Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận cao học ktct lý luận các mác về sản xuất hàng hoá và sự vận dụng vào phát triển kinh tế nhiều thành phần ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.33 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................
NỘI DUNG....................................................................
1. Lý luận Các Mác về sản xuất hàng hoá....................
1.1. Sản xuất hàng hoá............................................
1.2. Hàng hoá và thuộc tính của hàng hố................
1.3. Tiền tệ.............................................................
2. Sự vận dụng lý luận Các Mác về sản xuất hàng hoá
vào phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam
hiện nay..................................................................11
KẾT LUẬN..................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................18


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Lý luận C. Mác về sản xuất hàng hoá là một trong những
nội dung cơ bản của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác Lênin, được cấu thành từ nhiều quan điểm, sắp xếp thành hệ
thống. Tựu trung tập trung vào 5 điểm cơ bản: Điều kiện ra
đời nền sản xuất hàng hóa; Hàng hóa và các yếu tố nội tại
của nó; Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa;
Giá cá thị trường và giá trị thị trường; Các hình thái giá trị.
Trong đó, phát kiến độc đáo nhất chính là tính chất hai mặt
biểu hiện trong lao động sản xuất hàng hóa. Nó giúp giải thích
được bản chất của các thuộc tính hàng hóa, sự phân biệt giữa
yếu tố bản chất và hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua
bán hàng hóa. Nó cũng là nền tảng để giải thích sự ngang
bằng về giá trị trong trao đổi. Ở tầm khái quát chung, Lý luận


C. Mác về sản xuất hàng hố phân tích đầy đủ về bản chất
của tế bào kinh tế trong chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó
trong q trình trao đổi mua bán. Riêng với nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt Nam , nó là cơ sở lý luận để địi hỏi đảm
bảo tính cạnh tranh, tính cơng bằng và hồn thiện thể chế
kinh tế, cải thiện vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước. Nghiên
cứu về Lý luận C. Mác về sản xuất hàng hố sẽ cho chúng ta
cái nhìn tổng qt hơn về vai trò cũng như hạn chế của nền
sản xuất hàng hố để từ đó có sự vận dụng hiệu quả vào con
đường phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Lý luận Các Mác về
sản xuất hàng hoá và sự vận dụng vào phát triển kinh

1


tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu kết thúc học phần của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về Lý luận Các Mác về sản xuất hàng
hố từ đó rút ra được những vận dụng lý luận đó vào phát
triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
3. Nội dung
Đề tài gồm 2 phần chính
Thứ nhất: Phân tích những lý luận Các Mác về sản xuất
hàng hoá
Thứ hai: Làm rõ những vận dụng những lý luận đó vào
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
4. Ý nghĩa
Đề tài cung cấp những kiến thức cơ bản về lý luận Các

Mác về sản xuất hàng hoá và sự vận dụng những lý luận đó
vào phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
Có thể làm tài liệu nghiên cứu cho các đề tài liên quan
đến nghiên cứu về Các Mác cũng như nghiên cứu về nền kinh
tế nhiều thành phần

2


NỘI DUNG
1. Lý luận Các Mác về sản xuất hàng hoá
1.1.

Sản xuất hàng hoá
Khái niệm sản xuất hàng hoá
Theo Các Mác, sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà

ở đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Nghiên cứu q trình lao động tạo ra hàng hóa, C. Mác
đã chỉ ra hai điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hóa. Điều kiện thứ nhất là có sự phân công lao động xã
hội. Điều kiện thứ hai là có sự tách biệt tương đối về mặt kinh
tế của những người sản xuất. Ở điều kiện thứ nhất, khi nhấn
mạnh phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất
hàng hóa, C. Mác đồng thời chỉ rõ dù có sự phân cơng lao
động nhưng sản phẩm của lao động khơng thể trở thành hàng
hóa nếu khơng có điều kiện thứ hai. Theo C. Mác, chỉ có sản
phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ
thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như những hàng hóa.

Sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa địi hỏi sản xuất
phải mang tính chất tư nhân đó. Tính chất tư nhân của sản
xuất khơng đồng nhất với “chế độ tư hữu”.
C. Mác đã sớm chỉ ra sự phân biệt sở hữu về mặt pháp lý
với chiếm hữu thực tế. Sự tách biệt về quyền chiếm hữu và
quyền sử dụng tư liệu sản xuất, tính tự chủ của các chủ thể
kinh tế đối với tư liệu sản xuất đã đưa đến sự tách biệt về
quyền chiếm hữu kết quả sản xuất.

3


Trên cơ sở nội dung này, khi nghiên cứu sự chuyển biến
từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa, V. I. Lênin đã
cho rằng sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức của kinh tế
- xã hội, trong đó sản phẩm đều do những người sản xuất cá
thể, riêng lẻ sản xuất ra. Mỗi người chuyên làm ra một số sản
phẩm nhất định và muốn thỏa mãn nhu cầu của xã hội thì cần
có mua và bán sản phẩm.
1.2.

Hàng hố và thuộc tính của hàng hố

Hàng hố là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó
của con người thơng qua trao đổi, mua bán.
Theo C. Mác, phân tích phạm trù hàng hóa là vấn đề khó khăn nhất.
Hàng hóa trong nghiên cứu của ơng là hàng hóa giản đơn, nó chứa đựng mầm
mống của hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Ơng nghiên cứu bắt đầu từ hàng hóa
giản đơn vì chủ nghĩa tư bản cũng ra đời từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn.
Về mặt lịch sử, khi sản xuất hàng hóa giản đơn diễn ra và phát triển, cùng sự

vận động của quy luật giá trị, sự phân hóa người giàu và người nghèo do hoạt
động kinh doanh sẽ diễn ra. Về mặt lý luận, ông nghiên cứu hàng hóa với tư
cách là tế bào kinh tế của xã hội để từ đó nghiên cứu tồn bộ cơ thể của xã hội
tư bản. Ơng giải thích tế bào khơng đơn thuần là nghĩa đen mà là điểm xuất
phát, là mầm mống, là hình thái nguyên tố đầu tiên của chủ nghĩa tư bản.
Thêm vào đó, nghiên cứu hàng hóa để kế tiếp nghiên cứu hai thuộc tính của
hàng hóa.
C. Mác bắt đầu nghiên cứu hàng hóa từ giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng
đã được C. Mác nghiên cứu cả về mặt chất lẫn mặt lượng. Theo C. Mác, giá
trị sử dụng của hàng hóa là tính có ích, là cơng dụng của một vật, nhờ đó nó
có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Với giá trị, C. Mác nghiên cứu bắt đầu từ giá trị trao đổi. Giá trị trao
đổi biểu hiện ra là quan hệ về số lượng, là tỷ lệ mà theo đó những giá trị sử
4


dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Từ việc
nghiên cứu giá trị trao đổi, C. Mác đưa ra hai giả định: (1) Các hàng hóa trao
đổi với nhau đều biểu thị cái gì đó chung giống nhau và bằng nhau; (2) Giá trị
trao đổi nói chung chỉ có thể là biểu hiện của một nội dung nào đó. Điểm
chung ấy là chúng đều là sản phẩm của lao động.
Từ giá trị trao đổi, C. Mác đã tìm ra giá trị hàng hóa. Giá trị hàng hóa là
nội dung bên trong của giá trị trao đổi. Nếu gạt giá trị sử dụng của các sản
phẩm lao động qua một bên thì cái cịn lại của các sản phẩm lao động là giá
trị của chúng, là hao phí lao động kết tinh trong sản phẩm ấy. C.Mác đã dày
cơng phân tích mặt chất và mặt lượng của giá trị hàng hóa. Những câu hỏi đo
lượng giá trị hàng hóa bằng gì, những nhân tố nào ảnh hưởng đến lượng giá
trị hàng hóa, những nhân tố đó bị tác động bởi những yếu tố gì,… được giải
quyết triệt để. Cũng từ đó, câu hỏi đặt ra cho sự hình thành các bộ phận trong
giá trị hàng hóa được đặt ra. Nó được giải quyết và lý giải sự đối lập trong

quan hệ lợi ích kinh tế giữa hai giai cấp cơ bản của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Nếu khơng có bước cuối cùng này thì xem như kinh tế C. Mác
vẫn chỉ dừng lại là sự mô tả phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà chưa
phản ánh được bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Những nhà kinh tế học trước C. Mác chưa giải đáp được
câu hỏi vì sao hàng hóa lại có hai thuộc tính: giá trị và giá trị
sử dụng. Bởi họ đều có sự nhầm lẫn giữa lao động tạo ra giá
trị sử dụng và lao động tạo ra giá trị hàng hóa, giữa lao động
kết tinh trong hàng hóa và lao động mà người ta có thể chi
phối được, mua bán được trên thị trường. C. Mác là người đầu
tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất ra
hàng hóa. Ơng chứng minh một cách có phê phán tính chất
hai mặt ấy của lao động chứa đựng trong hàng hóa. Phát hiện
ra tính chất hai mặt của lao động là một cống hiến to lớn của
5


C. Mác, là cơ sở vững chắc cho toàn bộ học thuyết giá trị và
cho việc lý giải những hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực
tế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lao động cụ thể và lao
động trừu tượng là hai khái niệm mới và đóng vai trị cực kỳ
quan trọng trong tồn bộ hệ thống quan điểm của học thuyết
kinh tế giá trị và giá trị thặng dư.
Lao động cụ thể: lao động cụ thể là lao động có ích dưới
một hình thức cụ thể những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động,
cơng cụ phương pháp lao động riêng, kết quả riêng. Lao động
cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.

Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản
phẩm có giá trị sử dụng khác nhau.
Lao động trừu tượng: Lao động trừu tượng là lao động xã
hội của người sản xuất hàng hố khơng kể đến hình thức cụ
thể của nó, đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người
sản xuất hàng hoá về cơ bắp, thần kinh, trí óc
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá
C. Mác chỉ ra mối quan hệ giữa tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa. Bất kỳ lao động nào, một mặt, là sự
chi phí sức lao động giống nhau của người sản xuất, hay lao
động trừu tượng là lao động tạo ra giá trị của hàng hóa. Mặt
khác, bất kỳ lao động nào cũng là sự chi phí sức lao động dưới
một hình thái cụ thể, hay lao động cụ thể là lao động tạo ra
giá trị sử dụng của hàng hóa. Các lao động cụ thể khác nhau
về chất, còn lao động trừu tượng chỉ khác nhau về lượng.

6


Từ đây, lao động sản xuất hàng hóa vừa là lao động tư
nhân, lại vừa là lao động xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư
nhân và lao động xã hội này chính là mâu thuẫn cơ bản của
nền sản xuất hàng hóa.     
Như vậy, nội dung này được xem là nội dung đóng vai
trị nhân tố cơ bản của học thuyết giá trị của kinh tế chính trị
học Marx. Nó phản ánh bản chất bên trong và những biểu
hiện phong phú bên ngoài của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng
giá trị hàng hoá

Lượng giá trị của hàng hoá
Giá trị của hàng hoá là do lao động xã hội, trừu tượng
của người sản xuất ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy
lượng giá trị của hàng hoá là lượng lao động đã hao phí để tạo
ra hàng hố
Lượng lao động đã hao phí được tính bằng thời gian lao
động, thời gian lao động này phải được xã hội chấp nhận,
không phải là thời gian lao động của đơn vị sản xuất cá biệt,
mà là thời gian lao động xã hội cần thiết
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để
sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện
bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình,
cường độ lao động trung bình
Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng
hoá được sản xuất bao hàm: Hao phí lao động quá khứ + hao
phí lao động mới kết tinh thêm
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá
7


Một là, Năng xuất lao động: năng xuất lao động là năng
lực sản xuất của người lao động được tính bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời
gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
Năng xuất lao động tăng lên sẽ làm giảm lượng thời gian
hao phí lao động cần thiết trong một đơn vị hàng hoá, do vậy,
năng xuất lao động tăng lên sẽ làm cho lượng giá trị của một
hàng hoá thay đổi theo tỷ lệ thuận với lượng lao động thể
hiện trong hàng hoá đó và tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của
lao động

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng xuất lao động gồm:
Trình độ khéo léo trung bình của người lao động; mức độ phát
triển của khoa học và trình độ áp dụng khoa học vào quy trình
cơng nghệ; Sự kết hợp xã hội của q trình sản xuất; Quy mơ
và hiệu xuất của tư liệu sản xuất; điều kiện tự nhiên
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của
hoạt động lao động trong sản xuất
Tăng cường độ lao động là tăng mức dộ khẩn trương,
tích cực của hoạt động lao động. Tăng cường độ lao động làm
cho tổng số sản phẩm tăng lên, tổng lượng giá trị của tất cả
hàng hố gộp lại tăng lên.
Hai là, tính phức tạp của lao đông:
Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành
lao động giản đơn và lao động phức tạp
Lao động giản đơn là lao động khơng địi hỏi có q trình
đào tạo một cách hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ
năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.

8


Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu
phải trải qua một quá trình đào tạo về kĩ năng, nghiệp vụ theo
yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định
1.3. Tiền tệ
Nguồn gốc và bản chất của tiền:
Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây là hình thái ban đầu của giá trị xuất hiện trong thời kì sơ khai của
trao đổi hàng hố. Khi đó, việc trao đổi giữa các hàng hố với nhau mang tính
ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp hàng hố này lấy hàng hố khác

Ví dụ: 1A= 2B
Ở đây, giá trị ẩn chứa trong hàng hoá A được biểu hiện ra ở hàng hố
B, với thuộc tính tự nhiên của mình hàng hố B trở thành hiện thân của giá trị
hàng hoá A. Sở dĩ như vậy là bởi vì bản thân hàng hố B cũng có giá trị.
Hàng hố A mà giá trị sử dụng của nó được dùng để biểu hiện giá trị của hàng
hoá B được gọi là hình thái vật ngang giá.
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:
Khi trình độ phát triển sản xuất hàng hoá được nâng lên, trao đổi trở
nên thường xun hơn, một hàng hố có thể được đặt trong mối quan hệ với
nhiều hàng hố khác, hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng xuất hiện
Thí dụ: 1A =2B; Hoặc = 3C; Hoặc = 5D; hoặc = 6E,…
Hình thái chung của giá trị:
Việc trao đổi trực tiếp sẽ trở nên khơng cịn thích hợp khi trình độ sản
xuất hàng hoá phát triển cao hơn, chủng loại hàng hoá phong phú hơn, trình
độ sản xuất lúc này thúc đẩy sự hình thành hình thái chung của giá trị
Thí dụ: 2B; hoặc 3C; Hoặc 5D, hoặc … =1A
Hình thái tiền:
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn
nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường sẽ ngày càng mở rộng, thì tình hình có
nhiều vật làm ngang giá chung sẽ gây trở ngại cho trao đổi giữa các địa
9


phương trong một quốc gia. Do đó, địi hỏi khách quan là cần có một loại
hàng hố làm vật ngang giá chung tốt nhất
Thí dụ: 2B; 3C; 4D;,… =0,1gr vàng
Vàng trong trường hợp này trở thành vật ngang giá chung cho thế giới
hàng hố, trở thành hình thái tiền của giá trị.
Như vậy tiền, về bản chất, là một loại hàng hố đặc biệt, là kết quả của
q trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá, tiền xuất hiện là yếu tố

ngang giá chung cho thế giới hàng hố. Tiền là hình thái biểu hiện giá trị của
hàng hoá. Tiền phản ánh lao động xã hội và mối quan hệ giữa những người
sản xuất và trao đổi hàng hố. Hình thái đơn giản là mầm mống sơ khai của
tiền
Chức năng của tiền:
Thước đo giá trị:
Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác.
Muốn đo lường giá trị các hàng hoá, bản thân tiền phải có giá trị. Để
thực hiện chức năng đo lường giá trị, không nhất thiết phải là tiền mặt, chỉ cần
so sáng với một lượng vàng nhất định một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể
thực hiện như vậy, vì giữa các giá trị của vàng và giá trị của hàng hố trong
thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ này là thời gian lao động xã
hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra hàng hố đó
Giá trị hàng hố được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá.
Giá cả hàng hố như vậy là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hoá. Giá trị là cơ sở của giá cả. Giá cả có thể lên xuống bởi tác động của
nhiều yếu tố như:
Gía trị của hàng hoá
Giá trị của tiền
Ảnh hưởng quan hệ cung cầu
Phương tiện lưu thông

10


Khi thực hiện chức năng lưu thông, tiền được dùng làm mơi giới cho
q trình trao đổi hàng hố.
Để thực hiện chức năng lưu thơng, cần có tiền mặt.
Phương tiện cất trữ
Thực hiện phương tiện cất trữ, tiền rút ra khỏi q trình lưu thơng để đi

vào cất trữ. Thực hiện được phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị như
tiền vàng, tiền bạc. Là dự trữ tiền cho lưu thông, sẵn sàng tham gia lưu thông.
Phương tiện thanh toán:
Tiền được dùng để trả nợ, trả tiền mua hàng hoá,…. Tiền làm phương
tiện thanh toán, thực hiện chức năng thanh tốn, có nhiều hình thức tiền khác
nhau được chấp nhận.
Tiền tệ thế giới:
Khi trao đổi hàng hoá mở rộng ra biên giới quốc gia, tiền làm chức
năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm phương tiện mua bán, thanh
toán quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải
có đủ giá trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được cơng nhận là
phương tiện thanh tốn quốc tế.

11


2. Sự vận dụng lý luận Các Mác về sản xuất hàng hoá vào phát triển kinh
tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
Vận dụng sáng tạo nội dung lý luận về sản xuất hàng
hoá, Đảng ta đã quyết tâm từ bỏ mơ hình kinh tế bao cấp sơ
cứng, khơng phù hợp chỉ có 2 thành phần kinh tế: Quốc doanh
và tập thể; khơng thị trường, khơng có quan hệ trao đổi mua
bán theo đúng nghĩa, khơng có cạnh tranh và khơng có liên
doanh liên kết kinh tế… Thay thế bằng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế
tham gia, sử dụng quan hệ hàng - tiền làm phương thức vận
động, thực hiện trao đổi mua bán sản phẩm trên thị trường
theo đúng quy luật giá trị - quy luật kinh tế của sản xuất hàng
hóa. Chủ trương này đã đạt được những thành công lớn trong
sự phát triển kinh tế hơn 20 năm qua.

Cạnh tranh là quy luật vốn có của sản xuất và lưu thơng
hàng hóa - một động lực mạnh trong kinh tế thị trường. Cạnh
tranh thúc đẩy sản xuất hàng hóa và thị trường phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn điệu đến phong phú. Cấm đoán cạnh
tranh là thủ tiêu mất một động lực mạnh của sản xuất hàng
hóa.
Liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa
kinh tế trong nước với kinh tế ngoài nước, là sự cần thiết, xuất
phát từ yêu cầu phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh. Liên
doanh liên kết còn nhằm mục tiêu nâng cao tiềm lực vốn, kỹ
thuật, sức mạnh trong cạnh tranh và khả năng sản xuất kinh
doanh của từng đơn vị xí nghiệp, các chủ thể tham gia liên
doanh liên kết đều có lợi, làm giàu chính đáng cho mình, cho
12


tập thể thì đồng thời cũng làm giàu cho xã hội. Lợi ích tồn
dân, tập thể và lợi ích cá nhân được kết hợp hài hòa với nhau
Vận dụng lý thuyết hàng hóa - tiền tệ, để cải thiện năng lực cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam có thể cần quan tâm đến
các vấn đề sau:
Thứ nhất, do lượng giá trị hàng hóa tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của
lao động, nên hạ thấp giá trị hàng hóa bằng cách khơng ngừng tăng sức sản
xuất, tăng năng suất lao động. Giải pháp cụ thể là nâng cao trình độ của người
lao động, nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến tổ
chức và quản lý sản xuất, khai thác hợp lý các điều kiện tự nhiên đi đôi với
bảo vệ mơi trường.
Thứ hai, giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội nên
người sản xuất phải tổ chức nghiên cứu thị trường để xác định thị trường cần
chủng loại hàng hóa, dịch vụ, sản lượng hàng hóa, dịch vụ. Sản xuất hàng hóa

ngắn hạn hay dài hạn. Bên cạnh đó, cần xác định hao phí lao động là bao
nhiêu để hướng tới đáp ứng từng bộ phận của thị trường. Nói cách khác,
người sản xuất phải bán cái người mua cần.
Thứ ba, giá cả thị trường của hàng hóa phụ thuộc vào nhiều nhân tố
như giá trị thị trường của hàng hóa, giá trị của tiền, quan hệ cung - cầu và
quan hệ cạnh tranh. Do đó, giá cả hàng hóa thường xuyên vận động xoay
quanh giá trị thị trường nên cả người mua lẫn người bán cần phải nắm vững
và dự báo đúng sự biến động của giá cả thị trường để có những quyết định
đúng đắn.
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân cơng lao động xã hội,
chun mơn hóa sản xuất. Vì thế, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên,
xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng,
từng địa phương. Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác
13


động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân cơng lao động xã hội, làm cho
chun mơn hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các
vùng ngày càng trở lên mở rộng, sâu sắc. Từ đó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo
thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao
động xã hội tăng lên nhanh chóng.
Ở nền sản xuất hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng còn bị giới hạn bởi
nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ
sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu
và nguồn lực của xã hội.
Sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là
quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh, … buộc người sản xuất hàng hóa phải
ln ln năng động, nhạy bén, biết tính tốn, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa
sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế, cải
tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, …

Nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao
lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng miền của cả nước không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao
hơn, phong phú hơn rất nhiều.
Ở nước ta đang tồn tại hệ thống phân công lao động do lịch sử để lại
với nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, nhiều
ngành nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công lao động ở nước ta trở nên
phong phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hóa phát triển. Phân cơng lao động
xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những không mất đi, trái lại
ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Xét về phạm vi, phân
công lao động xã hội không chỉ diễn ra trên phạm vi quốc gia mà cịn mở
rộng trên quy mơ quốc tế. Nền kinh tế của mỗi quốc gia trở thành bộ phận của
nền kinh tế thế giới, cùng hợp tác, các quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng
14


phát triển. Mỗi quốc gia chỉ lựa chọn phát triển một số ngành, một số lĩnh vực
phát triển lợi thế của quốc gia mình. Việt Nam trên thế giới là một đất nước
thuận lợi về phát triển nơng nghiệp. Vì vậy, những mặt hàng xuất khẩu ra
nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm của nông nghiệp. Hiện nay,
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (sau Thái Lan). Phân
công lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của nền kinh tế
tự nhiên khép kín, tạo cơ sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau giữa những người
sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động.
Sự phân công lao động của ta đã ngày càng chi tiết hơn đến từng
ngành, từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là tồn bộ nền kinh tế quốc dân;
có sự chun mơn hóa hình thành các vùng kinh tế, các ngành kinh tế. Hiện
nay, nước ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm đó là: Vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ (gồm Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc); vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (gồm Thừa thiên – Huế, Đà

Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); vùng kinh tế trọng điểm Nam
Bộ (gồm TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Tây
Ninh, Bình Phước, Long An, Tiền Giang); và vùng kinh tế trọng điểm vùng
đồng bằng sông Cửu Long (gồm TP. Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà
Mau). Hiện nay ta đã có hàng loạt các thị trường được hình thành từ sự phân
cơng lao động đó là: Thị trường công nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,…
Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển giúp ta nhanh
chóng hồ nhập được với kinh tế trong khu vực và thế giới.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất được thể hiện rất
rõ trong thời kỳ Việt Nam sau đổi mới. Việt Nam thừa nhận sự xuất hiện của
tư hữu. Ngoài những doanh nghiệp nhà nước như: tập đoàn điện lực Việt
Nam, tập đồn dầu khí Việt Nam, tập đồn xăng dầu Việt Nam, ngân hàng
nơng nghiệp và phát triển nơng thơn, tập đồn cơng nghiệp than khống sản
15


Việt Nam, … Hiện nay cịn có nhiều doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở Việt
Nam, đó là tập đồn Vingroup, công ty cổ phần ôtô Trường Hải, công ty cổ
phần tập đồn vàng bạc đá q Doji, cơng ty cổ phần đầu thư thế giới di động,
công ty cổ phần FPT,… Không những thế, các doanh nghiệp tư nhân cịn có
những thành tựu đáng ghi nhận trong sản xuất kinh doanh. Tại bảng xếp hạng
top 500 doanh nghiệp lớn nhất cả nước, bao gồm các khối doanh nghiệp Nhà
nước, FDI và tư nhân - Vingroup đã vươn từ vị trí 28 năm ngối lên vị trí 11
năm 2017
Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động: sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân,
sở hữu tập thể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp, đồng sở hữu,… tương ứng với nó là các doanh
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,…
Chế độ xã hội hoá sản xuất giữa các ngành, các xí nghiệp trong cùng

một hình thức sở hữu vẫn chưa đều nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế
của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại của các thành phần
kinh tế là một tất yếu khách quan. Ở nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu
đa dạng về tư liệu sản xuất và ứng với nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó
tạo nên sự độc lập về mặt kinh tế giữa các thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng
có tác dụng làm cho hàng hóa phát triển.
Có thể thấy Việt Nam hiện nay tồn tại đầy đủ hai điệu kiện của sản xuất
hàng hóa. Do đó, sản xuất hàng hóa tồn tại ở Việt Nam là một tất yếu.
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ là phương thức, thị trường là
mơi trường để kinh tế hàng hóa tồn tại và phát triển trong bất
kỳ chế độ xã hội nào, còn bản chất của một nền sản xuất
hàng hóa thì do bản chất quan hệ sản xuất xã hội quyết định.
Trong những xã hội có tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân tư
16


bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nền sản xuất hàng hóa ở
đó tất yếu mang bản chất tư bản chủ nghĩa. Ở đây, sự phân
hóa giàu nghèo và tình trạng người bóc lột người là khơng thể
tránh khỏi. Đối với nước ta có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có
Nhà nước chun chính vơ sản của dân, do dân, vì dân, có
chế độ cơng hữu xã hội chủ nghĩa về những tư liệu sản xuất
chủ yếu, có sự quản lý của Nhà nước đối với thị trường thì nền
kinh tế hàng hóa ở nước ta dù có cơ cấu nhiều thành phần,
nhưng nó tất yếu đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phục
vụ cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã quyết
tâm xóa bỏ, đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế bao cấp, chuyển
hẳn sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng quan
hệ hàng - tiền để thực hiện các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà

nước với nông dân, công nghiệp với nông nghiệp, giữa các
thành phần kinh tế và giữa sản xuất với tiêu dùng xã hội. Các
xí nghiệp kinh tế trong sản xuất và trong lưu thông đều phải
hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh, lấy thu bù
chi đảm bảo có lãi hợp lý, được hưởng quyền bình đẳng trước
pháp luật trong cạnh tranh thị trường, kể cả ở thị trường trong
nước và thị trường ngồi nước.
Duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa đa thành phần
đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ;
thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là chủ
trương và quyết sách hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước
ta trước mắt cũng như trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Bởi lẽ kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) là
17


thành tựu văn minh của nhân loại và đang là xu thế phát triển
kinh tế khách quan của các nước trên thế giới cũng như của
nước ta.

18


KẾT LUẬN
Lý luận về sản xuất hàng hoá của Các Mác có ý nghĩa rất lớn và là cơ
sở lý luận địi hỏi đảm bảo hồn thiện nền kinh tế thị trường. Việt Nam khi
chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã hội tụ
đủ những điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa. Sự phân cơng lao động xã
hội phát triển mạnh mẽ về chiều rộng lẫn chiều sâu, hình thành nên một hệ
thống ngành nghề phong phú, đa dạng. Sự phát triển của phân công lao động

xã hội đã tạo ra cơ sở cho sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường tại
Việt Nam.Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế đa dạng về sở hữu và nhiều
thành phần kinh tế Việt Nam hiện nay đã làm xuất hiện nhiều chủ thể kinh tế
độc lập khác nhau. Với những cải cách mạnh mẽ môi trường kinh doanh, các
loại hình doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau đã tăng mạnh, đặc
biệt là các doanh nghiệp ngồi quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Sự phát triển nhanh và đa dạng của các chủ thể kinh tế đã thực sự
thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất và trao đổi hàng hóa trong nền kinh tế Việt Nam.

19



×