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Quá trình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975- 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn trở
ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi
mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa- xã hội, Nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân. Chúng ta tập trung sức bắt tay xây dựng nhiều công trình
kinh tế trọng điểm: đường sắt Bắc- Nam, thủy điện Hòa Bình, xi măng Hoàng Thạch, cầu Thăng Long... Tuy nhiên,
những thành tựu về kinh tế- xã hội còn thấp so với yêu cầu kế hoạch và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt mất cân
đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội ngày càng gay gắt. Trên mặt trận bảo
vệ Tổ Quốc chúng ta đã giúp nhân dân Campuchia giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Polpot. Ở biên giới phía Bắc
chúng ta cũng bảo vệ và đánh đuổi quân xâm lược từ phương Bắc. Trên biển Đông chúng ta cũng không ngừng đề
cao cảnh giác, bảo vệ và giữ vững các đảo và quần đảo, giải quyết các xung đột với tinh thần hòa bình là trên hết.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng (12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ
những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000 và nhiệm vụ kinh tế- xã hội 5 năm 1991- 1995, cụ thể hóa
hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đất nước ta vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong
hoàn cảnh phức tạp, khó khăn, cách mạng nước ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng lợi nổi
bật trên nhiều mặt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (22-6 đến 1-7-1996) đã nhận định: “Công cuộc
đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề

ra cho 5 năm 1991- 1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một
số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần


thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” . Đại hội đã đề ra nhiệm vụ từ
năm 1996 đến năm 2000 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn
đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh
tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế kỷ sau”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
(4-2001) đã chỉ rõ: Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng
đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta. Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta.
Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới. Đại hội X của Đảng họp vào lúc
toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới. Đại hội có
nhiệm vụ: kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 2005 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhìn lại 20 năm đổi mới; quyết định phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá X. Đại hội đã căn cứ vào thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam đề ra nhiệm vụ
hết sức quan trọng: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Gần 25 năm thực hiện công
cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đúng như
đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã khẳng định tại lễ kỹ niệm 80 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: “Có
thể coi công cuộc đổi mới là cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc nhất trong thời kỳ mới. Từ một nước nghèo nàn,
lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển nhanh theo hướng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở
hữu và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đất nước không những đi ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội mà

còn vượt qua được những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực những năm 1997 - 1998 và
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Trong hoàn cảnh khủng hoảng tài chính và suy thối
kinh tế trên quy mơ thế giới, Việt Nam vẫn tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, năm 2008 đạt thu nhập bình quân
đầu người trên 1.000 đô-la, vượt qua ngưỡng một nước chậm phát triển, năm 2009 tăng trưởng kinh tế đạt 5,32%,
đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể. Tỉ lệ các hộ nghèo đói giảm từ 58%
năm 1993 xuống còn 12,3% năm 2009. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp
tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Đó là sự nỗ lực phi thường của toàn thể nhân dân, của Đảng, Nhà nước ta. Cần nhấn
mạnh, từ thực tiễn phong phú và sáng tạo của công cuộc đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.”
Chặng đường vẻ vang tám thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định: Sự
lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng
sớm phát hiện ra những sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng


công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng
vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng ta là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả
dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào có thể lãnh đạo cách mạng.

3

Những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng 80 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng được tôi luyện, trưởng
thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.

- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế...
Những truyền thống đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, của giai cấp công nhân
Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đó là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ
đảng viên của Đảng góp phần tạo nên. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh
thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta. Ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập
trường của giai cấp công nhân. Vì vậy, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những bước
ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có
những quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách mạng vượt lên.
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng vững trên nền tảng tư tưởng tiên
tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lênin cho rằng: “Chỉ có đảng nào được một lý
luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên phong”. Đảng ta không chỉ nắm
bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn
Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa
trí tuệ của nhân loại.
Ôn lại lịch sử và truyền thống của Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng mà quan trọng hơn là góp phần giữ
vững, kế thừa và phát huy những truyền thống của Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, có đủ
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm đòi hỏi của thời đại mới, đưa ngọn cờ vinh quang của Đảng lên tầm
cao mới.
PHÂN TÍCH SỰ KIÊN CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ CHỨNG MINH
Chiến thắng Điện Biên Phủ là điểm hội tụ, kết tinh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ chín năm gian lao mà
anh dũng. Sự hội tụ, kết tinh thắng lợi đó quy về cội nguồn thì đó chính là từ bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
Trong bài viết “Chiến dịch Điện Biên Phủ - Chiến thắng của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam,” Đại tá, phó giáo sư, tiến sỹ Vũ Như Khôi,



Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, đã phân tích, chia sẻ về nguồn gốc sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của Chiến thắng "lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu" 60 năm về trước.
Vietnam+ trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc:
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử. Từ sau sự kiện “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đó, về phía người chiến
thắng và phía kẻ thua trận, vẫn chưa lý giải hết nguồn gốc sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của sự thắng, thua đó.
Nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng tôi muốn trở lại với những gì đã xảy ra trong bao tháng ngày gian khổ và
hào hùng đã qua, để quy đến ngọn nguồn của chiến thắng.
Điều đầu tiên phải khẳng định rằng không thể có đột nhiên một chiến thắng tầm cỡ như thế nếu không có chín năm kháng chiến
gian lao mà anh dũng, đồng bào, chiến sỹ ta phải hy sinh nhiều của, nhiều người; không có những chiến công oanh liệt từ Nam
Bộ Thành đồng kháng chiến, Hà Nội kìm chân quân Pháp trong thành phố, chiến thắng Việt Bắc, chiến thắng Biên giới... và phải
có cả những chiến dịch không thành công để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo chiến dịch.
Điện Biên Phủ là điểm hội tụ, kết tinh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sự hội tụ, kết tinh thắng lợi đó quy về cội
nguồn thì đó chính là từ bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
Trong mọi hoạt động của mỗi người hay cả cộng đồng người, bao giờ cũng vậy, muốn thành công phải có bản lĩnh và trí tuệ. Bản
lĩnh là sự vững vàng, kiên định. Trí tuệ là sự minh mẫn, sáng suốt. Bản lĩnh và trí tuệ thường hòa quyện và thống nhất với nhau.
Phải có sự vững vàng, kiên định về tư tưởng thì mới minh mẫn, sáng suốt trong cách nghĩ, cách làm. Mặt khác, phải có sự minh
mẫn, sáng suốt mới vững vàng, tự tin, dám làm và quyết làm.
Trong chiến tranh, điều này thể hiện càng rõ. Tổ chức hay người lãnh đạo, chỉ huy có bản lĩnh vững vàng mới dám đánh và quyết
đánh. Có dám đánh và quyết đánh mới sáng suốt biết đánh, tìm ra cách đánh.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, đáng lẽ nhân dân Việt Nam được sống trong độc lập, hòa bình để kiến thiết nước nhà
và chăm lo cuộc sống, nhưng thực dân Pháp hiếu chiến ỷ vào đội quân xâm lược nhà nghề cùng máy bay, xe tăng, tàu chiến trở
lại xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng hạ tối hậu thư, bắt quân dân ta hạ vũ khí đầu hàng, trở lại cuộc sống nô lệ.
Song, Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là tiếng gọi thiêng liêng của non sông, là quyết tâm của toàn thể quân dân Việt Nam: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” (trích "Hồ Chí Minh, Toàn tập," Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.
2002, tập 4, trang 480).
Cả nước đứng lên kháng chiến với đường lối toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Quân dân ta đã lần lượt
đánh bại các chiến lược quân sự của giặc Pháp. Đến năm 1953, ta đã hoàn toàn giành thế chủ động trên chiến trường, càng
đánh, càng mạnh, càng thắng. Quân Pháp càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.
Để cứu vãn tình thế, Thu-Đông 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cho ra đời kế hoạch Navarre (tên viên Trung tướng, nguyên

Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương, một nhân tài quân sự trẻ tuổi của quân đội Pháp, được cử sang làm
Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương) với hành động và ý đồ là: Tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, tăng thêm
quân ngụy, xây dựng lực lượng cơ động mạnh, tập trung quân cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ, mở những chiến dịch lớn ra vùng
căn cứ kháng chiến, giành thắng lợi có tính quyết định trong vòng 18 tháng để hướng tới một giải pháp chính trị trên thế mạnh.
Kế hoạch Navarre tuy ra đời trong thế thua, thế bị động, nhưng không kém phần nguy hiểm, vì đây là cố gắng cao nhất và cuối
cùng của Pháp, lại được nhà cầm quyền Mỹ ủng hộ và chi viện lớn. Đến tháng 3/1954, Navarre đã đưa quân số lên 480.000, tổ
chức thành 286 tiểu đoàn; trong đó có 85 tiểu đoàn Âu-Phi và tập trung gần 50% lực lượng quân đội, gần 50% lực lượng cơ động
(44 tiểu đoàn) trên toàn chiến trường Đông Dương ra đồng bằng Bắc Bộ, coi đây là “vị trí then chốt của Đông Nam Á.”
Về phía ta, tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đã họp bàn kế hoạch chiến lược Đông-Xuân (1953-1954). Mặc
dù vào lúc này, quân số của địch hơn ta nhiều, vũ khí trang bị của chúng đầy đủ và hiện đại hơn hẳn ta, nhưng Bộ Chính trị đã đề


ra phương châm “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” với nguyên tắc chỉ đạo về quân sự là “tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng
lực lượng ta, đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt”. Đó là một quyết tâm chiến lược rất cao.
Hướng chiến lược được lựa chọn là Tây Bắc. Để phá tan kế hoạch tập trung quân cơ động của địch, ta cũng mở nhiều chiến dịch
tiến công ở các hướng Trung, Hạ Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào và đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng địch tạm chiếm buộc địch
phải rải quân ra nhiều hướng để giữ các vị trí chiến lược.
Thực hiện triển khai hướng tiến công chính là Tây Bắc, giữa tháng 11/1953, Đại đoàn 316 lên đường theo hướng Lai Châu. Lúc
này, ở Tây Bắc, quân Pháp chỉ còn chiếm đóng Lai Châu, còn toàn bộ vùng Tây Bắc là vùng giải phóng của ta.
Giữa lúc có một không khí lạc quan về việc thực hiện kế hoạch Navarre trong giới chức Pháp-Mỹ thì Bộ Chỉ huy địch nhận được
tin tức tình báo có một đơn vị chủ lực quân đội Việt Nam hành quân lên hướng Tây Bắc.
Không thể để mất toàn bộ vùng địa quân sự quan trọng Tây Bắc-Thượng Lào, ngày 20/11/1953, Navarre cho nhảy dù sáu tiểu
đoàn cơ động tinh nhuệ xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ. Tiếp đó, Bộ Chỉ huy quân Pháp lại nhận được tin có nhiều đơn vị chủ
lực, kể cả những đơn vị thiện chiến nhất của Việt Nam di chuyển lên hướng Tây Bắc. Hướng tiến công Tây Bắc của đối phương rõ
dần.
Bộ Chỉ huy quân Pháp tính rằng với việc chiếm giữ vị trí chiến lược then chốt Điện Biên Phủ, sẽ có điều kiện để mở rộng chiếm
giữ cả vùng Tây Bắc và Thượng Lào, đồng thời buộc ta phải chấp nhận một trận công kiên lớn mà ưu thế thuộc về phía Pháp với
vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại hơn hẳn đối phương.
Đế quốc Mỹ còn tính xa hơn, Điện Biên Phủ là một căn cứ lục quân, không quân lợi hại, có thể phục vụ cho mưu đồ xâm lược của
Mỹ ở Đông Nam Á sau này. Vì thế, cần phải giữ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào.

Với lực lượng mạnh, được tổ chức phòng ngự vững chắc, được chi viện bằng không quân, Điện Biên Phủ sẽ trở thành nơi thu
hút, gây tổn thất lớn cho quân chủ lực Việt Nam. Như thế, đồng bằng Bắc Bộ sẽ không bị uy hiếp, lực lượng cơ động của Pháp sẽ
có thời cơ bình định đồng bằng và mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn vào vùng căn cứ kháng chiến, làm thay đổi so sánh
lực lượng và thế chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương.
Một vấn đề đặt ra là Điện Biên Phủ ở giữa vùng rừng núi xa xôi, tiếp tế khó khăn, nhưng Navarre và giới quân sự Pháp, Mỹ tính
toán chủ quan rằng vấn đề tiếp tế hậu cần của quân Pháp ở Điện Biên Phủ có thể khắc phục được nhờ sự chi viện bằng đường
không của Pháp, Mỹ.
Trái lại, về phía Việt Nam, từ trung tâm hậu phương kháng chiến đến Điện Biên Phủ gần 500km đường mòn luồn rừng, leo núi,
việc vận tải tiếp tế chủ yếu bằng gánh bộ sẽ khó khăn gấp bội, không thể giải quyết được nhu cầu hậu cần của hàng vạn quân.
Cân nhắc thuận lợi, khó khăn của hai bên, theo họ, phần thắng chắc chắn thuộc về phía Pháp.
Từ tính toán đó, Navarre quyết định rút quân từ Lai Châu về Điện Biên Phủ, đồng thời tăng viện, biến Điện Biên Phủ thành một
tập đoàn cứ điểm mạnh gồm 21 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, ba tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn công binh, một đại đội xe
tăng, một đại đội xe vận tải và một phi đội không quân thường trực 14 máy bay, tổng quân số lên tới 16.200 quân (chiếm 1/3 lực
lượng quân cơ động của Pháp tập trung trên chiến trường Bắc Bộ), phần lớn là các đơn vị Âu-Phi tinh nhuệ, ngoài ra còn một số
đơn vị lính ngụy được huấn luyện dài ngày và trang bị vũ khí tốt.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được bố trí 49 cứ điểm, tổ chức thành tám cụm cứ điểm liên hoàn. Mỗi cụm cứ điểm là một
khu vực phòng thủ, một trung tâm đề kháng, có lực lượng phòng ngự và lực lượng cơ động, có hỏa lực mạnh, có các hàng rào
kẽm gai và bãi mìn dày đặc xung quanh ngăn chặn đường tiến công từ ngoài vào.
Sân bay chính Mường Thanh và sân bay dự bị Hồng Cúm có thể hạ cánh gần 100 lượt máy bay mỗi ngày và chuyên chở khoảng
200-300 tấn quân dung, thả dù từ 100-150 binh sỹ.
Navarre còn dành 80% số máy bay của Pháp ở Đông Dương xuất phát từ sân bay Cát Bi, Gia Lâm và có sự chi viện của máy bay
Mỹ từ tàu sân bay ở Vịnh Hạ Long thường xuyên bắn phá ác liệt vào đội hình chiến đấu và các tuyến đường vận tải tiếp tế của


Việt Nam. Chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ gồm các sỹ quan được đào tạo cơ bản, có nhiều kinh nghiệm chiến trường.
Với một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có trong chiến tranh Đông Dương như thế, Bộ Chỉ huy quân Pháp huênh hoang Điện
Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm bất khả xâm phạm và thách thức quân đội kháng chiến Việt Nam nghênh chiến. Họ tin chắc sẽ
thu hút và “nghiền nát chủ lực đối phương” và đây sẽ là giải pháp quyết định thắng lợi cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp,
Mỹ.
Như thế, Điện Biên Phủ ban đầu không có trong kế hoạch Navarre, nay đã trở thành quyết chiến điểm của kế hoạch Navarre.

Phía ta, từ khi địch nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, Bộ Tổng tư lệnh đã củng cố quyết tâm xác định Tây Bắc là hướng tác
chiến chính và dự kiến phương án tác chiến tiến công Điện Biên Phủ.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp, nghe Tổng Quân ủy trình bày kế hoạch tác chiến mùa Xuân 1954, trong đó có phương án tác
chiến tiến công Điện Biên Phủ và nhấn mạnh trận Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay.
Bộ Chính trị đánh giá Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng lại có cái yếu cơ bản là bị cô lập, ở rất xa hậu phương
địch, mọi tiếp tế vận chuyển đều phải dựa vào đường không.
Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương, khó khăn về tiếp tế hậu cần cũng là rất lớn, nhưng với quyết tâm của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân, cả tiền tuyến và hậu phương, ta có khả năng khắc phục được và quân dân ta chắc chắn đánh thắng
quân địch ở Điện Biên Phủ.
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tương quan lực lượng, điều kiện thực tại và triển vọng tình hình của hai bên, Bộ Chính trị
thông qua kế hoạch tác chiến của Tổng Quân ủy và chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong chiến cuộc Đông
Xuân 1953-1954 và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Về tầm quan trọng của chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh và tập thể Bộ Chính trị nhận định: “ Chiến dịch Điện Biên Phủ đối với
tình hình quân sự và chính trị ở Đông Dương, đối với sự trưởng thành của quân đội ta cũng như đối với công cuộc bảo vệ hòa
bình thế giới có một ý nghĩa rất quan trọng.” (trích "Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập," Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, H. 2001, tập 15, trang 88).
Bộ Chính trị quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam được cử làm Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh chiến dịch.
Thực hiện trận đối đầu lịch sử này, suốt mấy tháng trời chuẩn bị chiến dịch, Trung ương Đảng, Chính phủ, Hội đồng cung cấp mặt
trận, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy mặt trận đã huy động, tổ chức, chỉ huy quân và dân ta ngày đêm bạt rừng, xẻ núi, mở hàng nghìn
kilômét đường giao thông cho bộ đội ta chuyển quân, kéo pháo, chuẩn bị trận địa.
Một lực lượng quân sự lớn chưa từng có được huy động cho chiến dịch: 55.000 quân thuộc năm đại đoàn, nhiều trung đoàn,
tiểu đoàn bộ binh chủ lực và các binh chủng kỹ thuật, cấp tập hành quân, tập kết siết chặt vòng vây, chuẩn bị giáng đòn sấm sét
vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Để bảo đảm hậu cần cho chiến dịch, hơn 260.000 dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong đã ngày đêm vừa làm đường,
vừa vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm dưới làn bom đạn địch đáp ứng yêu cầu của mặt trận. Đó thực sự là
những thử thách khốc liệt mà đồng bào ta đã vượt qua.
Trong chuẩn bị chiến dịch, cũng phải kể đến sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc, Liên Xô chi viện cho ta nhiều pháo mặt đất,
pháo phòng không, xe vận tải, phương tiện vật chất kỹ thuật, quân trang, quân dụng cùng sự chia sẻ kinh nghiệm của đoàn cố
vấn quân sự Trung Quốc.

Với tinh thần “ Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng,” đồng bào và chiến sỹ ở các địa phương, các chiến trường đã đóng góp
sức người, sức của cho chiến dịch và đẩy mạnh tiến công làm cho địch bị tổn thất nặng nề, hình thành thế trận phối hợp tuyệt
vời với Điện Biên Phủ.


Trung tâm và tiêu biểu cho bản lĩnh, trí tuệ của quân, dân ta là trên mặt trận Điện Biên Phủ. Lúc đầu, Bộ Tham mưu chiến dịch,
có sự tham gia ý kiến của đoàn cố vấn Bạn, xác định phương án tác chiến là “Đánh nhanh, giải quyết nhanh,” dùng ưu thế binh
lực, hỏa lực đánh thọc sâu vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, rồi trong đánh ra, ngoài đánh vào, giành thắng lợi hoàn toàn trong
thời gian ngắn. Mọi việc chuẩn bị cho phương án đó đã hoàn tất, người, súng đã vào vị trí sẵn sàng chờ lệnh tiến công.
Đại tướng Tư lệnh chiến dịch Võ Nguyên Giáp tổng kiểm tra lần cuối. Ông thấy phương án “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” bộ
đội sẽ thương vong nhiều mà không đảm bảo chắc thắng. Muốn chắc thắng phải thay đổi phương án tác chiến, từ “Đánh nhanh,
giải quyết nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc.”
Với bản lĩnh của một vị tư lệnh chiến trường, “tướng quân tại ngoại,” có trách nhiệm trước hết với thắng lợi của chiến dịch,
trước xương máu của chiến sỹ, đồng bào, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã
họp bàn tập thể Đảng ủy chiến dịch và có một quyết định lịch sử: Hoãn cuộc tiến công, chuẩn bị lại theo phương án “Đánh chắc,
tiến chắc.”
Vì tình hình cấp bách, ông quyết định triển khai rồi mới cho người về báo cáo với Bộ Chính trị và Bác Hồ. Phương án này được
giấu kín, nghi binh khiến cho địch bất ngờ. Đó là sự thể hiện bản lĩnh và trí tuệ hòa quyện nhuần nhuyễn với nhau.
Ngày 13/3/1954, quân ta khai hỏa tiến công như vũ bão vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm với ba đợt chiến
đấu vô cùng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, chiều 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta tung bay trên nóc hầm tướng
De Castries, kết thúc thắng lợi chiến dịch. Toàn bộ quân địch gồm 16.200 tên và Bộ Chỉ huy do tướng De Castries cầm đầu đã bị
tiêu diệt và đầu hàng. Điện Biên Phủ được giải phóng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ do nhiều nguyên nhân cụ thể từ phía ta, cả từ những toan tính sai lầm của địch, nhưng quy đến ngọn
nguồn thì đó là chiến thắng của bản lĩnh và trí tuệ của Bác Hồ, của Đảng, của những vị chỉ huy tài ba cũng như của toàn thể quân
và dân Việt Nam. Bản lĩnh và trí tuệ ấy luôn là tiềm năng quý giá của dân tộc ta, biết khơi dậy, phát huy sẽ thành sức mạnh vĩ đại
trong công cuộc dựng nước và giữ nước./.
CÂU 2:
Câu 29:KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Trả lời
Lựa chọn con đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa) là một tất yếu lịch sử ở Việt

Nam: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(1). Tuy nhiên, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị tàn phá bởi mấy chục năm chiến tranh, tức là một xuất phát điểm rất thấp về
kinh tế, nên thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu dài và đầy khó khăn.
Trước Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, do mắc sai lầm chủ quan duy ý chí, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã vi phạm quy luật khách quan là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được tiến hành rập khuôn theo mô hình Liên Xô (một
nước đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm cao hơn nước ta rất nhiều), thủ tiêu kinh tế thị trường, duy trì nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chỉ quan hệ với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.(*)Kết quả là, đến cuối thập
niên 70 - đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, nền kinh tế của đất nước bị suy thoái nghiêm trọng, đời sống nhân dân
vô cùng khó khăn.
đến Đại hội IX, Đảng ta mới chủ trương: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường (quy luật
giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cạnh tranh...). Còn nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa có những dấu


hiệu, như hợp tác, nhân đạo; lợi nhuận chỉ là phương tiện để đạt được mục đích vì con người. Nền sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa cần phải:
Một là, khuyến khích làm giàu chính đáng, đồng thời tích cực xóa đói, giảm nghèo (vì nghèo thì không phải là chủ
nghĩa xã hội);
Hai là, phát triển kinh tế song song với thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội, bảo đảm công bằng và an sinh xã
hội, chú trọng phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, làm cho khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng
gần lại;
Ba là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo có một trong những chức năng là điều tiết, định hướng nền kinh tế, chủ
yếu ở tầm vĩ mô, ví dụ như ở các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, ngân hàng, các nguồn lực,...
Câu 5: Sinh ra và lớn lên tại vùng quê thanh bình và giản dị, tôi được thừa hưởng cuộc sống hòa bình trong

thế kỷ XXI, được chứng kiến sự đổi thay của đất nước, như một bức tranh muôn màu sắc, tôi được học

tập được tu dưỡng, trau dồii kiến thức và được tiếp xúc với nhiều bài học quý báu từ lời dạy của thầy từ
câu nói của cô. Tất cả những bài học ấy luôn đọng trong tâm trí tôi như trang sách luôn sát cánh bên tôi
vậy ! Tôi đặc biệt thích câu nói khi học Lịch sử lớp 12: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình,
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự
vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải
gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam
độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!” Câu nói ấy luôn luôn xuất hiện trong
tâm chí tôi như một tuyên ngôn cho tôi vậy. khi nhắc tới cấu nói tôi lại cảm thấy cái gì đó thôi thúc tôi càng
phải phấn đấu và rèn luyện nhiều hơn nữa. Các bạn biết câu nói đó của ai không ? Lãnh tụ, danh nhân Hồ
Chí Minh đấy các bạn ạ. Được viết vào 19/12/1946 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đó chỉ là một câu
nói trong rất nhiều câu nói mà tôi thích của Người, tất cả những gì thuộc về người tôi cũng đêu thích và tôn
vinh như những ý nghĩa cao cả nhất. Đã qua hơn 10 năm sống trong thế kỷ XXI nhưng tấm gương Hồ Chí
Minh vĩ đại luôn được mỗi người dân Việt hướng tới. Sau gần 5 năm triển khai và thực hiện, Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến
nhận thức của cán bộ, đảng viên và người lao động. Thông qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tiết kiệm và tinh
thần tương thân, tương ái... đã giúp cho toàn bộ cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, toàn dân trong tất
cả các đơn vị có những chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Như vậy chúng ta có thể thấy được sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển của đất nước trên tất cả mọi lĩnh
vực. Được thể hiện cụ thể như sau: Trong thời kỳ đổi mới với bao khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh
tế - xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực tiễn kinh tế - xã hội và những tình huống chiến lược cũng như
những nhiệm vụ cụ thể nhiều khi chúng ta tỏ ra bế tắc chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta không
chú ý đến việc học tập đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ máy nhân lực của Chính phủ chúng ta
cũng đã làm được rất nhiều việc. Nếu không, làm sao chúng ta đứng vững cho đến ngày nay với một nhà

nước độc lập tự chủ, kinh tế phát triển đều đặn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Vì vậy,
xin được miễn nói những gì là thành tựu. Chỉ xin nói thêm về những thực trạng cần có đổi mới trong việc
học tập cho cán bộ và công chức từ giáo huấn Hồ Chí Minh: Chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học
với điều kiện của thực tiễn. Làm cái gì thì học cái đó trước, cái đó nhiều, cái đó suốt đời. Đưa người đã


học vào bộ máy công chức là chính, lấy người chưa học là phụ (tránh tình trạng hiện nay: sinh viên thất
nghiệp, công chức đi học tại chức!). Đưa thực tiễn vào tất cả các khâu: phân bổ thời gian; bố trí con người
"dạy thực tiễn" (như dạy sinh viên hành chính là trưởng phó phòng, chủ tịch, phó chủ tịch, dạy tiếp dân...).
Tiếp cận cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức trong nước với thế giới để tránh tình trạng bất
cập có thể có: một bên là Việt Nam và một bên là thế giới còn lại! Thiết nghĩ một trong những điều mà giáo
huấn Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là giá trị "đi cùng thời đại" của những giáo huấn
đó 1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một
hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa
nhận Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người sao cho phù hợp với lợi ích của toàn
xã hội Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính “bổn phận” diễn ra một cách tự giác, chủ
yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã
hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình Đạo đức có chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo
dục và chức năng phản ánh. Chức năng điều chỉnh hành vi - Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành
vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân
và cộng đồng. Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp
quyền và đạo đức… - Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các
biện pháp đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực… - Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh
hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư
luận xã hội, lương tâm. Sự điều chỉnh này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều. - Điều chỉnh hành vi
của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức điều chỉnh. Pháp quyền thể hiện
ra ở pháp luật, là ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Những chuẩn mực của pháp
luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt,
quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù…). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng
đồng. Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng

dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn
mực khuyến khích. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi
từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái
ý thức khác, các hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức. - Mục đích điều
chỉnh: bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo nên quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân theo
nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng đồng). - Đối tượng
điều chỉnh: Hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp). Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: Lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trình của hành vi bởi lý
tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bưỏi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi
bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xã hội. Chức năng
điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình thức chủ yếu. - Xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi
khuyến khích cái thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác. - Bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi
cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã hội. Chức năng giáo dục Con người vươn lên “chân - thiện - mỹ”.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức
nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy. Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã
hội. Hệ thống ấy tác động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con
người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối
con người. Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác
động. Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn
đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo


đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời
sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền
thống, tập quán đạo đức. Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ
chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình giáo dục. - Giáo dục đạo
đức gắn với tiến bộ đạo đức: Nhân đạo hóa các quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các
quan hệ xã hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…sẽ giúp chủ thể lựa chọn,
đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của cộng đồng cũng như
tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và các bước
đi của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn đạo đức

đúng. Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn nhau trong cộng
đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;mặt khác, là sự “ tự giáo dục” ở các cấp độ cá
nhân lẫn cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng. Chức năng phản ánh Với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh của đạo đức
với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức khác. Đạo đức là phương thức đặc biệt của
sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được
quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức)
không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính
tinh thần vừa mang tính hành động hiện thực. Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm: - Hành động đạo
đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành
động đạo đức. (Khác những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có khoảng cách về
không gian và thời gian). - Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và
hướng nội (tự nhận thức – hương vào chính mình, chính chủ thể). Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức,
giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa
vụ, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện” tạo ra các giá trị đạo đức. Nhờ
sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức
đạo đức của cá nhân như là cái riêng. Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ thể
đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận
thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức
này mà chủ thể hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy
sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác… Trong tự nhận thức, vai trò của dư
luận xã hội và lương tâm là to lớn. Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể,
còn lương tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mình – giá trị mà xã
hội mong muốn. Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để ho thành
trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ phong
phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, gia cấp, tổ
quốc. Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trình độ : trình độ thông thường và trình độ
lý luận. - Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá trị riêng lẻ. Nó đáp
ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp thời trong cuộc sống và sự phát triển bình
thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trình độ này. - Nhận thức đạo

đức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có
tính tổng quát. Trình độ này đáng ứng những đòi hỏi của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là
yếu tố không thể thiếu được trong hệ tư tưởng và hành vi của các gia cấp cầm quyền. - Nhận thức đạo
đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội đã
nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã


hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức). 2. Về sự
suy thoái đạo đức, lỗi sống trong xã hội hiện nay Quan 20 năm đỗi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tự to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân có tiến bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu
năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc
đổi mới Trong đảng và trong xã hội ta hiện nay xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống. Đó là
nguy cơ lớn liên quan tới sự sống còn của Đảng của chế độ. Sự suy thoái về đạo đức,lối sống được biểu
hiện ở các dạng chủ yếu sau đây: Thứ nhất là: chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả hưởng
thụ, thiếu lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cá các tầng lớp xã hội. Thứ hai là: tệ tham
nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực đang trở thành “quốc nạn”
gây bức xúc cho nhân dân Thứ ba là: hành động cơ hội “chạy chọt” vì lợi ích cá nhân khá phổ biến Thứ tư
là: lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng, nói nhiểu làm ít; phát ngôn tủy
tiện, vô nguyên tắc Thứ năm là: tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạo vô cảm trước những khó khăn bức xúc và
yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân Thứ sáu là : tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia
đình với quan hệ giữa cá nhân và xã hội, như gia trưởng vũ phu bất hiếu Thứ bảy là: đạo đức nghề nghiệp
sa sút ngay cả trong lĩnh vực được xã hội tôn vinh, hiện tượng mê tín dị đoan có chiều hướng lan rộng ảnh
hưởng xấu tới thuần phong mĩ tục và trật tự an toàn xã hôi. Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách
quan và chủ quan Về khách quan: trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường đặc biệt là
khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đưc, lối sống tư sản hưởng
thụ phương tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông
tin toàn cầu. các thế lực thù địch phản động đã chủ động khuyến khích lối sốn ích kỷ, hưởng thụ, thực
dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ coi đó là một trong những biện pháp thực
hiện “ diễn biến hòa bình”: Về nguyên nhân chủ quan: do chúng ta chưa nhận thực đầy đủ sâu sắc vai trò

nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường tới đạo đức
xã hội trên thực tế chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chứ, phối hợp cảu các
ngành các cấp. một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về đạo đức và lối
sống Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn đến sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi lệch lạc những chuẩn mực thang bậc giá trị truyền thống giá trị
tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại tới sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước,
sự suy thoái về đạo đức của một số bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh
hưởng xấu tới uy tín và vai trò lãnh đạo cuả tổ chức đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối chủ
trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng với các
nguy cơ khác dẫn tới bất ổn định chính trị xã hội, liên quan đến “sự sống còn của đảng, của chế độ” Để
năng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống, trong đảng và trong xã hội, hội nghị trung ương III khóa X của đảng đã ban hành nghị quyết
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí” Ngày 7/11/2006 Bộ
Chính Trị Ban Chấp hành TW Đảng ra chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn đảng và xã hội. thực hiện tốt cuộc vận động này sẽ góp phấn
quan trọng vào cuộc đấu tranh và đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống trong đảng và trong xã hội Sự cần
thiết phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay. - Hiện nay đất nước đang trên đà đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa
– hiện đại hóa trên tất cả các mặt trận, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
đường lối cách mạng của người ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đóng vai trò chủ đạo trong


suy nghĩ và hành động của các cấp lãnh đạo và toàn dân. - Như chúng ta đã biết, lúc sinh thời Bác Hồ của
chúng ta đã khẳng định: Đạo đức là gốc của cách mạng. Bác coi đạo đức của con người như gốc của cây,
như nguồn của sông. Người luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng và tích cực của đạo đức trong đời sống xã
hội. Bởi vậy, học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, lối sống theo tấm gương Bác Hồ trong giai đoạn hiện
nay là điều rất cần thiết và quan trọng. - Là một cán bộ viên chức, bản thân nhận thức được rằng việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu
là một trách nhiệm đối với bản thân để từng bước hoàn thiện mình. Trong cuộc sống đời tư cũng như trong

công việc, bản thân luôn xác định rằng: “Việc gì có lợi dù nhỏ cũng làm, việc gì có hại dù nhỏ cũng tránh”
và tuyệt đối tránh lãng phí cả về tiền bạc và thời gian, luôn phát huy ý thức bảo vệ của công, gần gũi, sâu
sát với quần chúng nhân dân, lấy tiêu chuẩn người cán bộ cách mạng để làm mục tiêu phấn đấu. Những
phẩm chất đạo đức cách mạng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà cán bộ, đảng viên, công chức phải
thường xuyên học tập và noi theo: + Những phẩm chất đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Trung với nước hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phải “tuyệt đối
trung thành với Đảng với nhân dân”. - Tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân,
luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình là
giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ tốt đẹp hơn, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp
nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. - Cần kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời
sống, trong công tác: biết lao động cần cù, siêng năng và biết tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của nhân
dân của đất nước và của bản thân. - Liêm chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ phải
ngay thẳng, không tà, trong sạch, “luôn chí công vô tư” là rất mực công bằng, không có lòng riêng, thiên tư,
thiên vị. Đem lòng chí công vô tư đối với người, đối với việc. + Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: - Trọn
đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân
loại. - Kiên định mục đích lý tưởng, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách vượt qua khó khăn thử
thách. - Kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện
làm “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. - Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con
người, “dành tình thương yêu cho tất cả, chia sẻ với mỗi người nỗi đau”. - Coi khinh sự sa hoa, sống thật
sự cần kiệm giản dị, sống trong sạch, không gợn chút riêng tư. Đó chỉ là vấn đề lý thuyết còn thực tế thì
sao? Gần 5 năm thực hiện cuộc vấn động nước ta đã đạt được những thành tựu gì, các cơ chế về đạo
đức có được thay đổi các tình trạng quan tham ô liệu có còn, đó là những cấu hỏi mà khồn chỉ riêng tôi
đưa ra mà nó là tình trạng chung của tất cả chúng ta Bấy lâu nay chúng ta chỉ thấy được trên lý thuyết còn
phần thực hiện hay không thực sự rất khó, đòi hỏi mỗi địa phương có cái nhìn khái quát và toàn diện nhất
chứ nhất định khổng thể nhìn nhận bằng những con số trên giấy tờ mà thực tiễn không phản ánh đúng. Là
người dân Việt, là những đảng viên trẻ tương lai chúng ta hãy cần có sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn
sao cho phù hợp học tập theo bác như một chuẩn mực một tiền đề cho chúng ta tiến bước đi lên, phấn
đấu nỗ lực vì sự phát triển bền vững của đất nước, hãy tạm gác lại lợi ích cá nhân, hãy bỏ qua những
xiềng xích bấy lâu mà vì tổ quốc, vì lợi ích của nhân dân mà phục vụ. hãy thể hiện hành động trước tiên,
các nhà lãnh đạo hãy thể hiện bằng tất cả những gì mà họ có đi, đừng lời nói rồi bắt người khác phải làm,
đừng chỉ là chuyến thăm quan đơn giản mà làm tốn kém bao nhiêu của cải của địa phương, hãy bỏ qua

bớt thủ tục để có sự đơn giản, sự thân thiết giữa “quan” và “dân” hãy thể hiện mình là người bình dị và
mến khách. Liên hệ: Tôi hiện là sinh viên năm thứ 3 chuyên ngành Giáo dục học – Học Viện Quản Lý Giáo
Dục bản thân tôi cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động của trường đặc biệt là lĩnh vực tình nguyện.
trong quá trình học tập tại trường, Bên phòng công tác – chính trị luôn phát động các cuộc thi liên quan tới
Người, về tư tưởng tấm gương và đạo đức Hồ Chí Mình. Đặc biệt là cuộc thi văn nghệ “ Tiếng hát toàn
Học viện với nội dung về Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2009 thu hút được hấu hết tất cả sinh


viên toàn trường tham gia Là một trường mới được thành lập lên các phong trào đưa ra chưa được toàn
diện nhưng đã thu hút được số đông tham gia, các chủ đề luôn được đưa ra về ca ngợi Đảng, Bác Hồ kính
yêu Các cuộc thi không chỉ liên quan tới phòng chính trị dưới sự chỉ đạo của Chi Bộ Đảng nhà trường, còn
có sự tham gia tích cực của Đoàn thanh niên Học Viện với các cuộc thi với chủ đề học tấp và làm theo tấm
gương đạo đức của Người, gắn kết trong phong trào toàn diện về văn hóa văn nghệ thể dục thể thao Gắn
kết trong phòng trào học tập, chống tiêu cực trong thi cử, thi đua học tập tốt theo gương Bác Bản thân là bí
thư lớp tôi cũng thường xuyên đưa ra những buổi thảo luận ở tại lớp về Tấm gương đạo đức hồ chí mình,
đặc biệt là cuộc thi kể chuyện về Bác đã được tất cả thành viên trong chi đoàn tham gia, qua các bài hùng
biện về Người chúng tôi càng hiểu thêm về Bác về công lao to lớn, về tư tưởng bất hủ của Người và với
nguyện vọng là thế hệ đi sau chúng tôi sẽ cố gắng phát huy tất cả những sở trưởng thế mạnh của mình
sao cho hợp với chuẩn mực của đạo đức của tư tưởng của người đã để lại. Tất cả thành viên trong lớp
đều học tập đạt kết quả cáo 100% học lực Khá trở lên và cố gắng phấn đấu để trở thành những Đoàn viên
tốt để đạt được vào chỉ tiêu học cảm tình Đảng của trường… Thực hiện đường lối tiết kiệm trong các cuộc
thi, các hoạt động, đưa sinh viên tham quan Lăng Chủ Tich để hiểu thêm về lãnh tụ của đất nước…. Từ khi
Đảng phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” toàn thể sinh viên Học
Viện luôn có ý thức phấn đấu trong công tác học tập, tu dưỡng và rèn luyện bản thân, và đã đạt được
nhiều thành tích cao trong công tác của trường, lớp. luôn lấy tư tưởng của người làm ánh sáng soi đường
cho chúng ta, tiến bước đi lên như hành trang để tiến tới thành công. Để thay cho lời kết của mình tôi xin
đưa ra hai câu nói bất hủ của Người: « Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.” “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp
phần vào công cuộc xây dựng XHCN. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu, hậu lạc", nghĩa là khó
khăn thì chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng

là thầy giáo, là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng lên báo, không được thưởng huân chương,
song những người thầy tốt là những anh hùng vô danh....” Tôi, bạn và bạn nữa…cùng chung tay góp sức
vì một Việt Nam bừng sáng trên trường quốc tế, cùng học tập thi đua, nỗ lực tất cả, chúng ta có đầy đủ
điều kiện để đi lên, chúng ta phải hứa với lòng mình là sẽ thành công. Cùng đoàn kết gắn bó, hợp sức vì ở
đó ta mới thấy mình tự tin hơn, vững vàng hơn “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công,
đại thành công”
Câu 3:

Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nội dung cơ bản của
nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định ra sao ?
Trả lời:
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là:

-

Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại
hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành
Trung ương, ở mỗi cấp là Ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).

-

Tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức....

-

Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong
cơ sở Đảng tán thành. Trước khi biểu quyết mỗi thành viên đều được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên
có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, được báo cáo lên cấp ủy cấp trên, đến Đại hội toàn quốc,



song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của tổ chức
cơ sơ đảng; cấp ủy có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu ý kiến đó không phân biệt đối xử.
-

Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc pham vi quyền hạn của mình, song không trái với nguyên tắc,
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Để thực hiện tốt nguyên tắc tâp trung dân chủ, cần nhận thức đúng đắn và thống nhất nội dung của
nguyên tắc này; uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đồng thời phải có cơ chế, các quy định, quy chế làm việc
cụ thể, đồng bộ, bảo đảm thực hiện nghiêm minh ở mỗi cấp, ở mỗi tổ chức Đảng.
Phát huy dân chủ sẽ khơi dậy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các tổ chức Đảng và đảng viên. Thực
hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ trong các cơ quan Nhà Nước cũng như toàn
xã hội. Khuyến khích mọi người mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi đóng góp xây dựng nhằm thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này có ý nghĩa to lớn ytong sự phát triển của cách
mạng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Cần chống quan điểm dân chủ cực đoan, dân chủ phi giai cấp. Dân chủ phải gắn liền với tập trung, phát
huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường tập trung và kỷ luật của Đảng. Đây là mối quan hệ biện chứng cần
được nhận thức, xử lý đúng đắn trong thực tiễn. Nếu tuyệt đối hóa mặt này đi đến hạ thấp hoặc phủ nhận
mặt kia đều làm cho Đảng suy yếu, thậm chí tan rã.
Nhận thức đúng nguyên tắc tập trung dân chủ đã khó, việc thực hiện nguyên tắc này càng khó hơn. Điều
đó còn phụ thuộc vào trình độ, ý thức Đảng, kinh ngiệm công tác....của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Vì
vậy trong thực tế ở nơi này, nơi kia, có lúc chưa thực hiện tốt nguyên tắc này. Đó là những thiếu sót cần
được thường xuyên phát hiện, phê phán, uốn nắn. Bởi vì đây cũng chính là kẽ hở mà kẻ thù đang tìm cách
khoét sâu, khai thác, xuyên tạc nhằm hạ thấp đi tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên? Vì sao vấn đề xây dựng động cơ
vào đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành
đảng viên?
Câu 8:


Trả lời:

Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng Viên
1 Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn
2 Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng
3 Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
4 Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội
Xây dựng động cơ vào đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với việc
phấn đấu trở thành đảng viên bởi vì:
Đối với người phấn đấu vào Đảng, cần trả lời câu hỏi: Vào Đảng để làm gì? Vì sao lại vào Đảng?


Có thể có những câu trả lời khác nhau, kể cả hy vọng vào Đảng để đạt được những mong muốn riêng.
Lúc sinh thời, Bác Hồ dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không
phải!...Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của
người đảng viên”. Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đứng
vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo
nhân dân đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng,
địa vị, thu hái lợi lộc.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to lớn của mỗi chúng ta.
Suốt đời Bác Hồ chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước được độc lập, dân được tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được học hành. Trước đây, vì mục đích lớn lao đó mà Đảng ta đã
chấp nhận hy sinh phấn đầu thì ngày nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng ta vẫn như vậy. Bước vào
thế kỷ XXI, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục vững bước tiến lên dưới
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa rất lâu dài, gian khổ. Thực chất đó là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc diễn ra dưới nhiều
hình thức. Mặt trái của kinh tế thị trường, giao lưu mở cửa, hội nhập quốc tế cùng với âm mưu thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang đặt độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước
những thách thức mới. Dù khó khăn, phức tạp thế nào, chúng ta cũng không bao giờ xa rời mục tiêu, lý
tưởng cách mạng của mình. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là quy luật tiến hóa của lịch sử, là yêu cầu khách quan

của dân tộc ta. Động cơ thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự nguyện của
những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước lúc từ biệt chúng ta, Bác Hồ
“chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”
Xây dựng động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những
người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những người
mang động cơ không đúng đắn, đã không thể chuyển thành đảng viên chính thức, buộc phải đưa ra khỏi
Đảng
Để xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn, cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, bằng việc làm
hàng ngày của mình góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, thường xuyên trau
dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân thực dụng, vụ lợi, xa lạ
với bản chất của người chiến sĩ cách mạng
Xây dựng động cơ vào Đảng chính là trong mỗi lời nói, việc làm đều có ý thức chính trị rõ ràng, có lợi
cho dân, cho Đảng. Ở đâu, lúc nào, làm gì cũng vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Thật đáng
quý biết bao, ngay cả khi đất nước đứng trước nhiều khó khăn thử thách, chúng ta vẫn thủy chung với Đảng,
càng thêm quyết tâm phấn đấu trỏ thành Đảng viên để góp phần giữ vững chủ nghĩa xã hội, thành quả lịch
sủ vĩ đại được tạo nên bởi sự hy sinh to lớn của cả dân tộc.
Xây dựng động cơ phấn đấu vào Đảng vì nhìn thấy những hành động sáng suốt của Đảng. Trong thời
điểm hiện nay mặc dù chúng ta đang sống trong hòa bình nhưng những xung đột trong lợi ích về kinh tế, tài
nguyên thiên nhiên luôn đẩy nước chúng ta vào những tình thế hết sực khó khăn. Tuy nhiên Đảng vẫn có
những chính sách hiệu quả để phát triên và bảo vệ đất nước, có thể lấy dẫn chứng bằng bài phát biểu của
trung tướng Nguyễn Chí Vịnh- thứ trưởng Bộ Quốc Phòng:


-

Đất nước ta có vị trí địa chính trị rất nhạy cảm đối với những mối quan hệ và can dự ấy, nên các
nước lớn bao giờ cũng muốn lôi kéo mình về phía họ. Đấy là quy luật, Tuy nhiên, khi đang đứng
trong một khu vực đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra xung đột (và cả thỏa hiệp) lợi ích của nhiều nước
lớn cần nhớ một quy luật: “Đỉnh cao của xung đột là thỏa hiệp. Chúng ta không được để các nước

khác thỏa hiệp trên lưng mình.”

-

Trong quan hệ với các nước, Việt Nam tôn trọng bạn bè quốc tế, mong muốn hợp tác hữu nghị với
tất cả các nước, nhưng không bao giờ quên rằng, việc đất nước mình thì mình phải tự lo. Ngược lại,
khi nghĩ tới lợi ích của đất nước mình thì cũng đừng quên nghĩ tới lợi ích của họ. Họ có lợi ích thì
lúc đó quan hệ của mình với họ mới bền và đáng tin cậy

-

Nhưng tôi muốn nhấn mạnh điều này, có thể khó nghe: sự tôn trọng, đoàn kết, hữu nghị ấy chỉ có và
chỉ thực chất khi Việt Nam mạnh và độc lập tự chủ, Việt Nam đủ khả năng tự bảo vệ mình. Không
bao giờ có đoàn kết thực sự khi bất bình đẳng, khi không tôn trọng nhau, muốn chi phối nhau đẩy
chúng ta bị lệ thuộc. Đây là yếu tố mang tính chất nội tại, quyết định đến việc giải quyết các vấn đề
an ninh của đất nước.

-

Hòa bình của chúng ta không phải là cầu hòa, Việt Nam không chấp nhận hòa bình lệ thuộc. Khi ta
đã làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa bình mà nước khác cứ muốn xâm hại lợi ích của đất
nước ta thì lúc đó, thế của ta sẽ như cánh cung kéo hết, đã buông dây cung thì đó là sức mạnh vô
cùng to lớn của cả dân tộc để bảo vệ Tổ quốc mình.

-

Chủ quyền, độc lập tự chủ trước, hòa bình sau, vì không có độc lập tự chủ, mất chủ quyền lãnh thổ
thì còn gì nữa đâu mà nói hòa bình? Quyền tự quyết của một đất nước là điều quan trọng nhất. Bác
Hồ nói rồi, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, mọi nỗ lực của Bác là có độc lập, tự do cho dân
tộc. Có mối quan hệ giữa chủ quyền và hòa bình, muốn có hòa bình phải có chủ quyền lãnh thổ. Hai

cái đó không thiếu được, tôi có một tư duy nhất quán về chuyện này. Hòa bình vừa là động lực để
bảo vệ, xây dựng Tổ quốc, vừa là mục đích ta phải giữ. Nhưng chủ quyền phải được đặt lên hàng
đầu.

-

Điều tôi lo ngại nhất là một quốc gia bị sự lệ thuộc về chính trị. Bị nước khác chi phối về chính trị
thì sẽ dẫn đến mất chủ quyền, mất độc lập tự chủ, mất chế độ xã hội và dẫn đến mất nước. Sự lệ
thuộc chính trị có thể đến từ nhiều hướng, theo nhiều cách, trên nhiều lĩnh vực, nếu chúng ta không
cảnh giác thì sẽ bị lệ thuộc, mất luôn cả chủ quyền đất nước.
(Trích bài phỏng vấn tướng Nguyễn Chí Vịnh của báo Vnexpress-ngày 10/1/2011)

Thông qua bài phỏng vấn trên chúng ta đã có thể thấy được chiến lược cũng như chính sách của Đảng ta trong
thời kỳ mới “Độc lập nhưng không lệ thuộc”. Từ đó có thể thấy được trong quá khứ hay hiện tại Đảng ta luôn là lá cờ
đầu dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi lên, luôn ứng phó kịp thời với những tình hình mới của thế giới, làm cho nhân dân
ta luôn vững tin vào đường lối chính sách của Đảng.
Vì thế tôi càng tin tưởng và quyết tâm phấn đấu vào Đảng để có cơ hội phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước
Liên hệ bản thân, tự đánh giá về quá trinh phấn đấu đứng trong hàng ngũ của Đảng và mục tiêu trong tương
lai:


1 Điều đầu tiên và quan trọng nhất là tôi luôn cố gắng học tập thật tốt. Năm thứ nhất tôi đã xuất sắc đứng thứ
nhất khoa về kết quả học tập và vẫn đang tiếp tục cố gắng để giữ vững thành tích, được trường trao bằng
khen đối với LHS có thành tích học tập tốt. Tôi xác định rằng học tốt để thể hiện đúng truyền thống hiếu học
của nhân dân ta. Thứ hai, học tốt để khẳng định được với bạn bè quốc tế là người Việt Nam có năng lực, có
trí tuệ, từ đó mới được mọi người tôn trọng và giúp đỡ, nói thật khó nghe nhưng đó là sự thật khi năng lực
không có thì sự tôn trọng là không có, không ai muốn giúp chúng ta cả. Thứ ba là học tập tốt chuyên môn để
sau này phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, làm cho đất nước ta ngày càng giàu đẹp và phát triển.
2 Tích cực nghiên cứu về Đảng, bác Hồ cũng như các vị lãnh đạo khác của Đảng. Mục đích là giúp tôi hiểu rõ
hơn về các đường lối chính sách của Đảng, để một khi đã được vào Đảng thì không bị bỡ ngỡ trước những

đường lối, chính sách, nhanh chóng hòa nhập và hoạt động một cách có hiệu quả. Ngoài ra tôi cũng nghiên
cứu về quá trình hoạt động của bác Hồ cũng như các vị lãnh đạo khác của Đảng giúp tôi có được sự tự hào
dân tộc, tự hào được dẫn dắt bởi những con người vĩ đại để từ đó đúc rút kinh nghiệm bản thân phấn đấu và
học tập noi gương theo những tấm gương đó.
3 Tích cực tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng cho mọi người, giới thiệu Việt Nam tới bạn bè
quốc tế. Tháng 10/2010 tôi cũng đã tham gia vào một tối văn hóa giới thiệu các dân tộc do hội trường tổ
chức để giới thiệu với bạn bè Trung Quốc những hình ảnh về Việt Nam. Mục tiêu trong tương lai của tôi là
tiếp tục tuyên truyền thông qua việc giao tiếp với bạn bè quốc tế, Internet để thể hiện rõ Việt Nam là một
quốc gia thống nhất, độc lập, dân chủ, là một dân tộc yêu hòa bình, mến khách và luôn đấu tranh cho lẽ phải.
Thể hiện rõ Việt Nam không chỉ là một anh hùng trong đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc mà còn là một quốc gia có
trình độ, có khả năng tự chủ công nghệ cao để phát triển trong thời đại mới.
4 Tôi cũng cố gắng quan hệ tốt với mọi người, tích cực giúp đỡ người khác, nhiệt tình tham gia các phong trào
hoạt động của trường, lớp cũng như trong hội lưu học sinh, tích cực học hỏi và trau dồi kiến thức cho bản
thân, có khả năng phê và tự phê.
5 Tôi cũng tích cực hoạt động thể dục thể thao như tham gia vào hội diễn văn nghệ LHS năm 2010, bóng đá
và bóng chuyền năm 2011. Mục đích là vừa để nâng cao sức khỏe bản thân vừa sẵn sàng một khi Tổ Quốc
gọi, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ và giữ gìn độc lập Tổ Quốc dù cho kẻ thù có là ai.
6 Tôi cũng luôn cố gắng duy trì đường lối chính trị kiên định, nhất quán, không nghe theo những lời kích động
gây hại tới Đảng và Nhân dân. đặc biệt trong thời đại thông tin bùng nổ như hiện nay việc tiếp xúc với các
thông tin đa chiều, các thông tin không tốt đối vơi Đảng là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên tôi luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của chính phủ và luôn quyết tâm thực hiện đúng những sự lãnh đạo đó.
1

Câu 5:

Tại sao hiện nay chúng ta phải học tập và rèn luyện đạo đức CM theo tư tưởng HCM?

Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và đổi mới đất nước
theo hướng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc học tập rèn luyện tư tưởng đạo đức
cách mạng, lối sống và làm theo tấm gương đạo đức của Người là một việc làm hết sức quan trọng.

Bởi vì tư tưởng đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là một nền tảng tinh thần xã hội, là động lực
vượt qua khó khăn thách thức để tiến lên. Do đó học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người
là một biện pháp quan trọng hàng đầu để mỗi cán bộ Đảng viên và Tổ chức cơ sở Đảng khắc phục
sửa chữa tình trạng suy thoái có “tính chất nghiêm trọng” về đạo đức và lối sống, suy thoái về tư


tưởng chính trị, giữ vững niềm tin trong nhân dân về lãnh đạo Đảng.
Con người toàn diện là con người phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tri thức và
năng lực nghề nghiệp chuyên sâu và thể chất lành mạnh. Đó là con người đủ đức và tài để lập thân,
lập nghiệp, để phục vụ Tổ quốc và nhân dân. Tùy vào hoàn cảnh và diều kiện học tập công tác cá
nhân để xác định và xây dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện. Học tập và rèn luyện tư tưởng Hồ Chí
Minh là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.
Thực trạng đạo đức sinh viên hiện nay nổi cộm nhiều vấn đề đáng lo ngại: Một bộ phận chạy theo lối
sống cá nhân thực dụng, đua đòi, sa vào tệ nạn xã hội, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống từ bên ngoài...
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, việc giáo dục đạo đức cho sinh viên cần đổi mới và toàn diện.
Điều quan trọng nhất là cần xác định một số nguyên tắc chủ yếu, làm cơ sở đề xuất các biện pháp
giáo dục đạo đức cụ thể. Nói khái quát, đó là những nguyên tắc của đạo đức cách mạng dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có bốn nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng: Rèn luyện đạo đức là
công việc phải tiến hành lâu dài, bền bỉ suốt đời; giáo dục đạo đức bằng nêu gương sáng; xây dựng
đạo đức cách mạng, đồng thời đấu tranh chống lại những hiện tượng phi đạo đức; khắc phục những
biểu hiện của tư tưởng, đạo đức cũ không còn phù hợp và xây dựng tư tưởng đạo đức cách mạng
trong cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Chúng ta cần phải có giáo dục đạo đức công dân để mọi người
hiểu rõ: Lợi ích chung của nước nhà và lợi ích riêng của người dân là nhất trí". Người viết về nguyên
tắc kế thừa và đổi mới khi xây dựng một nền đạo đức mới: "Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng
bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà tốt, thì phải
phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm". Người nói về tác dụng của việc nêu gương
sáng đạo đức: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền".

“Người cách mạng chúng ta nếu không tu dưỡng thì cũng có phen có cái đuôi ấy, dù nhỏ sẽ có ngày
gây hậu quả khôn lường”…
Bác nhắc nhở mọi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng, rèn luyện. Nếu không chịu khó học
tập, rèn luyện, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, thì có ngày ""cái đuôi dốt nát"" sẽ lòi ra;
vì không ai trên đời này chỉ cần học một lần là xong xuôi hết cả. Mặt khác, nếu không chịu khó tu
dưỡng đạo đức, thì ""cái đuôi cá nhân chủ nghĩa"" cũng sẽ được mọc dần lên, vì trong mỗi người đều
tồn tại cả cái tốt và cái xấu.
Học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấm nhuần những nguyên tắc xây
dựng đạo đức mới mà Người nêu lên và đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình; giáo dục, động viên,
cán bộ, đảng viên và nhân dân cùng thực hiện. Đó là: Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo
đức; Xây đi đôi với chống; Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong"". Thực vậy, cái ác, cái xấu là kẻ thù của đạo đức, nhưng nó thường ẩn
giấu bên trong con người, thậm chí đội lốt ngay trong cái vỏ đạo đức. Hơn nữa, nó là ""giặc nội


xâm"", là kẻ thù bên trong nên vừa nguy hiểm, vừa khó phát hiện. Phương thuốc đặc hiệu nhất để
phòng và chống kẻ thù vô hình này là phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức. Bởi vậy, mỗi người
chúng ta phải tự ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong suốt cuộc đời; coi tu dưỡng đạo đức là một
việc làm như rửa mặt hằng ngày.
Trong cuộc sống hôm nay, đã có nhiều bài học về sự mất mát do thiếu tu dưỡng đạo đức. Có những
cán bộ, đảng viên, trong gian khổ, tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ hy sinh, cực khổ,
quyết chiến đấu đến cùng, nghĩa là có công với cách mạng. Nhưng khi có ít quyền hạn trong tay thì
kiêu ngạo, xa xỉ, tham ô, lãng phí, quan liêu, tự biến mình thành những ""ông quan cách mạng"".
Những người này thậm chí đã kiên trì phấn đấu gần hết cuộc đời, có nhiều công lao, nhưng cuối đời
đã không giữ được tấm lòng trong sáng, nên sự nghiệp đã đổ vỡ, thậm chí đã phải vào vòng lao lí.
Đó chính là những người đã không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức; sớm bằng lòng, tự
mãn với bản thân và dần dần biến chất. Họ bị chính kẻ thù bên trong quật ngã./."
2. Tư tưởng HCM về sức mạnh của toàn dân và khối đại đoàn kết dân tộc.

Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết có tầm đặc biệt quan trọng. Người cho rằng đoàn kết rộng rãi lực lượng toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh vô địch và vô tận. Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, được Người nêu thành
chân lý, được thử thách và khẳng định trong cách mạng VN trước nhiều khó khan phức tạp tưởng như không vượt
qua được.
Người nói rất nhiều đến đoàn kết, không thể đếm hết có bao nhiêu lần Người nói đến đoàn kết.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người bao gồm:
a. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công.

- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc được xem là vấn đề sống còn của cách mạng Việt Nam,
là tư tưởng chiến lược xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có
thể tập hợp được, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn
dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số
luận điểm có tính chân lý như:
+ Đoàn kết làm ra sức mạnh; "Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công".
+ Đoàn kết là điểm mẹ. "Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt...".
b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng là đại đoàn kết
dân tộc. Trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam vào tháng 3 năm 1951, Người đã thay mặt Đảng tuyên
bố trước đồng bào rằng: "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: Đoàn kết
toàn dân, phụng sự Tổ Quốc".
Mục tiêu tổng quát của toàn bộ cách mạng Việt Nam theo Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Để thực hiện mục tiêu đó, Người đã đề ra nhiều mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể
phải giải quyết trong từng thời kỳ, giai đoạn. Nhưng muốn thực hiện tất cả các mục tiêu đó thì phải phát huy
được lực lượng của toàn dân, nghĩa là phải xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng phải là xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vào điều kiện cụ


thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.

- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi đại đoàn kết dân tộc chỉ có được khi nó là đòi hỏi khách
quan của bản thân quần chúng. Chỉ khi quần chúng nhân dân nhận thức được, muốn hoàn thành sự nghiệp
cách mạng của mình, do mình và vì mình, trước hết mình phải đoàn kết lại, phải đồng tâm nhất trí thì khối
đại đoàn kết dân tộc mới trở thành hiện thực.
c. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân dùng để chỉ "mọi con dân nước Việt", mỗi một người "con
rồng cháu tiên", không phân biệt "già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện". Đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là
phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
- Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, Người đã đưa ra những yêu cầu mang tính nguyên tắc sau:
+ Phải kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc, phải có tầm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Hồ ChíMinh cho rằng ngay cả đối với những người lầm đường, lạc lối nhưng đã biết
hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ.
+ Phải xác định mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là nền độc lập, thống
nhất của Tổ quốc, là cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
+ Phải xác định nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên minh công nông và lao động trí óc. Nền tảng
càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng.
d. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về
mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối
chính trị đúng đắn. Nếu không có tổ chức, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu người cũng chỉ
là một số đông không có sức mạnh.
- Để xây dựng trên thực tế tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương đưa quần chúng
nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng đối tượng quần chúng và từng bước phát triển của cách
mạng, đồng thời Người chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp tất cả các tổ chức và cá
nhân yêu nước phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng chung.
e. Đảng Cộng sản vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân đông đảo. Đảng lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã

hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Muốn cách mạng thành công phải phát động được đông đảo quần chúng tham gia. Đảng lãnh đạo cách mạng
chứ không thay dân làm cách mạng. Đảng đứng trong nhân dân, trong giai cấp công nhân, trong Mặt trận để


lãnh đạo, không thể đứng ngoài và tuyệt đối không đứng trên để lãnh đạo. Sức mạnh vĩ đại của Đảng là ở sự
gắn bó máu thịt với nhân dân.
f. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Ngay từ khi con đường cứu nước vừa sáng tỏ, Hồ Chí Minh đã xác định con đường cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi
có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Về sau,trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả
Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn: Đó là vấn đề
cách mạng trong nước phải gắn với phong trào và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụ thể hơn là
với nhân dân Pháp, Mỹ, nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, với phong
trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã định hướng cho việc hình thành 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết ViệtMiên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí minh về
đại đoàn kết.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở và phải đi đến việc thực hiện đoàn kết quốc tế,
nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cáchmạng Việt Nam, thì
đoàn kết quốc tế cũng là yếu tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến
thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lêngiai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Câu 6: Câu 4: Phân tích nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM trong giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách
giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loạ
Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam.


Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường
đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

1. Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa
kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém

Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ qu
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết già
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đ

- Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việ
cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân ch
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự

- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức:
hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được thói
của
nhân
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây
kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu

- Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan
mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đ


×