Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận đđh quan niệm của đạo nho về chữ hiếu và sự đánh giá đạo hiếu trong gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.86 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
Đạo Đức là một hình thái ý thức xã hội, là một tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng
xử của con người trong quan hệ với nhau , và quan hệ với xã hội , chúng được
thực hiện bởi niềm tin các nhân, bởi sức mạnh của truyền thông và sức mạnh
của dư luân xã hội.
Đạo Đức là một hiện tượng đặc trưng cho đời sống con người. Xã hội
càng phát triển càng khẳng định vai trò to lớn của đạo đức. Hồ Chủ Tịch luôn
đề cao vai trò của đạo đức. Theo Người, nhân cách bao gồm Đức và Tài,
trong đó Đức là gốc, Tài là quan trọng. Trong công cuộc đổi mới, vấn đề giáo
dục đạo đức xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ là vấn đề được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát triển con người.
Đạo Đức Học tìm cách giải quyết các câu hỏi về đạo đức con người
bằng cách định nghĩa các khái niệm như thiện và ác, đúng và sai, đức hạnh và
tệ nạn, công lý và tội phạm. Là một lĩnh vực nghiên cứu trí tuệ, triết học đạo
đức cũng liên quan đến các lĩnh vực tâm lý học đạo đức, đạo đức học mô
tả và lý thuyết giá trị.
1: Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu


Trong cuộc sống xã hội hiện đại, con người - thế giới quan - nhân

sinh quan có nhiều sự thay dổi, thối hóa, biến chất. Lựa chọn đề tài “ Quan
niệm của đạo Nho về chữ Hiếu và sứ đánh giá đạo hiếu trong gia đình Việt
Nam hiên nay” để chúng ta hiểu rõ hơn chữ Hiếu ngày nay , nhằm chấn chỉnh
lại hành vi đạo đức, uốn nắn lại lối hành xử sao cho phù hợp với thuần phong
mỹ tục bây giờ.
2: Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 : Mục đích





Đề tài là sự tìm tịi, nghiên cứu để chúng ta có cái nhìn rõ rệt hơn về

quan niệm của đạo Nho về chữ Hiếu và sứ đánh giá đạo hiếu trong gia đình
Việt Nam hiên nay.
2.2 : Nhiệm vụ nghiên cứu


Cần nêu rõ, phân biệt được đạo Nho về chữ Hiếu thời xưa với chữ

Hiếu ngày nay có gì giống và khác nhau. Biểu hiện cụ thể của từng giai đoạn
sao lại dẫn tới sự khác nhau đó. Cần đưa ra các hướng giải quyết như thế nào ,
thích nghi với thời cuộc ra sao.
3. : Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 : Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu là chứ Hiếu trong thời đại Nho giáo và thời

đại ngày nay
3.2: Phạm vi nghiên cứu


Phạm vi về không gian : thời nhà Nho và Việt Nam hiện nay

4: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


Cơ sở lý luận : Sử dụng phương pháp luận chung nhất là tư tưởng


chủ nghĩa Mác- Lenin, đạo Nho giáo của Khổng Tử, Tư tưởng Hồ Chí Minh,

4.2: Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương lơgic và lịch sử,

phân tích, tổng hợp, khái qt hóa và hệ thống hóa….
5: Kết cấu của đề tài


Ngồi mở đầu, kết luận, đề tai gồm 3 chương , 5 tiết

NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC HỌC LÀ GÌ ? CÁC QUAN ĐIỂM, TƯ
TƯỞNG VỀ ĐẠO ĐỨC HỌC
1.1: Đạo Đức Học là gì ?


Đạo đức học là một khoa học mà nghiên cứu là đạo đức. Tức là,

đạo đức học làm nhiệm vụ nghiên cứu những chuẩn mực và nguyên tắc đạo
đức, xác lập những quy luật phát sinh, phát triển của chúng, làm sáng tỏ đặc
trưng của tính người.


Theo G.Bandzeladze : “ Khoa học đạo đức chẳng qua chỉ là một hệ


thống logic hài hòa những tư tưởng, quan niệm và quan điểm và những chuẩn
mực đạo đức. Nó nghiên cứu những sự kiện, quy luật phát triển lịch sử của
đời sống này, nó xác lập những khái niệm và phạm trù đạo đức học cơ bản
như là những điểm tập hợp các chuẩn mực đạo đức cùng một tính chất”.


Theo PGS,TS. Nguyễn Thế Kiệt : “ Đạo đức học là môn khoa học

nghiên cứu về đạo đức, về những quy luật phát sinh, phát triển, tồn tại của đời
sống đạo đức con người và xã hội. Nó xác lập hệ thống những khái niệm,
phạm trù, những chuẩn mực đạo đức cơ bản, làm cơ sở cho ý thức đạo đức và
hành vi đạo đức”.


Tuy nhiên, có thể thấy, tất cả những gì liên quan đến đạo đức là đối

tượng của đạo đức học như là một khoa học , vì vậy không chỉ giới hạn đối
tượng của đạo đức học ở những quy luật khái quát nhất của sự phát triển
những quan hệ , quan niệm đạo đức, những niềm tin xác thực và những tình
cảm đạo đức của con người. Đạo đức là một khoa học thế giới quan và do đó
nó là một phận của triết học.


Đạo đức học là phản ánh của phản ánh, tức phản ánh đạo đức hay

phản ánh gián tiếp tồn tại xã hội. Chính điều này cho thấy, cấu trúc và nội
dung của đạo đức quy định “ tính chất” triết học của đạo đức học.





Vì đạo đức là một hiện tượng xã hội nên đạo đức học thuộc về khoa

học xã hội. Nhưng mặt khác, đạo đức học lại là một hình thái ý thức xã hội,
một bộ phận của thế giới quan con người, vì vậy đạo đức học thuộc vào loại
khoa học triết học, nó là một bộ phận của triết học.


Đối tượng của đạo đức học ( đạo đức ) trước hết có liên quan mật

thiết với những hình thức khác của ý thức xã hội : pháp luật, chính trị, tơn
giáo, nghệ thuật,… Do đó đạo đức học có mối liên quan nhất định với luật
học, học thuyết chính trị, học thuyết tôn giáo, mỹ học.


Những vấn đề về sự phát sinh và phát triển của đạo đức có liên

quan với những vấn đề về nguồn gốc của loài người, về sự hình thành và biến
đổi những phong tục tập quán đạo đức của con người. Do đó đạo đức học có
liên quan với nhân chủng học, dân tộc học và sử học nói chung.


Những vấn đề về đạo đức có liên quan mật thiết với những vấn đề

về giáo dục đạo đức, về ý thức nói chung và nhận thức nói riêng. Do đó đạo
đức học có liên quan với giáo dục học, tâm lí học và nhận thức luận.


Đạo đức học nghiên cứu những quy phạm ( chuẩn mực ) đạo đức và


với ý nghĩa này nó là một khoa học có tính chất quy phạm. Do nó là khoa học
“ phản ánh cái phản ánh” nên Đạo đức học nghiên cứu bản tính, bản chất và
triển vọng phát triển của những chuẩn mực đạo đức hình thành trong thực tiễn
đời sống xã hội. Đối tượng của đạo đức học là tất yếu lịch sử hợp với tự nhiên
với sự phát triển đạo đức. Vì vật đạo đức học là một khoa học lý thuyết.
1.2: Các quan điểm, tư tưởng về đạo đức nói chung và đạo đức học
nói riêng


Các quan điểm, tư tưởng đạo đức là kết quả của sự phản ánh đời

sống xã hội, đồng thời chúng cịn là cơng cụ giúp con người nhận thức về xã
hội. Chức năng nhận thức của đạo đức thường tác động theo hai xu hướng :


+) Hướng thứ nhất: Những quan điểm đạo đức tiến bộ, khoa học giúp
con người nhận thức, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức trong đời
sống ; giúp con người đánh giá đúng cái gì là thiện, cái gì là ác; cũng như tự
đánh giá một cách đúng đắn những suy nghĩ, hành vi của bản thân mình. Trên
cơ sở đó con người định hướng một cách đúng đắn hành vi của mình trong
thực tiễn. Đồng thời thực tiễn đạo đức của nhân dân lao động trong qúa trình
xây dựng xã hội mới có tác dụng nâng cao trình độ nhận thức và năng lực
đánh giá đạo đức ở mỗi người ngày càng chính xác và sâu sắc hơn.
+) Hướng thứ hai: Ngược lại, những quan điểm sai lầm về đạo đức
không những làm cho hành động của con người dễ phạm sai lầm mà còn làm
cho họ thất vọng, mất niềm tin vào cuộc sống và nhất định sẽ dẫn tới mức
giảm sút ý chí cũng như năng lực nhận thức và hành động . Trong xã hội, cần
có các quy tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp bằng cách này hay cách khác lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Cho nên điều chỉnh hành vi của

con người trong xã hội là một yêu cầu khách quan . Có nhiều quy tắc, chuẩn
mực để đều chỉnh hành vi của con người : của pháp luật , của tôn giáo, của
phong tục tập quán và của đạo đức. Điều chỉnh hành vi bằng đạo đức có đặc
điểm là tự điều chỉnh. Sức mạnh điều chỉnh hành vi bằng đạo đức là sức mạnh
của lương tâm, sức mạnh của dư luận xã hội .


Nhờ nắm được những quan điểm đạo đức tiến bộ, hiểu rõ vai trò

của đạo đức, các chủ thể đạo đức ln tự định hướng hoạt động của mình vào
lợi ích chung, trên cơ sở đó mà họ cũng được thỏa mãn những nhu cầu đạo
đức và những lợi ích chính đáng của mình. Để cho sự điều chỉnh có hiệu quả
thì mỗi người khơng chỉ điều chỉnh từ trong tình cảm và nhận thức mà điều
quan trọng hơn là biến những mong muốn tốt đẹp thành hoạt động thực tiễn.
Trong đời sống, nhờ những mối quan hệ đạo đức được thiết lập mà con người
hiểu rõ mình, hiểu sâu sắc thêm những giá trị đạo đức. Chức năng giáo dục,
chức năng nhận thức và chức năng. điều chỉnh của đạo đức gắn bó mật thiết


với nhau. ĐĐ hình thành ở con người năng lực nhân thức, đánh giá đúng đâu
là thiện,đâu là ác. Trên cơ sở đó nâng cao năng lực tự giáo dục, biết được
nghĩa vụ đđ của mình và tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì cái thiện. Do
vậy giáo dục đạo đức khơng những có vai trị to lớn trong việc hình thành
nhân cách mà cịn góp phần ổn định và phát triển xã hội .
1.2.1: Tư tưởng đạo đức của Mac- Lenin


C. Mác và Ph. Ăngghen vừa là nhà khoa học, vừa là những chiến sĩ

cách mạng kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Các

ông nhận thấy những giá trị đạo đức của giai cấp vơ sản dưới chủ nghĩa tư
bản sẽ hình thành nên đạo đức của xã hội tương lai, đó là đạo đức cộng sản,
một kiểu đạo đức mang tính nhân văn, nhân đạo nhất trong lịch sử phát triển
của nhân loại.


Đứng vững trên lập trường duy vật và phương pháp biện chứng, C.

Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những hạt nhân hợp lý trong đạo đức tiến bộ
của nhân loại và bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới để tiến hành một
cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng về đạo đức. Trong “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: Sự sản xuất ra đời sống tinh
thần luôn biến đổi theo quá trình sản xuất vật chất; những tư tưởng thống trị
của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, tư tưởng đạo đức thống trị chính là tư
tưởng đạo đức của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, cùng với sự vận động, phát
triển của xã hội, địa vị chủ đạo của các giai cấp cũng ln biến đổi. Theo đó,
đạo đức xã hội khơng phải là cái bất biến, mà thường biến đổi theo tồn tại xã
hội. C. Mác và Ph. Ăngghen còn chỉ rõ cơ sở hình thành đạo đức là nền tảng
kinh tế - xã hội, gắn liền với quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức và hoạt
động thực tiễn của con người. Nền tảng đó đóng vai trị to lớn đối với sự hình
thành, phát triển của đạo đức mới - đạo đức cộng sản. Theo Ph. Ăngghen,
“Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức, thì do đó, cần


ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của tồn
thể lồi người”. Những giá trị tốt đẹp đó chỉ có thể được phát triển đầy đủ
trong xã hội cộng sản chủ nghĩa.



C. Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh: Trong xã hội có giai cấp, đạo

đức trước hết phản ánh và bảo vệ lợi ích, địa vị của giai cấp thống trị trong xã
hội đó. Khi đạo đức đứng ra bảo vệ lợi ích của các giai cấp tiến bộ, cách
mạng, thì đạo đức đó đóng vai trị thúc đẩy xã hội phát triển. Trong xã hội tư
bản, chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư sản. Trong
buổi bình minh của xã hội tư bản, chủ nghĩa cá nhân tư sản đóng một vai trị
tích cực. Dưới khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản,
động lực lợi ích của chủ nghĩa cá nhân tư sản đã chiến thắng những quan hệ
đẳng cấp chật hẹp của chế độ phong kiến. Nhưng cũng chính sự phát triển
phiến diện của chủ nghĩa tư bản đã đẩy chủ nghĩa cá nhân tư sản đến đỉnh
điểm của nó. Ngồi mặt tích cực là thúc đẩy sản xuất phát triển, giai cấp tư
sản đã để lại cho xã hội khơng ít những hậu quả tiêu cực: vấn đề công lý và
nền đạo đức trong xã hội khơng được bảo đảm bình thường, con người trở
nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy đồi. Sự bình đẳng chỉ mang tính
chất hình thức chứ khơng được thực hiện trong thực tế cuộc sống. Sự che đậy
mối quan hệ bóc lột của xã hội tư bản bằng những “hình mẫu đạo đức tất yếu”
của giai cấp tư sản là hoàn toàn giả tạo. Vấn đề trách nhiệm đạo đức cá nhân
biến thành sự bắt buộc từ bên ngồi, xa lạ với lợi ích, nguyện vọng của người
lao động.


Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, chủ nghĩa cá nhân cực đoan và

quyền tự do bóc lột khơng giới hạn được hình thành và tồn tại trong xã hội tư
bản đã dẫn đến tình trạng méo mó nhân cách, trạng thái tâm lý lạnh lẽo, xa
lánh nhau trong quan hệ giữa người và người, thậm chí con người trở nên thù
định nhau. Giai cấp tư sản đã làm cho giữa người và người khơng cịn mối
liên hệ nào khác ngoài quan hệ lợi - hại trắng trợn và sự giao dịch tiền bạc



nhạt nhẽo, lối “trả tiền ngay khơng tình nghĩa”. Nó biến giá trị con người
thành giá trị mua bán, đổi chác. Tất cả các hoạt động, cùng với trí tuệ và tình
cảm, danh dự và lương tâm của con người đều trở thành đối tượng mua bán.
Lịng tham khơng đáy chi phối trong mọi lĩnh vực hoạt động của giai cấp tư
sản. Nhưng cũng trong lòng xã hội tư bản đã chứa đựng mầm mống của đạo
đức tiến bộ, tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức, đó là
đạo đức của giai cấp vơ sản. Cuộc đấu tranh không ngừng giữa các kiểu đạo
đức trong xã hội tư bản đã mở rộng các khả năng phát triển đạo đức trong
tương lai của một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp vô sản là giai cấp bị áp bức cuối cùng trong lịch sử loài người. Đạo
đức cộng sản là đạo đức tiến bộ nhất, bởi nó kế thừa và phát triển các giá trị
tích cực của các kiểu đạo đức đã có của văn minh nhân loại. Đạo đức vơ sản
trở thành vũ khí sắc bén của quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh xóa bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây dựng cuộc sống mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa. Đó là biện chứng của sự phát triển đạo đức trong
xã hội.
1.2.2: Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh


Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách

mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức Người không để lại những tác
phẩm đạo đức lớn. nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm
trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc
theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam. Bản
thân Người lại thực hiện trước nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những
điều Người đã nói, đã viết về đạo đức Người vừa là một nhà đạo đức học lớn,
lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới
thừa nhận.



Vì vậy tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải chỉ

thông qua những tác phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng hơn phải


thơng qua chính hành vi được thể hiện trong tồn bộ hoạt động thực tiễn của
Người, thông qua mẫu mực đạo đức trong sáng mà Người đã để lại cho Đảng,
cho dân tộc, cho nhân loại. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động cơ
và hiệu quả, giữa lý luận và thực tiễn đã trở thành một đặc trưng nổi bật của
Hồ Chí Minh, đặc trưng này đã làm cho Hồ Chí Minh phân biệt với rất nhiều
nhà tư tưởng, nhiều lãnh tụ cách mạng khác từ trước đến nay.


Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức là văn

minh", thì mới hồn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Người
cũng thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Nếu xét đến cùng thì
văn minh tức là trí tuệ, trong đó chủ yếu là sự hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa
Mác - Lênin, những tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt Nam và thế
giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết để
đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Cịn đạo đức chính là những phẩm
chất địi hỏi con người cần phải có để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để cống hiến được nhiều nhất cho cuộc đấu
tranh đó. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi vì muốn làm cách mạng
thì trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc mình. Cái tâm, cái đức
ấy lại phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày với dân, với

nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình. Phải có
tâm, có đức mới giữ được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa được chủ nghĩa Mác
- Lênin vào cuộc sống. Con đường Hồ Chí Minh đi đến chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là một minh
chứng rất rõ về điều đó.


Chính vì vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của

cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh đã thường xuyên
quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Tùy theo từng thời kỳ


cách mạng, Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người phấn
đấu rèn luyện nhằm hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn, phức
tạp hơn, từ đó mà giành thắng lợi càng to lớn hơn cho sự nghiệp cách mạng.


Đường Kách mệnh là cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của

cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết Mác - Lênin và con đường của Cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đi theo đường lối cách mạng mới đã được
Nguyễn Ái Quốc xác định. Đó cũng là cuốn sách đầu tiên tuyên truyền trực
tiếp về chủ nghĩa Mác - Lênin cho lớp thanh niên cách mạng ưu tú nhất thời
đó. Nhưng mở đầu cuốn sách lại là bài nói về Tư cách một người cách
mệnh. Chắc chắn chúng ta khơng thể tìm thấy một trường hợp nào truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin giống như vậy. Phải chăng Hồ Chí Minh đã nêu lên
một quan điểm lớn: Phải có cái đức để đi đến cái trí .Vì khi đã có cái trí thì
cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ
nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.



Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là

tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và
chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, khơng thể có mặt
này, thiếu mặt kia. Như Người đã phân tích, người nào có đức mà khơng có
tài thì cũng chẳng khác gì ơng bụt ngồi trong chùa, khơng làm hại ai, nhưng
cũng chẳng có ích gì. Ngược lại, nếu có tài mà khơng có đức, thì cũng chẳng
khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem lại nhiều lãi, nhưng lãng phí, tham
ơ, ăn cắp của cơng, thì như vậy chỉ có hại cho dân cho nước, cịn sự nghiệp
của bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Người thực sự có đức thì bao giờ
cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy sức khơng vươn lên được thì đối
với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và nhường bước để họ
vượt lên trước. Ý nghĩa "đức là gốc" chính là ở chỗ đó.
CHƯƠNG II : QUAN NIỆM CỦA ĐẠO NHO VỀ CHỮ HIẾU


2.1 : Chữ Hiếu là gì ?



Chữ hiếu là nền tảng của đạo đức. Gia đình là nền tảng của xã hội.

Trong gia đình chữ hiếu là nền tảng để xây dựng hạnh phúc, đem đến sự an
vui, an lạc cho tất cả mọi người.



Con cái có hiếu với cha mẹ, ngoài việc mang lại niềm hạnh phúc


chung trong gia đình, cịn mang đến cho chính mình sự an lạc, bình an. Mỗi
cá nhân, mỗi gia đình trong xã hội, mỗi cơng dân của một quốc gia có an lạc,
bình an thì xã hội, quốc gia đó mới có an lạc bình an, và mỗi xã hội, mỗi quốc
gia có an lạc bình an thì  thế giới của chúng ta mới được an lạc, bình an.
 


Khơng có tình u thương kính trọng vơ điều kiện đối với cha mẹ

thì khơng thể có tình u thương thật sự đối với người khác. Một xã hội
khơng có những cá nhân có tình u thương thật sự, chỉ có những cá nhân, mà
lịng yêu  thương trong họ chỉ tồn tại khi các điều kiện xuất phát từ  lòng tham
dục đã được thỏa mản, nếu không đúng theo sự ham muốn, nếu trái với ý
muốn, thì tình thương đó sẽ tan biến, dể biến thành sự khinh khi, đố kỵ, ganh
ghét và hận thù. Như thế thì xã hội đó, sẽ khơng thể có được sự an lạc, sự an
bình thật sự.
 


Phong tục tập quán của các dân tộc, giáo lý của các tôn giáo đều

khuyên dạy, đề cao và hướng con người đến việc nhận thức và thể hiện lịng
hiếu hạnh của mình đối với đấng sinh thành. Đặc biệt nước ta với nền văn
minh phát triển từ rất lâu, văn hóa Nho-Phật-Lão đã ảnh hưởng sâu đậm trong


xã hội ngay từ thời lập quốc. Chữ hiếu đã hình thành và tồn tại trong từng cá
nhân như là bản tính tự nhiên vốn có từ khi chúng ta mới chào đời.
 



“Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lịng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
 


"Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”
 


Mỗi người Việt Nam, khơng ai là khơng thuộc nằm lịng những câu

câu ca dao ấy và chúng ta có thường xuyên nhớ tới, để tìm cách thể hiện lịng
hiếu thảo của mình trong thực tế  ở mức độ như thế nào, cịn tùy thuộc vào
hồn cảnh và điều kiện của mỗi người.
2.1.1: Quan niệm của Đạo Nho về chữ Hiếu


Đạo đức học Đơng phương vì thế ln hàm chứa một tiềm lực dồi

dào và trên thực tế chính tiềm lực này đã làm cho nền luân lý ấy hòa quyện
vào nền văn minh vật chất để từ đó hình thành nên các giá trị văn hóa tinh
thần của mỗi dân tộc. Ta có thể hiểu rõ hơn điều này khi tìm hiểu về ý nghĩa
của chữ hiếu trong hai dòng tư tưởng lớn của Đông phương là Nho giáo và

Phật giáo.


Sách Đại học của Nho giáo được mở đầu bằng một lời khẳng định

minh bạch rằng mục đích của Đại học là soi sáng bản tính đạo đức của mình,
gắn bó, thương yêu người, để mình và người cùng đạt đến chỗ chí thiện1. Lời
tuyên bố này đã trở thành tư tưởng trọng tâm của nền học thuật Nho giáo và


vì thế nó là yếu điểm mà các nhà Nho thường nhắm tới. Theo như lời dạy này,
người Quân tử phải khởi đầu từ việc trau dồi phẩm hạnh cá nhân để kế đến là
ổn định trật tự xã hội và cuối cùng là hoàn thiện nhân cách cao tột của mình.
Đối với các nhà Nho, trau dồi phẩm hạnh cá nhân là khởi điểm để từ đó mỗi
người xây dựng cho mình một nhân cách mà tinh chất của nhân cách ấy là
Nhân (lòng bác ái), đức đầu tiên trong ba đức (Nhân, Trí, Dũng, theo Khổng
Tử), bốn đức (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, theo Mạnh Tử) hay năm đức (Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, theo Hán Nho).


Khi Phàn Trì hỏi Nhân là gì, Khổng Tử (551-479 Tr. CN) đáp: “là

thương người.”2 Mạnh Tử (372?-289? Tr. CN) thì cho rằng người Quân tử
khác với người đời là ở cái tâm của họ, tâm người Qn tử ln có Nhân, có
Lễ. Người có Nhân biết thương người khác, người có Lễ biết kính người
khác.3 Theo cách lý giải của Mạnh Tử mỗi người đều vốn mang trong mình
một lịng trắc ẩn, khơng nỡ thấy ai bị đau khổ, nên khi mình thấy một điều gì
đó nguy hiểm xảy ra với người khác, mình khơng thể làm ngơ mà phải ra tay
cứu giúp họ. Ơng đưa ra một ví dụ như sau: một người tình cờ thấy một em bé
sắp bị rơi xuống giếng liền khởi tâm lo lắng và vội vàng đến cứu em. Người

ấy khởi lên tâm thương tưởng như thế khơng phải vì mong cha mẹ của em bé
kia sẽ trả ơn, cũng chẳng mong được bạn bè, láng giềng khen ngợi, lại cũng
chẳng phải vì sợ sẽ mang tiếng xấu bởi đã không giúp người trong cơn hoạn
nạn, mà đó vốn là một phản ứng tự nhiên của mỗi người. Lịng trắc ẩn này,
theo ơng, chính là đầu mối của lịng Nhân.4 Tình thương người như thế khơng
cần học hỏi để có, khơng nhọc suy tư để biết, mà nó là bẩm sinh như trẻ thơ
lúc nhỏ thì biết thương mến cha mẹ, lớn lên thì biết kính trọng đàn anh của
mình. Sự thương mến đó là Nhân, sự kính trọng đó là Nghĩa vậy.5 Như vậy
hiếu thảo hay sự thương mến cha mẹ chính là cội nguồn của Nhân. Hữu Tử,
một môn đồ của Khổng Tử cũng khẳng định rằng hiếu là gốc của tất cả những
điều Nhân.6 Đến đây ta có thể phần nào hiểu được vai trị của chữ hiếu trong
truyền thống Nho giáo. Vì Nhân là đức tính đứng đầu trong mn đức, là tinh


chất để tạo nên nhân cách của một bậc Quân tử, mà hiếu là cội gốc của Nhân
nên hiếu được xem là nền tảng đạo đức của người Quân tử.


Dù hiếu là một đức tánh bẩm sinh nhưng nếu hạt giống này của

lịng Nhân khơng được vun xới thường xun thì nó sẽ bị hư hoại và có thể
biến mất và nếu điều này xảy ra thì lịng Nhân sẽ bị mất đi nền tảng như cây
không cội, nước không nguồn và rồi nó lại bị biến dị sang một hình thái khác.
Hình ảnh của những kẻ hung ác, bạo ngược trong xã hội đã phần nào chứng
minh được sự thật này. Họ là những người đã đánh mất đi hạt giống của hiếu
hạnh, quan hệ gia đình bị rạn vỡ để rồi trở thành những tâm hồn lạc loài giữa
sa mạc ngông cuồng chỉ biết bám trụ vào những ốc đảo của lòng ham muốn
thấp hèn, bại hoại. Do vậy hiếu và Nhân không thể tách rời nhau. Người có
hiếu thì dễ dàng phát triển lịng Nhân mà một khi đã có Nhân thì hạnh hiếu
càng sáng tỏ. Chỉ khi nào con người biết bắt đầu từ sự hiếu thảo với cha mẹ,

từ sự gắn bó với thân quyến, thì người ấy mới có thể thương u người khác.
Đó là thứ lớp thăng tiến của Nho giáo hay là lộ trình tu đạo của người Quân
tử. Sách Trung Dung có viết rằng: đạo Quân tử cũng giống như đi đường xa,
muốn đi ắt phải khởi sự từ gần; cũng ví như lên cao, muốn lên ắt phải bắt đầu
từ dưới thấp.7


Hiếu kinh, tác phẩm chính của Nho giáo nói về đạo hiếu được mở

đầu như sau: “Hiếu là gốc của đức, là nguồn của giáo…thân thể tóc da, nhận
từ cha mẹ, khơng dám tổn thương đó là khởi đầu của hiếu. Lập thân hành đạo,
dương danh với hậu thế, để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của hiếu. Xét về
hiếu, khởi đầu là lo việc song thân, kế đến là việc vua tôi, sau cùng mới đến
việc lập thân.”8 Bản kinh này cũng dẫn lời của đức Khổng Tử về đạo hiếu
rằng: “Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở phải hết sức cung kính,
cung dưỡng cha mẹ phải hết mực vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết
lòng, khi lo việc tang lễ phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải vô
cùng trang nghiêm.”9 Hai đoạn này trong Hiếu kinh đã tóm thâu được ý nghĩa


của chữ hiếu trong Nho giáo. Người con hiếu là người ln giữ gìn và khơng
làm tổn thương đến thân thể mà cha mẹ đã sanh ra, phải sống làm sao hầu để
lại danh thơm tiếng tốt ở đời, làm cho cha mẹ, dịng tộc mình được rạng rỡ, lo
cho chữ hiếu, chữ trung trước rồi sau mới lo cho mình. Đối với cha mẹ, lịng
hiếu thảo của người con phải được thể hiện trên cả hai phương diện vật chất
lẫn tinh thần. Về phương diện đầu, người con phải thực hiện ba điều căn bản:
chăm sóc cha mẹ chu đáo, ln ý thức rằng thân thể mình được tạo thành từ
máu thịt cha mẹ nên phải biết quí trọng nó và phải lập gia đình, sanh con để
nói dõi tông đường.



Theo Mạnh Tử, xét về phương diện thế tục, có năm điều được xem

là bất hiếu: thứ nhất cơ thể lười biếng, chẳng đối hồi đến việc phụng dưỡng
cha mẹ; thứ hai, đam mê cờ bạc rượu chè, chẳng nghĩ đến việc phụng dưỡng
cha mẹ; thứ ba, chạy theo của cải, tiền tài, chỉ nghĩ đến vợ con mà chẳng lo
báo ân cha mẹ; thứ tư, đắm vào dục lạc sắc thanh làm cho cha mẹ tủi nhục;
thứ năm, ưa thích sự kiêu hùng, đấu tranh, tàn nhẫn làm nguy hại cho cha
mẹ.10 Nhưng đứng trên quan điểm của đạo Quân tử, Mạnh Tử lại cho rằng:
“Bất hiếu có ba, không người nối dõi là lớn nhất.”11 Tư tưởng này của Mạnh
Tử về sau được Trình Di (1033-1107), một trong những nhà cách tân nổi
tiếng của Nho giáo dưới thời Tống, kế thừa và cổ xúy mạnh mẽ. Trình Di cho
rằng việc nối dõi như thế chính là trọng tâm của đạo làm người. Có lẽ chính
vì điều này mà việc hôn nhân là điều rất quan trọng trong truyền thống Nho
giáo. Thông thường việc hôn nhân này gồm ba khía cạnh sau: thứ nhất, đơi vợ
chồng trẻ phải gắn bó, chung thủy và đối với họ việc ly dị là điều tối kỵ; thứ
hai, việc cưới hỏi thường do cha mẹ hai bên đặt để. Việc tìm hiểu nhau trước
khi hôn nhân diễn ra của đôi vợ chồng ấy không là điều quan trọng; và thứ ba,
trách nhiệm và cũng là niềm tự hào của đôi vợ chồng ấy là phải sinh con trai
để tiếp nối tổ tiên. Trong bối cảnh đó nếu họ khơng sinh được con trai thì
người chồng có quyền ly dị vợ hoặc sẽ cưới thêm tỳ thiếp khác. Đây là một


trong những nguyên nhân phát sanh tục đa thê và là tác nhân tạo nên những
đổ vỡ hạnh phúc gia đình trong xã hội ngày xưa.


Về phương diện tinh thần, khi cha mẹ còn ở đời, người con hiếu

phải thực hiện những hồi bảo mà cha mẹ trơng mong, phải tiếp nối chí

hướng của cha mẹ. Khi cha mẹ qua đời người con phải tỏ lòng tiếc thương và
lo việc cúng tế, thờ phụng chu đáo. Sách Lễ Ký giải thích rằng sau khi một
người qua đời hình phách (khí của đất) của người đó sẽ ẩn vào trong đất và
hồn khí (khí của trời) sẽ về với trời và lễ tang được tổ chức để cho hai luồng
khí này được dung hịa, gắn bó nhau mãi mãi. Theo thời gian cách thức và nội
dung của lễ nghi như thế càng ngày càng được xem trọng và đó được xem là
biểu hiện của lòng hiếu thảo của người sống đối với kẻ đã khuất. Khổng Tử
cũng như các môn đồ của mình thường khơng quan tâm nhiều đến những vấn
đề siêu hình chẳng hạn như Thượng đế tồn tại hay khơng tồn tại, có hay
khơng một linh hồn bất tử, quan hệ giữa sống và chết ra sao… Khi Quí Lộ hỏi
về việc quỉ thần, Khổng Tử đáp: “Chưa lo hết việc người, sao lại lo việc quỉ.”
Quí Lộ lại hỏi tiếp về việc chết, Khổng Tử đáp: “Chưa biết việc sống, sao biết
việc chết.” Sự im lặng của Khổng Tử đối với những vấn đề như thế làm cho
Tử Cống, một môn đồ của ông phải than thở rằng: “Văn chương của Thầy thì
ta đã nghe nhiều, nhưng về nhân tánh và đạo trời thì ta chưa từng nghe Thầy
dạy.”13 Thái độ tránh né những câu hỏi liên hệ đến thế giới siêu hình của
Khổng Tử được các thế hệ nhà Nho sau này tiếp nối một cách trung thành và
điều đó nói lên một sự thật là Nho giáo khơng có chủ ý đưa niềm tin tơn giáo
vào học thuyết thế trị của mình. Chủ trương của Nho giáo là thiết lập một thể
chế xã hội mà ở đó mỗi cá nhân có những lối hành xử khế hợp theo những
khuôn mẫu chung như Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng… Một xã hội
được ổn định khi mỗi gia đình có sự đồn kết, hịa thuận. Sự hịa thuận đó chỉ
có thể có khi sự hiếu thảo được thực hành triệt để. Như vậy hiếu là nền tảng
của đạo làm người, là nhân tố để hình thành nên đức Nhân của người Quân
tử, một mẫu người lý tưởng trong Nho giáo. Chung quy việc tu thân để tiến


đến việc tề gia, trị quốc và bình thiên hạ phải bắt đầu từ một đức tính căn bản
trong mỗi người, đức tính đó khơng gì khác hơn là hiếu hạnh.



 Chữ Hiếu là cả một hệ thống giá trị, tư tưởng và đạo đức của con

người trước hết trong gia đình. Làm người phải hiếu thuận, giữ đạo làm con
đối với cha mẹ. Một người giữ trọn chữ Hiếu thành người Nhân, những người
đó sẽ được xã hội nể phục, là tấm gương để xã hội noi theo trong việc dạy dỗ
con cái. Và ngược lại, làm người nếu phải mang tiếng bất hiếu đó là tội lỗi lớn
lao, đi ngược lại truyền thống đạo đức luân lý xã hội, người đời chê bai dè
bỉu, xã hội lạnh nhạt khinh bỉ. Cũng như lời dạy trong Kinh Phật: “Tội lỗi lớn
nhất của đời người là bất hiếu”. Đối với các trí thức Nho giáo, chữ Hiếu là
tiêu chuẩn phải có trong tam cương, ngũ thường, lục kỷ. Nói chung chữ Hiếu
là yếu tố đạo đức luân lý để con người đi trên con đường Chân- Thiện-Mỹ.


 theo Khổng Nho, Hiếu không có nghĩa là nghe lời, cho dù cha mẹ

là đấng sinh thành, công ơn dưỡng dục lớn lao. Nếu thấy cha mẹ có điều gì sai
trái, con có thể phản biện và khơng làm theo. Con có quyền quyết định, và nói
những điều người con cho là đúng. Thấy cha mẹ làm sai, người con có quyền
khơng đồng ý. Tuy nhiên phận làm con phải giữ đạo Trung Dung, chỉ ra cái
sái trái của cha mẹ, nhưng giữ được cái Lễ để tỏ lịng thành kính. Nếu cha mẹ
giận dữ, thì vẫn khơng ốn trách, hoặc cha mẹ khơng nghe theo thì vẫn êm
đềm, dịu dàng, dùng lời lẽ hợp lý hợp tình thuyết phục. Như vậy là tồn vẹn
cả hai:



 “Sư phụ mẫu cơ gián, kiến chí bất tịng, hựu kính bất vi, lao nhi

bất ốn”. (Luận Ngữ: Lý Nhân IV).




Làm con phải hiếu, nhưng cũng phải theo lẽ phải mà làm. Làm con

phải hiểu, phải nối được cái chí của cha mẹ, nhưng không thấy cha mẹ làm


điều sai mà noi theo. Cái gì người con thấy đúng thì làm theo, thấy dở là bỏ,
chứ khơng vì kính cẩn, khơng vì theo đuổi chữ hiếu mà nhắm mắt làm theo
cha mẹ, không phân biệt sai trái, phải quấy:



“Phù hiếu giả thiện kế nhân chi chí, thiện thuật nhân chi sự giả

dã.” (Trung Dung)



Cũng như câu truyện về Tăng Sâm Hiếu đạo. Khi Tăng Sâm bị cha

là Tăng Tích đánh vì tội làm chết cây dưa trong ruộng. Tăng Sâm muốn giữ
đạo hiếu, khơng “ cãi”, khơng giải thích, khơng phân bua, và chịu địn roi của
cha. Tuy nhiên Khổng Tử khơng hài lịng. Khổng tử nói rằng khi cha đánh thì
phải chạy (bất tuân)… phận làm con mà để cho cha đánh, lỡ cha đánh chết,
cha mang tội sát nhân, làm con mà để cha mang tội sát nhân, tức là con bất
hiếu.




Trên đây chúng ta thấy được quan niệm chủ đạo của Khổng Nho.

Qua sự tương quan, tiếp xúc, đối xử giữa các thành viên trong gia đình như
con cái với cha mẹ ơng, bà, anh chị em với nhau thì chư Hiếu đã tạo nên giá
trị nhân bản. Con người trong gia đình biết yêu thương, lo lắng cho nhau.
Những điều đó tạo nên gia đình yên ấm.. Gia đình hạnh phúc là hạt mầm tốt
để tạo nên xã hội lanh mạnh và phát triển.



Qua đó chúng ta cũng thấy được Khổng Nho công nhận những

quyền căn bản của con người, tuy rằng chưa được hệ thống hóa để chúng ta
thấy và hiểu nó rõ hơn. Đó là phản biện, tơn trọng ý kiến khác biệt chính kiến,
khác biệt tư tưởng của con người. Khơng đồng ý với việc giáo dục bằng hình


thức bạo lực. Khác biệt chính kiến, phản biện, đồng thuận. hay không đồng
thuận là những nguyên lý căn bản để tạo nên một xã hội dân chủ.



Tiếc thay! Cho đến khi Nho giáo nói chung và Khổng Nho nói

riêng đến thời Hán Vũ Đế đã bị bóp méo thành một học thuyết nhất tôn do
nhu cầu thống trị của kẻ cầm quyền: “Xét kỹ ra, Hán nho có một điều lầm
lớn, là từ vua Hán Vũ Đế trở đi, Nho giáo thành ra học thuyết nhất tơn, làm
cho nhân trí bởi đó mà khơng tiến hóa được. Theo cái cơng lệ thì bất cứ việc
gì, hễ muốn tiến hóa là phải có cạnh tranh, có so sánh, rồi cái hay mới hay

hơn lên, mà cái dở thì mất dần đi. Nếu chỉ để một cái riêng giữ thế lực, mà đè
nén tất cả thì cái thần diệu của thiên diễn khơng cịn nữa”…


Như vậy, có thể thấy, cả Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử đều nhấn

mạnh đến “tính nhân” để phân biệt ranh giới, đẳng cấp, cũng như sự gắn liền
giữa hai yếu tố: con và người. Nếu việc báo hiếu cha mẹ chỉ dừng ở nuôi
dưỡng với tôn chỉ cốt cho ăn no, ăn ngon, thì mới chỉ là chạm tới đường biên
của nghĩa vụ, chứ chưa đến được với bản chất người đích thực. Tuy nhiên, để
có thể phụng dưỡng và kính trọng cha mẹ thì theo Khổng Tử, khi “cha mẹ già
cịn sống” người con “khơng được đi chơi xa”, “nếu có đi thì phải nói rõ nơi
nào cụ thể”. Tuy yêu cầu này không được đặt thành một nội dung riêng biệt,
nhưng lại có tính chất chi phối mạnh mẽ đối với hành động của các nhà Nho.
Về cơ bản, Nho giáo sơ kỳ yêu cầu phận làm con đi phải báo, về phải vào
trình để cha mẹ được biết và cũng là để vấn hỏi cha mẹ xem người có điều gì
căn dặn hay khơng. Quan điểm này có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, nhưng về
sau, các nhà Nho lại thường hiểu là khi cha mẹ cịn sống, phận làm con giữ
chữ hiếu khơng được đi xa. Chính vì vậy, nó lại trở thành một trong những
nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của con người, đôi khi lại là cái cớ để
người ta lẩn tránh trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội.


Giữ gìn thân thể mình để nối chí hướng của ơng cha


Giữ gìn thân thể mình để nối chí hướng của ông cha cũng là thể

hiện sự hàm ơn đối với các bậc sinh thành. Nội dung này xuất phát từ sự sùng
kính đối với cái đức sinh sơi, tiếp nối và coi trọng cái gốc của người Trung

Hoa. Theo đó, sinh mệnh của người con là do cha mẹ trao cho. Người con có
trách nhiệm q trọng bản thân mình và tiếp nối q trình sinh thành mà ơng
cha đã tạo dựng được.


Theo Hiếu kinh, từ hình hài đến tóc, da của người con đều là của

mẹ cha cho và do vậy, người con phải có trách nhiệm giữ gìn thân thể mình.
Sau này, khi phát triển quan điểm đó của Khổng Tử, Mạnh Tử, trong
chương Ly lâu chương cú thượng, cho rằng: “Trong các việc cần phụng sự thì
việc nào là quan trọng nhất? Việc phụng sự cha mẹ là quan trọng nhất. Trong
những việc phải giữ gìn thì việc nào là quan trọng nhất? Việc giữ gìn thân thể
của mình là quan trọng nhất… Kẻ chẳng biết giữ gìn, lại cịn huỷ hoại thân
thể mình cho đến mang bệnh vướng tật, thế mà lại có thể phụng sự cha mẹ chí
hiếu, điều này ta chưa từng được nghe nói bao giờ” . Rõ ràng, hiếu theo nghĩa
này khác hẳn với những câu chuyện “ngu hiếu”, như xẻo thịt đùi, khóc măng,
nằm băng... mà hậu Nho về sau thường viện dẫn ra để làm tấm gương hiếu.
Bên cạnh đó, quan điểm này cịn thể hiện tính nhân văn, tấm lịng của cha mẹ
đối với con cái, bởi theo Khổng Tử: “Làm cha mẹ chỉ lo sợ con mang bệnh tật
mà thôi”. Cha mẹ không yêu cầu người con thực hành đạo hiếu phải hy sinh
tấm thân mình, càng khơng cho phép người con tự coi rẻ bản thân. Thân thể là
cha mẹ cho mình, nâng niu chăm bẵm từ tấm bé, người con phải giữ gìn thân
thể của mình, đó là tiền đề không thể thiếu để người con tồn tại và thực hiện
đạo hiếu.


Quan niệm của Nho giáo sơ kỳ coi giữ gìn thân thể là một nội dung

của hiếu đạo mang yếu tố duy vật và cho thấy tính biện chứng sâu sắc. Theo
chuỗi biện chứng vô cùng ấy, xuất phát điểm của tồn tại cũng chính là tồn tại

trong q trình sinh thành. Chính vì vậy, đạo hiếu quy định người con không



×