Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận quyền thừa kế trong luật dân sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.1 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................5
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN THỪA KẾ.....................................................................................5
1.1. Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật về quyền thừa kế ở Việt Nam. 5
1.2. Vai trị và tiêu chí hồn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam............8
Chương 2 .THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN THỪA KẾ TRONG LUẬT
DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................10
2.1. Những nội dung cơ bản của quyền thừa kế trong Luật Dân sự ở Việt
Nam hiện nay..............................................................................................10
2.2. Ưu điểm của pháp luật về quyền thừa kế trong Luật Dân sự ở Việt
Nam hiện nay..............................................................................................17
2.3. Hạn chế của pháp luật về quyền thừa kế trong Luật Dân sự ở Việt Nam
hiện nay và nguyên nhân.............................................................................18
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
THỪA KẾ TRONG LUẬT DÂN SỰ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI..................................................................................................24
3.1. Cần rà soát, hệ thống hố thường xun và có chất lượng các nhóm
quy phạm pháp luật về quyền thừa kế trong Luật Dân sự...........................24
3.2. Kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn về thừa kế.........................25
3.3. Sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp của pháp luật về quyền
thừa kế trong Luật Dân sự...........................................................................25
3.4. Tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội.......................................26
KẾT LUẬN................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................29


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những chế định pháp luật quan trọng trong lĩnh vực dân sự


chính là chế định thừa kế. Chế định thừa kế ra đời như một tất yếu của lịch
sử. Sự sống của con người không thể kéo dài mãi mãi và con người khi
chết đi chắc chắn sẽ không kéo theo của cải đi cùng. Do vậy, những tài sản
mà khi còn sống người đó nắm giữ được chuyển sang cho những người còn
sống để tiếp tục phát huy giá trị kinh tế, phục vụ xã hội lồi người nói
chung là một điều không thể thiếu. Từ đây, vấn đề thừa kế đã trở thành một
nhu cầu thiết yếu đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã
hội.
Ở các nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, thừa kế
được coi là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến
pháp. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, ở nước ta, pháp luật thành văn về thừa
kế lần dầu được ghi nhận trong chương “Điền sản” của Bộ luật Hồng Đức
dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua nhiều năm đấu tranh cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, pháp luật về quyền thừa kế đã kế thừa và phát triển
những quy định phù hợp với thực tiễn, khơng ngừng hồn thiện để bảo vệ
quyền lợi của người thừa kế một cách tối ưu nhất.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập, với nền kinh tế thị trường phát
triển cùng thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản,
thừa kế di sản ngày càng phong phú và đồng thời khá phức tạp về quy mơ,
tính chất, làm nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp, nhiều trường hợp
dẫn đến mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực tới đạo đức, phong
tục, truyền thống dân tộc. Sở dĩ cịn tồn tại những hạn chế đó là do các quy
định về thừa kế còn chưa được đồng bộ, rõ ràng. Từ những lý do trên, em
quyết định chọn đề tài: “Quyền thừa kế trong Luật Dân sự ở Việt Nam
hiện nay”. Tuy nhiên, với những giới hạn về kiến thức và thời gian, trong

1


q trình tìm hiểu sẽ khơng tránh. Khỏi những thiếu sót. Mong thầy/cơ sẽ

tận tình góp ý để em hồn thiện kiến thức của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về quyền thừa kế là một vấn đề rộng và phong phú, có lịch sử
hình thành và phát triển đã lâu nên được nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước quan tâm.
Luận án Tiến sĩ của Phạm Ánh Tuyết, “Thừa kế theo di chúc theo
quy định BLDS Việt Nam”, 2003.
Luận án Tiến sĩ của Phùng Trung Tập, “Thừa kế theo pháp luật của
công dân Việt Nam”, 2001.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Hải An,”Một số vấn đề về thời hiệu
khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam, 2004.
Tuy nhiên, vấn đề pháp luật về quyền thừa kế trong Luật Dân sự ở
giai đoạn hiện nay chưa được nghiên cứu sâu và cụ thể. Do đó, việc nghiên
cứu đề tài trên là cần thiết, hy vọng góp phần đưa ra kiến nghị để hồn
thiện pháp luật về quyền thừa kế trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích một số vấn đề lý luận của quyền thừa kế, hình thức thừa kế
trong Luật Dân sự hiện hành và đánh giá thực trạng pháp luật về quyền thừa
kế ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về quyền thừa kế ở nước ta trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ
sau: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền thừa kế như là khái niệm,
nguyên tắc, vai trò và tiêu chí hồn thiện pháp luật về quyền thừa kế.
Phân tích thực trạng pháp luật về quyền thừa kế trong Luật Dân sự
hiện hành. Từ đó, đánh giá những ưu, nhược điểm của pháp luật về quyền
thừa kế hiện nay cùng với nguyên nhân của các hạn chế đó.
2



Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao pháp luật về
quyền thừa kế ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về quyền thừa kế theo
Bộ Luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu
các quy định của Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015 về quyền thừa kế và hình thức thừa kế.
Phạm vi về khơng gian: Đề tài nghiên cứu pháp luật về quyền thừa
kế ở trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Phạm vi về thời gian: Bài tiểu luận nghiên cứu các vấn đề lý luận,
thực tiễn pháp lý liên quan đến pháp luật về quyền thừa kế, quy định trong
Luật Dân sự năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp
luật. Cụ thể là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền thừa kế
trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tíchtổng hợp, thu thập và xử lý thơng tin.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài bổ sung và góp phần hồn thiện thêm lý luận về pháp luật về
quyền thừa kế, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền để lại di sản và quyền
được hưởng di sản thừa kế của mỗi công dân.
6.2. Ý nghĩa thực tế
Tiểu luận là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị khoa học nhất
3



định cho các chuyên gia giảng dạy về pháp luật. Ngồi ra, tiểu luận có thể
trở thành tài liệu tham khảo có giá trị cho các bạn sinh viên có nhu cầu tìm
hiểu về quyền thừa kế theo như pháp luật quy định; cung cấp những góc
nhìn, cách tiếp cận khác nhau về quyền thừa kế cho bạn đọc.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục
lục, bài tiểu luận được chia thành 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận của pháp luật về quyền thừa kế
Chương 2: Thực trạng về quyền thừa kế trong Luật Dân sự ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền thừa kế trong
Luật Dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới

4


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN THỪA KẾ

1.1. Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật về quyền
thừa kế ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm pháp luật về quyền thừa kế ở Việt Nam
Theo nghĩa chung nhất, thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người
chết cho người còn sống. Với ý nghĩa là phạm trù kinh tế, thừa kế có mầm
mống ngay từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ. Ở thời kỳ này việc thừa kế dựa
trên cơ sở huyết thống và bị ràng buộc bởi phong tục tập quán riêng của

từng bộ lạc, thị tộc. Tại thời điểm này, thừa kế được phát sinh dựa trên
quan hệ huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Bởi vì xã hội này con
người sống quần hôn cho nên không thể xác định được cha của đứa trẻ là ai
và con sinh ra hoàn toàn phụ thuộc vào người mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, năng suất lao động ngày càng được nâng cao, xuất hiện sự
dư thừa sản phẩm. Từ đó chế độ tư hữu xuất hiện, chế độ cộng sản nguyên
thuỷ dần bị phá vỡ và nhường chỗ cho một chế độ xã hội mà trong đó có sự
phân hố giai cấp. Khi xã hội phân chia giai cấp quan hệ thừa kế trở thành
một phạm trù pháp lý mang nội dung giai cấp. Với ý nghĩa là quan hệ pháp
luật dân sự, các chủ thể của quan hệ thừa kế có những quyền và nghĩa vụ
do pháp luật quy định. Người có tài sản có quyền để lại tài sản của mình
cho người khác sau khi chết. Người thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối
nhận di sản.
Theo cuốn từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
thì: “Quyền thừa kế là quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi
chết, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
5


Thừa kế cịn được xem xét dưới góc độ là một chế định pháp luật
dân sự, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài
sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc pháp luật; quy định
phạm vi quyền và nghĩa vụ, phương thức bảo vệ quyền của người thừa kế.
Quyền thừa kế và quyền sở hữu có quan hệ mật thiết với nhau.
Quyền sở hữu là tiền đề của quyền thừa kế vì đối tượng của quyền thừa kế
là những tài sản và quyền tài sản thuộc sở hữu cá nhân. Cá nhân có quyền
để lại thừa kế những tài sản và quyền tài sản của mình cho người khác (trừ
các quyền tài sản không được phép chuyển dịch), Nhà nước không hạn chế
quyền để lại thừa kế và nhận di sản thừa kế của cá nhân (trừ trường hợp

pháp luật quy định khác).
Như vậy, pháp luật về quyền thừa kế là tổng thể các quy phạm pháp
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho cá nhân, tổ
chức theo di chúc hoặc theo pháp luật, cũng như quy định phạm vi quyền,
nghĩa vụ, phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
được thực hiện theo những trình tự thủ tục nhất định.
1.1.2. Các nguyên tắc chung của pháp luật về quyền thừa kế ở Việt
Nam:
Quyền thừa kế là một trong những quyền dân sự cơ bản của công
dân được pháp luật ghi nhận. Chính vì vậy, pháp luật về thừa kế ở nước ta
hiện nay được coi là phương tiện để củng cố sở hữu của công dân, củng cố
quan hệ hơn nhân và gia đình. Để bảo đảm cho quyền thừa kế thực sự là
phương tiện để củng cố quyền sở hữu của công dân, củng cố quan hệ hôn
nhân và gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên
trong gia đình, quá trình xây dựng và thực thi pháp luật về thừa kế cần phải
tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, quyền thừa kế tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ.
Tại Hiến pháp, văn bản pháp luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp
6


luật của Việt Nam và trong Bộ Luật Dân sự đã xác định rõ nội dung của
quyền này. Trước hết bảo đảm cho mọi mọi cá nhân đều có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình, đều có quyền để lại tài sản của mình
cho người thừa kế theo pháp luật; thậm chí là quyền từ chối di sản thừa kế.
Mặt khác nhà nước còn bảo hộ quyền thừa kế, thể hiện trong việc đảm bảo
cho mọi cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất. Do vậy tất cả mọi tài sản thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trở thành di sản thừa kế khi người

đó chết, được nhà nước tôn trọng và pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền thừa kế. Nguyên tắc
này là sự cụ thể hoá của Điều 16 trong Hiến pháp 2013 “ Mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố, xã hội.” và trong Điều 3 của Bộ Luật
Dân sự “ Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, khơng được lấy bất kỳ lý
do nào để phân biệt đối xư; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền
nhân thân và tài sản”. Chính bởi vậy nên trong quan hệ vợ chồng, nếu một
bên chết trước thì tài sản chung của vợ chồng “chia đôi”. Ngay cả đối với
các con, nhà nước ta không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, các
con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình, đều có quyền thừa kế
tài snar của cha mẹ, được hưởng thừa kế bằng nhau, nếu di sản thừa kế
được chia theo pháp luật. Điều này khơng chỉ phản ánh chế độ chính trị nói
chung mà điều quan trọng là nhằm đảm bảo sự bình đẳng của mọi cơng dân
trong lĩnh vực thừa kế, tạo được sự đoàn kết tốt giữa các thành viên trong
gia đình và xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
Thứ ba, tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có tài sản.
Nội dung của ngun tắc tơn trọng quyền định đoạt được ghi nhận khá đầy
đủ trong Bộ Luật Dân sự 2015. Đối với cá nhân người để lại tài sản với tư
cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có
quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi
7


chết. Pháp luật khơng cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe
doạ,… người lập di chúc. Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã
ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với quyền về thừa kế, mặt khác nó
cịn thể hiện một cách đầy đủ nhất các quyền dân sự chủ quan của mỗi cá
nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản của mình.
Thứ tư, củng cố tình đồn kết, yêu thương trong nội bộ gia đình.

Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải đảm bảo giữ gìn bản
sắc dân tộc, tơn trọng và phát huy phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp,
tinh thàn đoàn kết tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng và vì các
giá trị đạo đức tốt đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt
Nam.

1.2. Vai trò và tiêu chí hồn thiện pháp luật về thừa kế ở
Việt Nam
1.2.1. Vai trò của pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật về quyền con người đã thể chế hố đường lối của
Đảng và chính sách của Nhà nước về quyền cơ bản của con người trong
lĩnh vực dân sự. Theo tinh thần “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo
đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ công dân”, pháp luật về quyền
thừa kế ở nước ta trong những năm qua đã và đang đóng vai trị làm cơng
cụ thể chế hố chủ trương, đường lối của Đảng trong việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự.
Thứ hai, pháp luật về quyền thừa kế đóng vai trị quan trọng trong
việc củng cố và bảo vệ quyền sở hữu. Quyền thừa kế trong Bộ Luật Dân sự
ở nước ta, trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thành
quả lao động của bản thân được tôn trọng. Mặt khác với tư cách là hệ luỵ
của quyền sở hữu, quyền thừa kế trong Bộ Luật Dân sự còn là phương tiện
để bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của
mình. Đặc biệt là ghi nhận và tôn trọng quyền định đoạt tài sản của người

8


lập di chúc chính là việc pháp luật tơn trọng quyền định đoạt của chủ sở
hữu đối với tài sản của họ.
1.2.2. Tiêu chí hồn thiện pháp luật về quyền thừa kế ở Việt Nam

Thứ nhất, tính đồng bộ, thống nhất. Đây là tiêu chí đánh giá mức độ
hồn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật. Tính đồng bộ, thống nhất
được xem xét ở giữa các bộ phận, quy phạm pháp luật có trùng lắp, chồng
chéo hay mâu thuẫn với nhau hay không. Cụ thể là sự đồng bộ giữa Hiến
pháp và các đạo luật và giữa các đạo luật với nhau. Tiếp đến là thể hiện sư
thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lắp, chồng chéo trong mỗi
ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật nói
chung và trong bản thân nó nói riêng.
Thứ hai, tính tồn diện về nội dung. Pháp luật về quyền thừa kế phải
điều chỉnh đầy đủ các trường hợp thừa kế với các loại di sản như là động
sản, bất động sản, các quyền về tài sản của nhiều loại chủ thể. Tính tồn
diện khơng chỉ ở nội dung mà cịn phải cả ở hình thức Có như vậy, quyền
thừa kế của mọi cá nhân trong xã hội mới được đảm bảo, góp phần củng cố
cho mối quan hệ trong gia đình và di sản thừa kế được truyền lại cho những
người thừa kế một cách hợp lí và đúng nghĩa nhất.
Thứ ba, tiêu chuẩn về trình độ kỹ thuật pháp lý. Pháp luật về quyền
thừa kế sẽ được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Kỹ thuật pháp lý
là một vấn đề rộng lớn, cụ thể cần chú ý tới những nguyên tắc tối ưu, được
vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hồn thiện pháp luật. Trình
độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật
và cách biểu đạt ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính lơgic và chính xác.

9


Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN THỪA KẾ TRONG LUẬT DÂN SỰ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Những nội dung cơ bản của quyền thừa kế trong

Luật Dân sự ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Nhóm quy phạm pháp luật quy định những vấn đề chung về
thừa kế
Nhóm này bao gồm 15 điều, từ Điều 609 đến Điều 623 của Bộ Luật Dân
sự 2015, chứa đựng những nội dung cơ bản về quy định chung của thừa kế. Cụ
thể là:
Về người để lại di sản thừa kế: Người để lại di sản thừa kế là những cá
nhân sau khi chết có tài sản để lại cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp
luật. Tại Điều 610 Bộ Luật Dân sự quy định rằng mọi cá nhân đều có quyền
để lại tài sản của mình cho người khác, có thể lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình, có quyền để lại thừa kế tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật.
Về người thừa kế: Tại Điều 613 Bộ Luật Dân sự quy định, người
thừa kế là người được hưởng di sản của người chết theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Người thừa kế theo di chúc là cá nhân hoặc tổ chức. Người thừa
kế theo pháp luật là cá nhân phải có quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người để lại thừa kế. Người thừa kế là cá
nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau
thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Người thừa kế là tổ chức, cơ quan thì phải cịn tồn tại ở thời điểm mở
thừa kế. Người thừa kế có quyền hưởng di sản và phải thực hiện các nghĩa
vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản thừa kế, các quyền và
nghĩa vụ này phát sinh từ thời điểm mở thừa kế.

10


Tại Điều 620 Bộ Luật Dân sự cũng đã quy định rõ rằng người thừa
kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ
chối nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

Về thời điểm mở thừa kế: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết hoặc ngày do Toà án xác định đối với người bị
tuyên bố chết” ( Khoản 1 Điều 611 Bộ Luật Dân sự ). Việc xác định thời
điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng vì từ thời điểm đó sẽ xác định
được những tài sản là di sản thừa kế, tránh được tình trạng tài sản của
người chết bị phân tán hoặc bị chiếm đoạt. Thời điểm mở thừa kế còn là
căn cứ xác định một cách đầy đủ và chính xác những người thừa kế của
người đã chết.
Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà
chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không xác
định được ai chết trước, thì họ khơng được hưởng di sản của nhau mà di
sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng.
Về địa điểm mở thừa kế: “Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối
cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng
thì địa điểm mở thừa kế là nơi có tồn bộ hoặc phần lớn di sản” ( Khoản 2
Điều 611 Bộ Luật Dân sự ).
Việc quy định địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người
có di sản xuất phát từ thực tế là một cá nhân trước khi chết có thể cư trú ở
nhiều nơi khác nhau và thông thường nơi cư trú cuối cùng của người để lại
thừa kế là nơi có tồn bộ hoặc phần lớn tài sản của người đó. Quy định này
tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm kê, quản lý di sản thừa kế, đồng thời
giúp các bên đương sự khởi kiện đúng Toà án có thẩm quyền giải quyết khi
có tranh chấp xảy ra.
Về di sản thừa kế: Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở
hữu của người chết và các quyền tài sản của người đó. Bộ luật Dân sự xác

11


định di sản thừa kế gồm: tài sản riêng của người chết; phần tài sản của

người chết trong khối tài sản chung với người khác và quyền sử dụng đất.
Những người không được hưởng di sản thừa kế: Bộ luật Dân sự quy
định những trường hợp không được hưởng di sản thừa kế gồm:
Một là, người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
Hai là, người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại
di sản.
Ba là, người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người
thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ phần di sản mà người
thừa kế đó có quyền hưởng.
Bốn là, người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để
lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di
chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để
lại di sản.
Tuy nhiên những người này vẫn có thể được hưởng di sản nếu người
để lại di sản biết hành vi của người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo
di chúc.
Về thời hiệu thừa kế: Tại Điều 623 Bộ Luật Dân sự hiện hành đã nêu
rõ: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời
hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Thời hiệu
để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời
hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
2.1.2. Nhóm quy phạm pháp luật quy định các hình thức thừa kế
2.1.2.1. Nhóm quy phạm pháp luật quy định về thừa kế theo di chúc
12



Nhóm này bao gồm 25 điều, từ Điều 624 đến Điều 648 Bộ Luật Dân sự
2015).
Điều 624 Bộ Luật Dân sự 2015 định nghĩa di chúc như sau: “Di chúc
là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết.” Và thừa kế theo di chúc là việc di chuyển tài sản của
người đã chết cho người khác còn sống theo sự định đoạt của người đó
trước khi chết. Người lập di chúc là cá nhân có các quyền do Luật dân sự
quy định.
Về nguyên tắc, quyền định đoạt bằng di chúc của cá nhân được tôn
trọng, người lập di chúc có quyền truất quyền hưởng di sản của những
người thuộc diện thừa kế. Nhưng xuất phát từ đạo lý truyền thống, phong
tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc và để bảo vệ quyền lợi của một số người
thuộc diện này, Bộ luật Dân sự nước ta đã hạn chế quyền tự định đoạt bằng
di chúc của người có di sản. Những người được hưởng di sản không phụ
thuộc vào nội dung di chúc gồm cha mẹ, vợ chồng; con chưa thành niên,
con đã thành niên khơng có khả năng lao động. Những người này được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp
luật nếu như di sản được chia theo pháp luật (trừ trường hợp họ từ chối
hưởng di sản hoặc không được hưởng di sản theo quy định của pháp luật).
Hiệu lực của di chúc:
Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc
khơng có hiệu lực pháp luật một phần hoặc toàn bộ trong trường hợp người
thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc hoặc tổ chức được thừa kế khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan,
tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không cịn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ
quan, tổ chức này khơng có hiệu lực.

13


Điều kiện để di chúc hợp pháp:
Thứ nhất, người lập di chúc phải có đủ năng lực hành vi dân sự.
Người từ đủ 18 tuổi trở lên không bị tâm thần hoặc các bệnh làm mất
khả năng nhận thức thì có quyền tự mình lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình. Ngồi ra, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 không bị tâm thần
hoặc các bệnh làm mất khả năng nhận thức có thể lập di chúc nếu được cha
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Thứ hai, người lập di chúc tự nguyện, minh mẫn, không bị lừa dối,
đe doạ, cưỡng ép. Sự tự nguyện của người lập di chúc là sự thống nhất giữa
ý chí và sự bày tỏ ý chí của họ. Đó chính là sự thống nhất giữa mong muốn
chủ quan của người lập di chúc và sự thể hiện ra bên ngoài các mong muốn
đó. Mọi sự lừa dối, cưỡng ép hoặc đe doạ người lập di chúc sẽ làm cho di
chúc trở nên vơ hiệu vì thiếu sự tự nguyện. Mặt khác, trong lúc lập di chúc
nếu người lập di chúc khơng minh mẫn, sáng suốt thì di chúc cũng khơng
có hiệu lực pháp lý.
Thứ ba, nội dung của di chúc không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Nội dung di chúc là tồn bộ ý chí của cá nhân về việc định đoạt tài sản của
mình. Ý chí đó phải phù hợp với pháp luật nói chung và Luật Dân sự nói
riêng. Mọi sự định đoạt trái với nội dung và tinh thần của Bộ luật Dân sự
đều có thể làm cho di chúc vơ hiệu.
Thứ tư, hình thức của di chúc phù hợp với pháp luật. Di chúc phải
được lập dưới một hình thức nhất định. Pháp luật quy định hai loại di chúc
là di chúc miệng và di chúc bằng văn bản. Di chúc miệng là sự bày tỏ bằng
lời nói ý chí của người để lại di sản lúc còn sống về việc định đoạt tài sản
của mình cho người khác sau khi mình chết.
Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp khi người lập di chúc ở
trong tình trạng tính mạng bị đe dọa mà khơng thể lập di chúc bằng văn bản

thì có thể di chúc miệng nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng và ngay
sau đó những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm
14


chỉ vào văn bản. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được cơng chứng viên hoặc
cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của
người làm chứng.
Di chúc bằng văn bản (chúc thư), là loại di chúc viết, đánh máy, ghi
nhận ý chí của cá nhân về việc định đoạt tài sản của họ sau khi chết. Bộ
luật Dân sự quy định các loại di chúc bằng văn bản gồm: Di chúc bằng
văn bản khơng có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm
chứng, di chúc bằng văn bản có cơng chứng, di chúc bằng văn bản có
chứng thực.
2.1.2.2. Nhóm quy phạm pháp luật quy định về thừa kế theo pháp
luật
Nhóm này bao gồm 7 điều, từ Điều 649 đến Điều 655 chứa các nội
dung như sau:
Thừa kế theo pháp luật là việc di chuyển tài sản của người chết cho
những người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Bộ luật Dân sự quy định cá nhân có quyền để lại tài sản của mình
cho người thừa kế theo luật. Việc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
phải tuân theo các nguyên tắc chung về thừa kế, đồng thời phải tuân thủ các
quy định về diện thừa kế, hàng thừa kế...
Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
Một là, khơng có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp.
Hai là, người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di
chúc khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế.

Ba là, người được chỉ định thừa kế theo di chúc từ chối hưởng di sản
hoặc khơng có quyền hưởng di sản.
Bốn là, có một phần di sản chưa được định đoạt trong di chúc hoặc
liên quan đến phần di chúc khơng hợp pháp hoặc phần di sản có liên quan
15


đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng có quyền hưởng di
sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc,
nhưng khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Hàng thừa kế theo pháp luật:
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau
đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Theo quy định của pháp luật thì người thừa kế cùng một hàng được
hưởng phần di sản bằng nhau. Những người thừa kế hàng sau chỉ được
hưởng di sản khi khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết trước,
khơng có quyền hưởng di sản hoặc từ chối hưởng di sản.
Thừa kế thế vị
Theo nguyên tắc chung, người thừa kế phải còn sống vào thời điểm
mở thừa kế nhưng pháp luật về thừa kế nước ta còn quy định rằng trường

hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Thừa kế trong trường hợp đó
gọi là thừa kế thế vị.
16


2.2. Ưu điểm của pháp luật về quyền thừa kế trong Luật
Dân sự ở Việt Nam hiện nay
Cùng với sự phát triển của pháp luật về dân sự nói chung, các quy
định về thừa kế cũng đã có những tiến bộ, phát triển thể hiện qua các khía
cạnh sau:
Thứ nhất, quyền thừa kế trong Luật Dân sự hiện hành đã quán triệt
và cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng; chính sách của Nhà
nước về xây dựng và hồn thiện pháp luật trong bối cảnh mới hiện nay.
Nhóm các quy phạm pháp luật về quyền thừa kế đã thể chế hoá quyền cơ
bản của con người trong lĩnh vực dân sự và bảo đảm việc thực hiện các
quyền này trong thực tế.
Thứ hai, pháp luật về quyền thừa kế hiện hành đã xây dựng cơ sở pháp
lý vững chắc để thực hiện và bảo vệ quyền thừa kế công dân. Với mọi cá nhân
trước khi chết cũng đều có mối quan tâm hàng đầu là di sản của họ sẽ được
pháp luật bảo hộ như thế nào. Để giải quyết những khúc mắc của họ, pháp
luật về quyền thừa kế được quy định trong Luật Dân sự đã trang bị cho các cá
nhân những công cụ pháp lý cơ bản để thực thi các quyền thừa kế đối với di
sản của mình.
Trước đây, quy định của nhà nước về phương thức chia di sản, thanh
toán di sản chỉ tản mạn trong các văn bản dưới luật, dừng lại ở việc quy
định những nguyên tắc và thủ tục cơ bản, thiếu nhiều quy định về trường

hợp phát sinh. Thì hiện nay, quyền thừa kế trong Luật Dân sự được quy
định rõ ràng về trình tự, phương thức chia di sản, thanh toán di sản.
Thứ ba, nội dung của quyền thừa kế trong Bộ Luật Dân sựu hiện
hành đã kế thừa và tiếp tục phát huy những quy định có nội dung tiến bộ,
theer hiện bản chất và ý nghĩa của pháp luật về quyền thừa kế của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, xố bỏ tàn tích của chế độ xã hội phong kiến Việt Nam.
Cụ thể là xoá bỏ đi những biểu hiện tư tưởng gia trưởng, trọng nam, khinh
nữ, bảo vệ quan hệ hôn nhân tiến bộ, vợ chồng bình đẳng, trọng nam, khinh
17


nữ, bảo vệ quyền thừa kế giữa các con, không phân biệt con trai, con gái,
con đẻ, con nuôi. Những quy định về quyền thừa kế trong Bộ Luật Dân sự
đã góp phần giáo dục ý thức tuân thủ theo pháp luật của cơng dân trong
cuộc sống, đồng thời có trách nhiệm với những người thân thuộc và tôn
trọng pháp luật và đaọ đức xã hội.
Thứ tư, trình độ kỹ thuật pháp lý của pháp luật về quyền thừa kế hiện
hành thể hiện ở mức tương đối cao. Quyền thừa kế trong Bộ Luật Dân sự
hiện hành đã tiếp thu những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới,
đồng thời pháp luật về quyền thừa kế cũng đã được xây dựng rất khoa học,
đúng về thẩm quyền, nội dung, có kết cấu văn bản hợp lý, phương pháp
trình bày rõ ràng, khoa học, dễ áp dụng, ngơn ngữ chính xác. Bộ Luật Dân
sự 2015 đã kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn,
không ngừng hoàn thiện để đảm bảo quyền lợi của người thừa kế một cách
tối ưu nhất.

2.3. Hạn chế của pháp luật về quyền thừa kế trong Luật
Dân sự ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân
2.3.1. Hạn chế của pháp luật về quyền thừa kế trong Luật Dân sự
ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, pháp luật về quyền thừa kế còn chưa đảm bảo tính tồn
diện. Mặc dù việc xây dựng pháp luật về quyền thừa kế những năm qua đã
đánh dấu bước phát triển mới của quan điểm và trình độ lập pháp của nước
ta. Nhưng ở một số mức độ nhất định thì vẫn chưa thể bắt kịp với tốc độ
phát triển và yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội. Cụ thể là trong lĩnh vực
diện và hàng thừa kế, pháp luật hiện hành còn thiếu nhiều quy phạm pháp
luật điều chỉnh, ví dụ như quan hệ thừa kế của con sinh ra theo phương
thức khoa học hiện đại, thừa kế thế vị của cháu khi bố mẹ họ bị kết án một
trong những hành vi bị tước quyền thừa kế. Trong xã hội ngày một phát
triển ngày nay, trên thế giới và ở Việt Nam đã xuất hiện tương đối phổ biến
những đứa trẻ sinh ra do thụ tinh trong ống nghiêmh, hay là hiện tượng
18


mang thai hộ. Đây là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi trong việc xác
định mối quan hệ thực sự giữa cha, mẹ, con và cịn vơ số vấn đề pháp lý,
thừa kế cấp dưỡng có liên quan. Câu hỏi được đặt ra ở đây là quan hệ thừa
kế của những đứa trẻ đó được giải quyết như thế nào? Liệu chúng có được
thừa kế di sản của người cha mẹ sinh học không? Pháp luật về quyền thừa
kế hiện hành ở nước ta chưa quy định vấn đề này, nên trên thực tế nếu có
tranh chấp xảy ra, các cơ quan thực thi pháp luật sẽ rất lúng túng trong quá
trình giải quyết.
Thứ hai, pháp luật về quyền thừa kế trong Bộ Luật Dân sự hiện hành
còn thiếu tính cụ thể. Bộ Luật Dân sự 2015 đã khắc phục được những hạn
chế, bất cập, những quy định của pháp luật về quyền thừa kế trước đây.
Song những quy định mới này chỉ là bước đột phá trong pháp luật về quyền
thừa kế ở Việt Nam, vẫn còn nhiều quy định chưa được chi tiết, chưa cụ
thể, còn khá chung chung nên trong thực tiễn áp dụng còn để xảy ra nhiều
tranh chấp.
Cụ thể có thể kể tới quy định tại Điều 654 Bộ Luật Dân sự 2015: “

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau
như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và cịn được thừa kế
di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”. Như vậy,
để được hưởng thừa kế di sản giữa con riêng, bố dượng, mẹ kế thì pháp luật
có quy định họ phải có quan hệ chăm sóc như cha con và mẹ con hay
không? Liệu con riêng, bố dượng, mẹ kế phải sống chung nhà hoặc sống
gần nhau, như vậy mới đủ điều kiện để ni dưỡng, chăm sóc bố dượng,
mẹ kế như đối với cha mẹ đẻ thì mới được hưởng thừa kế? Hay là không ở
cùng nhà, không ở gần nhà, khơng trực tiếp chăm sóc mà th người giúp
việc thì có được tính là chăm sóc để hưởng di sản thừa kế theo quy định
không? Hơn nữa, pháp luật cũng khơng quy định thời gian chăm sóc, ni
dưỡng đó dài hay ngắn, phải chăm sóc cho đến ngày bố dượng, mẹ kế chết
thì mới được hưởng di sản thừa kế, liệu những điều đó có chính xác hay
19



×