Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tl tmđt các điều kiện phát triển thương mại điện tử ở việt nam, thực trạng và triển vọng (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.65 KB, 27 trang )

MÔN: THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Đề tài:
CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM, THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
1. Một số lý luận chung về thương mại điện tử.................................................2
1.1 Khái niệm thương mại điện tử.....................................................................2
1.2 Đặc điểm của thương mại điện tử...............................................................4
1.3 Tác động của thương mại điện tử................................................................5
2. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử.................................................6
2.1. Điều kiện chung phát triển thương mại điện tử..........................................6
2.2 Các điều kiện phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam............................9
3. Triển vọng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam................................17
4. Phương hướng phát triển thương mại điện tử Việt Nam trong những năm
tiếp theo...........................................................................................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................22


MỞ ĐẦU
Thương mại điện tử đã và đang trở thành phương thức kinh doanh đem
lại vơ vàn lợi ích cho nhân loại. Thương mại điện tử là phương thức kinh
doanh đại diện cho nền kinh tế tri thức. Ngày nay Thương mại đã phát huy
những điểm mạnh của mình như đẩy nhanh tốc độ kinh doanh, giảm thiểu chi
phí, vượt qua các trở ngại không gian và thời gian… Hiện tại, trên thế giới
khơng có quốc gia nào khơng tham gia vào thương mại điện tử trong đó có cả
Việt Nam. Với xu hướng trên, thương mại điện tử của Việt Nam cũng đang


phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, thương mại điện tử vào Việt Nam cũng
không thể tránh khỏi một số vấn đề mà chúng ta cần giải quyết như tốc độ
đường truyền, độ an tồn thơng tin, những mục tiêu sai lệch trong sử dụng
thương mại điện tử... để nhận thức thấy rõ được rằng chúng ta là ai, chúng ta
đang ở đâu, phải làm gì, và phải có những những điều kiện nào, để thương
mại điện tử thực sự đi vào đời sống nhân dân một cách tích cực nhất, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội một các hiệu quả nhất. Đó là lý do em chọn đê
nghiên cứu đề tài: “Các điều kiện phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam, thực trạng và triển vọng”.

1


NỘI DUNG
1. Một số lý luận chung về thương mại điện tử
1.1 Khái niệm thương mại điện tử
Khi nói về khái niệm thương mại điện tử (E-Commerce), nhiều người
nhầm lẫn với khái niệm của kinh doanh điện tử (E-Business). Tuy nhiên,
thương mại điện tử đôi khi được xem là tập con của kinh doanh điện tử.
Thương mại điện tử chú trọng đến việc mua bán trực tuyến (tập trung bên
ngoài), trong khi đó kinh doanh điện tử là việc sử dụng internet và các công
nghệ trực tuyến tạo ra quá trình hoạt động kinh doanh hiệu quả dù có hay
khơng có lợi, vì vậy tăng lợi ích với khách hàng và tập trung bên trong.
Một số khái niệm thương mại điện tử được định nghĩa bởi các tổ chức
uy tín thế giới như sau:
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO): "Thương mại điện tử bao
gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua
bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu
hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thơng tin số hố thơng qua
mạng Internet1”.

Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: "Thương mại điện tử liên quan đến các
giao dịch thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân)
mang tính điện tử chủ yếu thơng qua các hệ thống có nền tảng dựa trên
Internet.2"

Các

kỹ

thuật

thơng

tin

liên

lạc



thể

là email, EDI, Internet và Extranet có thể được dùng để hỗ trợ thương mại
điện tử.
Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử có thể định nghĩa chung là
sự mua bán, trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình,
1
2


“Electronic commerce”. WTO.

 “Definition: E-Commerce”. APEC.

2


cá nhân, tổ chức tư nhân bằng các giao dịch điện tử thơng qua
mạng Internet hay các mạng máy tính trung gian (thông tin liên lạc trực
tuyến). Thật ngữ bao gồm việc đặt hàng và dịch thơng qua mạng máy tính,
nhưng thanh tốn và q trình vận chuyển hàng hay dịch vụ cuối cùng có thể
thực hiện trực tuyến hoặc bằng phương pháp thủ cơng.”3
Tóm lại, Thương mại điện tử ( Electronic commerce - EC or
E.Commerce ) là một khái niệm được dùng để mơ tả q trình mua và bán
hoặc trao đổi sản phẩm , dịch vụ và thông tin thông qua mạng máy tính , kể cả
internet. Thuật ngữ “Thương mại ( Commerce )” được nhiều người hiểu là
một số giao dịch được thực hiện giữa các đối tác kinh doanh . Vì vậy , thương
mại điện tử cũng thường được hiểu theo nghĩa hẹp là mua và bán trên mạng,
hay mua bán thông qua các phương tiện điện tử.
Thuật ngữ “Thương mại ( Commerce )” trong cuốn sách giáo trình kinh
tế thương mại cịn hiểu theo nghĩa rộng, là các hoạt động kinh tế nhằm mục
tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. 4 Thường được xét
dưới các góc độ sau:
- Xem xét từ góc độ số hố: Thương mại điện tử có thể thực hiện dưới
nhiều hình thức phụ thuộc vào mức độ số hoá của các sản phẩm / dịch vụ mua
bán, quá trình mua bán và cơ quan vận chuyển và giao nhận hàng.
- Xem xét từ góc độ các lĩnh vực kinh doanh: Thương mại điện tử diễn
ra ở hầu khắp các lĩnh vực kinh doanh, thúc đẩy các lĩnh vực đó phát triển
đồng thời tạo nên bản sắc mới của hoạt động kinh doanh trên phạm vi nền
kinh tế thế giới.

- Từ góc độ kinh doanh viễn thơng: Thương mại điện tử là việc chuyển
giao thông tin, sản phẩm hay dịch vụ hoặc thanh tốn thơng qua điện thoại,
mạng máy tính hoặc bất kỳ phương tiện điện tử nào khác.
3
4

 “Glossary:E-commerce”. Euro Commission.

Giáo trình Kinh tế Thương mại,GS.TS. Đặng Đình Đào - GS.TS. Hoàng Đức Thân ( Chủ biên ), NXB Thống Kê,Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, 2003.

3


- Từ góc độ q trình kinh doanh: Thương mại điện tử là việc ứng dụng
công nghệ để tự động hố các giao dịch kinh doanh và các dịng chu chuyển
sản phẩm.
- Từ góc độ kinh doanh dịch vụ: Thương mại điện tử là phương tiện để
các doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà quản lý cắt giảm chi phí dịch vụ
trong khi vẫn nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng tốc độ chuyển giao dịch vụ.
- Từ góc độ trợ giúp trực tuyến: Thương mại điện tử cung cấp khả năng
mua và bán sản phẩm và thông tin trên internet và dịch vụ trực tuyến khác.
1.2 Đặc điểm của thương mại điện tử
- không thể hiện các văn bản giao dịch trên giấy ( Paperless
transactions )
Tất cả các văn bản đều có thể thể hiện bằng các dữ liệu tin học, các
băng ghi âm, hay các phương tiện điện tử khác.
Đặc trưng này làm thay đổi văn hoá giao dịch bởi lẽ độ tin cậy khơng
cịn phụ thuộc vào cam kết bằng giấy tờ mà bằng niềm tin lẫn nhau giữa các
đối tác. Giao dịch không dùng giấy cũng làm giảm đáng kể chi phí và nhân

lực để chu chuyển , lưu trữ và tìm kiếm các văn bản khi cần thiết. Người sử
dụng thơng tin có thể tìm kiếm ngay trong ngân hàng dữ liệu của mình mà
khơng cần người khác tham gia nên bảo vệ được bí mật ý tưởng và cách thức
thực hiện ý đồ kinh doanh. Giao dịch khơng dùng giấy địi hỏi kỹ thuật bảo
đảm an ninh và an tồn dữ liệu mới. Đó là an ninh và an toàn giao dịch
thương mại điện tử.
- Thương mại điện tử phụ thuộc công nghệ và trình độ cơng nghệ
thơng tin của người sử dụng
Để phát triển thương mại điện tử cần phải xây dựng và khơng ngừng
nâng cao trình độ cơng nghệ thơng qua phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của
thương mại điện tử như mạng máy tính và khả năng tiếp nối của mạng với các
4


cơ sở dữ liệu thơng tin tồn cầu. Cùng với cơ sở mạng, thương mại điện tử
cần có đội ngũ nhân viên không chỉ thành thạo về công nghệ mà cịn có kiến
thức và kỹ năng về quản trị kinh doanh nói chung, về thương mại nói riêng.
- Thương mại điện tử phụ thuộc mức độ số hoá ( Thương mại số hoá )
Tùy thuộc vào mức độ số hoá của nền kinh tế và khả năng hội nhập sổ
hoá với nền kinh tế toàn cầu mà thương mại điện tử có thể đạt được các cấp
độ từ thấp đến cao. Cấp độ thấp nhất là sử dụng thư điện tử, đến Internet để
tìm kiếm thơng tin, đến đặt hàng trực tuyến và dịch vụ trực tuyến, đến xây
dựng các website cho hoạt động kinh doanh và cuối cùng là áp dụng các giải
pháp toàn diện về thương mại điện tử ( thương mại điện từ thuần thương mại
điện tử có tốc độ nhanh. Nhờ áp dụng kỹ thuật sổ nên tất cả các bước của quá
trình giao dịch đều được 1 tuý ).
- Ngôn ngữ của công nghệ thông tin cũng cho phép rút ngắn độ dài của
các “ văn bản giao dịch
Các dịch vụ phần mềm ngày càng hoàn hảo, tốc độ đường truyền nhanh
cho phép rút ngắn thời gian soạn thảo, giao tiếp và ký kết các văn bản giao

dịch điện tử. Tất cả những điều này đã làm cho thương mại điện tử đạt tốc độ
nhanh nhất trong các phương thức giao dịch, tạo nên tính cách mạng trong
giao dịch thương mại.
1.3 Tác động của thương mại điện tử
1.3.1. Thay đổi xã hội
Người tiêu dùng bây giờ có thể mua sắm trực tuyến tất cả mọi thứ, từ
sách vở và quần áo đến đồ nội thất hay các dịch vụ họ cần đều được đáp ứng
nhanh thơng qua một trang web, do đó sự riêng tư của người tiêu dùng ngày
nay được bảo mật hơn nhiều. Điều này có thể buộc các cửa hàng hay nhà bán
lẻ lớn hơn mở một kênh bán hàng trực tuyến nếu không muốn bị mất khách.
Trong một số trường hợp, việc mua hàng trực tuyến cũng có thể buộc các
doanh nghiệp nhỏ phải đóng cửa, hoặc thay đổi hồn tồn việc kinh doanh
5


trực tuyến. Nó cũng thay đổi cách mọi người nhìn vào việc mua hàng và chi
tiêu. Không chỉ vậy, thương mại điện tử ra đời nó cũng ảnh hưởng lớn đến thị
trường việc làm. Nó tạo ra các vị trí việc làm mới, địi hỏi trình độ về cơng
nghệ cao hơn như như xuất, nhập dữ liệu, thiết kế website, bảo trì, xử lý thẻ
tín dụng, bảo mật trên Internet, quảng cáo, marketing online,…
1.3.2. Tác động đến nền kinh tế
Có rất nhiều các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau được cung cấp khi
bạn mua hàng trực tuyến. Từ những sản phẩm cá nhân cho đến những mặt
hàng có giá trị như xe máy, xe hơi hay các dịch vụ đi kèm đều được nhà cung
cấp thỏa mãn bạn, ngay cả khi bạn không cần đến cửa hàng.
Bên cạnh đó, thói quen mua hàng, đặt hàng giúp các nhà cung cấp nói
riêng và thị trường hàng hóa nói chung tránh bị tồn kho nhiều hơn trong
truyền thống. Với nhiều mặt hàng và dịch vụ, bạn muốn mua cần phải đặt
hàng mới mua được, điều này cũng làm cho tính cá nhân hóa khi mua hàng
được đẩy mạnh. Ngồi ra, mua hàng online giúp các nhà cung cấp dễ dàng

nắm bắt được xu hướng mua hàng của người tiêu dùng thơng qua các cơng cụ
tìm kiếm.
1.3.3. Ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng
Trong quá khứ, khi người tiêu dùng muốn mua hàng họ phải dành một
quỹ thời gian nhất định để đi mua sắm trong ngày. Ngày nay, nhiều người tiêu
dùng chỉ cần sử dụng điện thoại thông minh, máy tính hay thiết bị điện tử cầm
tay khác để mua sắm trực tuyến. Người mua và người bán khi tham gia vào
bán lẻ trong thương mại điện tử không cịn bị hạn chế bởi giờ mở cửa hàng, vị
trí địa lý. Với một vài cú nhấp chuột đơn giản, họ có thể được truy cập và
mua một loạt các hàng hóa trong 24 giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Có thể
nói, thương mại điện tử đã và đang thay đổi bộ mặt của các cửa hàng bán lẻ,
các nhà cung cấp dịch vụ, nó đem đến ý tưởng làm giàu cho nhiều người,
nhiều công ty, doanh nghiệp và chắc chắn, nó sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng tới
6


người bán, cũng như hành vi mua hàng trực tuyến của người tiêu dùng trong
nhiều năm tới.
2. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử
2.1. Điều kiện chung phát triển thương mại điện tử
Thương mại điện tử không đơn thuần là dùng phương tiện điện tử đề
thực hiện hành vi thương mại truyền thống mà với ứng dụng thương mại điện
tử, toàn bộ nền thương mại của một quốc gia sẽ thay đổi, phương pháp quản
lý truyền thống sẽ kém hiệu quả và cần áp dụng phương pháp quản lý mới,
phương tiện thanh toán mới, phải thay đổi cơ sở nhận thức và hệ thống giáo
dục, tập quán làm việc. Những thay đổi này cho thấy để phát triển thương mại
điện tử cần điều kiện về công nghệ, nhận thức xã hội, luật pháp và an ninh
thương mại.
2.1.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ
Thương mại điện từ là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hố

và cơng nghệ thơng tin. Vì vậy, hạ tầng cơ sở công nghệ của thương mại điện
tử với sự phát triển của kỹ thuật tính tốn điện tử và truyền thông điện tử là
quan trọng. Để phát triển thương mại điện tử, cơ sờ hạ tầng công nghệ phải
bảo đàm tính hiện hữu (Availability), nghĩa là phải có một hệ thống các chuẩn
của doanh nghiệp, của quốc gia và các chuẩn này phải phù hợp với quốc tế.
Các chuẩn này gắn với hệ thống các cơ sở kỹ thuật và thiết bị ứng dụng của
quốc gia như một phân hệ của hệ thống mạng tồn cầu. Cùng với tính hiện
hữu, hạ tầng cơ sở công nghệ của thương mại điện tử cịn phải bảo đàm tính
kinh tế, nghĩa là chi phí của hệ thống thiết bị kỹ thuật và chi phí dịch vụ
truyền thơng phải ở mức hợp lý để bào đàm cho các tổ chức và cá nhân đều
có khả năng chi trả và bảo đảm giá cả của các hàng hoá và dịch vụ thực hiện
qua thương mại điện tử không cao hơn so với thương mại truyền thống.
2.1.2. Hạ tầng cơ sở pháp lý
7


Cơ sờ pháp lý của thương mại điện từ bao gồm hàng loạt các vấn đề
như các đạo luật và chính sách về thương mại điện tử, các quy định cụ thể về
thương mại điện tử trong hệ thống các qui định pháp lý của quốc gia.
Để thương mại điện tử phát triển, hệ thống pháp luật của các quốc gia
phận từng bước được hồn chỉnh để bảo đảm tính pháp lý của các giao dịch
thương mại điện tử, của hợp đồng và các chứng từ điện tử.
Hạ tầng cơ sở pháp lý của thương mại điện tử cịn góp phần đảm bảo
tính pháp lý của sở hữu trí tuệ và chuyển giao cơng nghệ, bảo đảm các bí mật
cá nhân của người tham gia giao dịch thương mại điện tử. Hạ tầng cơ sở pháp
lý của thương mại điện tử cũng bao gồm các vấn đề xử lý các hành vi phá hoại,
những hành vi cản trở hoặc gây thiệt hại cho hoạt động thương mại điện tử ở
phạm vi quốc gia và quốc tế.
Về vấn đề pháp lí có nhiều vấn đề các quốc gia cần phải xử lí như:
- Thừa nhận tính pháp lí của chữ lí điện tử và có các thiết chế pháp lí,

các cơ quan pháp lí thích hợp cho việc xác thực, chứng nhận chữ kí điện tử và
chữ kí số.
- Bảo vệ pháp lí các thanh tốn điện tử ( bao gồm cả việc pháp chế hoá
các cơ quan phát hành các thẻ thanh tốn )
- Quy định pháp lí đối với các dữ liệu có xuất xứ từ nhà nước (các cơ
quan Chính phủ và Trung Ương).
- Bảo vệ pháp lí đối với sở hữu trí tuệ (bao gồm cả bản quyền tác giả )
liên quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử .
- Bảo vệ bí mật riêng tư một cách thích đáng (cần phải ngăn chặn việc
tung tin sai sự thật làm tổn hại đến ngời khác hay các bí mật về đời tư … ) .
- Bảo vệ pháp lí đối với mạng thơng tin, chống tội phạm xâm nhập với
các mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật thay đổi thông tin trên các
trang Web, thâm nhập vào các dữ liệu bất hợp pháp.
2.1.3. Hạ tầng cơ sở nhân lực
8


Để phát triển thương mại điện tử cần phải có con người có trình độ
tương ứng. Con người cấu thành cơ sở nhân lực của thương mại điện tử trước
hết là đội ngũ các chuyên gia tin học, thường xuyên cập nhật những kiến thức
của công nghệ thông tin và có khả năng đưa vào ứng dụng trong mơi trường
và điêu kiện kinh doanh cụ thê. Đội ngũ các chuyên gia cơng nghệ thơng tin
và kỹ thuật máy tính sẽ tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho thương mại điện tử.
Đồng thời với các chuyên gia công nghệ thơng tin và kỹ thuật máy tính, các
nhà kinh doanh, những người quản lý, các chuyên viên và các khách hàng tiêu
thụ cũng phải có khả năng tham gia thương mại điện tử với trình độ nhất định
về cơng nghệ thông tin, về ngoại ngữ và kỹ năng giao dịch trên mạng.
2.1.3. Nhận thức xã hội
Phát triển thương mại điện tử cần phải có sự nhận thức sâu sắc của
chính phủ, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược và toàn xã hội về

cơ hội phát triển và những lợi ích mà nó mang lại. Chính phủ phải nhận thức
được- cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử để thiết lập môi trường kinh tế,
xã hội và pháp lý cho thương mại điện tử. Các nhà quản lý, các nhà hoạch
định chiến lược nhận thức được cơ hội và lợi ích của thương mại điện tử để
vạch chiến lược phát triển và đề ra giải pháp thích hợp. Từ chiến lược và giải
pháp đó mà có kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ, có chính sách
phát triển. Tồn xã hội nhận thức được cơ hội và lợi ích của thương mại điện
từ để tham gia vào hoạt động thương mại điện tử với tư cách là những chủ thể
của quá trình.
2.1.4. Bào mật, an tồn
Thương mại điện từ có thể bị thiệt hại bởi sự đột nhập từ bên ngoài bời
các hacker để ăn cắp dữ liệu, mạo quan hệ, phá hỏng hệ thống thanh toán,
chiếm dụng tiền, v.v... Việc giả mạo địa chi internet (IP spooíing) để mua
hàng bất hợp pháp, phong toả các dịch vụ (Denial of Service - DOS) làm mất
khả năng cung ứng và sử dụng dịch vụ có hiệu quả thường xảy ra trong
9


thương mại điện tử. Do những vấn đề này, thương mại điện tử đặt ra đòi hỏi
cao về bào mật và an toàn. Để đáp ứng yêu cầu bảo mật và ạn toàn, thương
mại điện tử cần gắn kết với các kỹ thuật bảo mật như mã hố (Cryptography).
các cơng nghệ bảo mật như SSL (Secure Sockets Layer), SET (Secure
Electronic Transaction) và chữ ký điện từ (Electronic signature), chữ ký số
hố (Digital signature).
2.1.5. Sở hữu trí tuệ
Thương mại điện từ không chi vận dụng cho mua bán các sản phẩm
hữu hình mà cịn áp dụng cho mua bán những sàn phẩm vơ hình, chuyển giao
tri thức và kinh nghiệm, chia sẻ các dữ liệu, chuyển giao công nghệ, các sản
phẩm phần mêm. Tất cả những sản phẩm này có chung một đặc điểm là dễ
nhân bản và khó giữ bản quyền. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là bào vệ sờ hữu trí

tuệ và bản quyền các thơng tin trong thương mại điện tử để bào vệ quyền sở
hữu và sử dụng tài sản cho người mua và quyền được hường lợi của người
bán. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này, tình trạng những người chủ thực sự
của các tài sản vơ hình sẽ bị vi phạm quyền lợi, hàng hố thơng tin sẽ khơng
được chia sẻ bằng con đường mua bán trên thị trường mà thông qua những
cách thức gian lận.
2.1.6. Bảo vệ người tiêu dùng
Trong thương mại điện tử, trước khi mua, khách hàng khơng có điều
kiện để đánh giá trực quan sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ. Những thơng tin
về hàng hố và dịch vụ mà khách hàng nhận được để đánh giá các phương án
khi đi đến quyết định mua đều dựa trên dữ liệu các trang web do người bán
cung cấp. Điều này dẫn đến một vấn đề là phải có những qui định và tổ chức
để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Các tổ chức và qui định bảo vệ người tiêu
dùng cần xây dựng trên các phương diện đảm bảo chất lượng hàng hoá và
dịch vụ, tăng độ tin cậy của các dữ liệu, bảo đảm bí mật các thông tin.
2.2 Các điều kiện phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
2.2.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ
10


Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy tầm quan
trọng của TMĐT và đã có những hoạch định, chính sách nhằm phát triển
TMĐT một cách cụ thể.
Cụ thể như quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông và
Internet Việt Nam đến năm 2010 với các mục tiêu như:
- Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thơng có cơng nghệ hiện
đại ngang tầm các nước trong khu vực, có độ bao phủ rộng khắp trên cả nước
với dung lượng lớn, chất lượng cao, cung cấp đa dịch vụ và hoạt động có hiệu
quả.
- Viễn thông và Internet trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tỷ

trọng đóng góp cho tăng trưởng GDP ngày càng tăng, tạo nhiều việc làm cho
xã hội. Tốc độ tăng trưởng đạt 1,5 - 2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của
nền kinh tế; đến năm 2010, tổng doanh thu dịch vụ viễn thông và Internet đạt
khoảng 55 nghìn tỷ đồng (3,5 tỷ USD).
- Cung cấp các dịch vụ viễn thông và Internet với chất lượng tốt, giá
cước hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng dịch vụ.
- Bảo đảm an tồn, an ninh thơng tin cho các hoạt động ứng dụng và
phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội.
- Đẩy nhanh việc phổ cập viễn thông và Internet trên phạm vi cả nước,
rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ giữa các vùng, miền, tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh, quốc
phòng.
Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt
Nam đến năm 2010 của Thủ tướng chính phủ đã thể hiện sự nhìn nhận đúng
đắn và quyết tâm của chính phủ trong việc gia nhập xã hội thơng tin. Riêng về
pháp lý có hàng loạt vấn đề phải xử lý:
- Thừa nhận tính pháp lý của giao dịch thương mại điện tử.
11


- Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử (electronic signature) (tức
chữ ký dưới dạng số đặt vào một thông điệp dữ liệu (data message), và chữ ký
số hoá (digital signature) (tức biện pháp biến đổi nội dung thơng điệp dữ liệu
khi dùng mã khố để giải mới thu được nội dung thật của thông điệp dữ liệu);
và có các thiết chế pháp lý, các cơ quan pháp lý thích hợp cho việc xác
thực/chứng nhận (authentication/certification) chữ ký điện tử và chữ ký số
hoá.
- Bảo vệ pháp lý các hợp đồng thương mại điện tử
- Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử (bao gồm cả việc pháp chế hoá

các cơ quan phát hành các thẻ thanh tốn). Quy định pháp lý đối với các dữ
liệu có xuất xứ từ Nhà nước (các cơ quan chính phủ và trung ương), chính
quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước trong đó có các vấn đề phải giải
quyết như: Nhà nước có phải là chủ nhân của các thơng tin có quyền được
cơng khai hố và các thơng tin phải giữ bí mật hay khơng? Người dân có
quyền địi cơng khai hố các số liệu của chính quyền hay khơng? Khi cơng
khai hố thì việc phổ biến các số liệu đó có được xem là một nguồn thu cho
ngân sách hay không? v.v.).
2.1.2. Hạ tầng cơ sở pháp lý
Theo xu thế phát triển thương mại điện tử của các quốc gia và khu vực,
vào cuối năm 2005, Việt Nam cũng ban hành Luật giao dịch điện tử. Luật
giao dịch điện tử của Việt Nam đã đề cập tới: Giá trị pháp lý của thông điệp
dữ liệu điện tử, giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng từ điện tử; hợp
đồng điện tử; giao dịch điện tử của các cơ quan nhà nước; bảo mật, an toàn,
an ninh; sở hữu trí tuệ trong giao dịch điện tử thuộc các lĩnh vực dân sự,
thương mại, hành chính và các lĩnh vực khác.
Luật giao dịch điện tử Việt Nam gồm 8 chương, 54 điều. Trong Điều 4
của luật giao dịch điện tử đã đưa ra một số định nghĩa: “Giao dịch điện tử là
các giao dịch bằng các phương tiện điện tử” trong đó “Phương tiện điện tử là
phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính,
12


truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự”. Luật
giao dịch điện tử năm 2005 lần đầu tiên chấp nhận giá trị pháp lý của các
thông điệp dữ liệu điện tử và chứng từ điện tử. Theo luật giao dịch: “Thông
điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ
bằng phương tiện điện tử”.
Sau khi Luật giao dịch điện tử đi vào hiệu lực được 3 tháng thì Việt
Nam ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP vào ngày 9/6/2006. Nghị định

57 thừa nhận chứng từ điện tử có giá trị pháp lý tương đương với chứng từ
truyền thống trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Nghị định này là cơ sở
giải quyết các tranh chấp, bảo vệ hợp pháp các bên tham gia vào các hoạt
động thương mại điện tử.
Như vậy, có thể thấy rằng Đảng, Nhà nước ta đã thật sự quan tâm đến
TMĐT tạo cơ sở pháp lý sẵn sàng cho sự phát triển của TMĐT dưới sự kiểm
soát của Nhà nước.
2.1.3. Hạ tầng cơ sở nhân lực
Tại Việt Nam, xu hướng kinh doanh thương mại điện tử bắt đầu phát
triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Theo thống kê của Hiệp hội Thương
mại điện tử Việt Nam (VECOM), năm 2017, có hơn 210 website liên quan
đến TMĐT được thành lập với doanh thu đạt trên 2 tỷ USD, tốc độ tăng
trưởng 20% so với năm 2016. Có thể nói, ngành TMĐT đang có thế mạnh và
tiềm năng phát triển trong nền kinh tế hiện nay.
Tốc độ phát triển nhanh của ngành thương mại điện tử kéo theo nhu
cầu nguồn nhân lực ngày càng cao. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt
Nam hiện đang cần nguồn lao động có trình độ về cơng nghệ thông tin và
thương mại điện tử, bởi kinh doanh trên mạng xã hội và sàn giao dịch thương
mại điện tử đang đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Theo Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin (Bộ Công
Thương), căn cứ kết quả khảo sát hàng năm đối với một bộ phận ứng dụng
13


thường xuyên thương mại điện tử, có hơn 80% doanh nghiệp tham gia khảo
sát (tương đương hơn 1.000 doanh nghiệp) cho thấy, nhu cầu nhân lực thương
mại điện tử được đào tạo là rất cần thiết đối với chính doanh nghiệp đó. Trong
giai đoạn tới, nhu cầu này sẽ tăng lên rất nhiều khi Việt Nam trở thành quốc
gia có hàm lượng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, sản
xuất kinh doanh lớn, do đó việc tiến hành trao đổi thương mại qua mạng sẽ

ngày càng phổ biến hơn.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực thương mại điện tử, thực tế nguồn
nhân lực ngành thương mại điện tử cần có kiến thức rộng trong nhiều lĩnh vực
như kinh tế, công nghệ thông tin, quản trị và ngoại ngữ nên đòi hỏi thời gian
đào tạo dài, các lớp ngắn hạn và dạy nghề chỉ giải quyết tạm thời trong thời
điểm thiếu nhân lực. Do vậy, đào tạo chính quy dài hạn tại các cơ sở giáo dục
đại học, cao đẳng trở thành “cứu cánh” cho nhân lực của thương mại điện tử.
Để thúc đẩy thương mại điện tử phát triển, thời gian qua, Bộ Công Thương đã
chú trọng tăng cường các hoạt động đào tạo chính quy thương mại điện tử để
gia tăng nguồn nhân lực chất lượng cao. Số liệu thống kê của Cục thương mại
điện tử và Công nghệ thông tin cho thấy, trong giai đoạn 2005-2015, các
trường đại học và cao đẳng đào tạo có chuyên ngành đào tạo TMĐT đã được
bổ sung và nâng lên trên 90 trường. Năm 2017, một số trường tiếp tục mở
rộng lĩnh vực đào tạo TMĐT, nâng số trường đào tạo ngành TMĐT lên
khoảng 110 trường… Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã chủ động liên kết với
các trường đại học, cao đẳng và trung cấp để đào tạo và tuyển dụng lao động
theo yêu cầu, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên/người lao động có
việc làm ổn định, có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Không chỉ đối với doanh
nghiệp mà tại một số cơ sở đào tạo cũng đã có những "hợp đồng tay ba" giữa
nhà trường - học viên – doanh nghiệp bảo đảm đào tạo theo yêu cầu doanh
nghiệp và học viên ra trường có ngay việc làm với mức lương ổn định.

14


Tuy nhiên, nguồn nhân lực cho TMĐT ở nước ta hiện nay vẫn đang
thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng, bởi đa số các ứng viên trong lĩnh vực
này chưa được đào tạo bài bản, chuyên sâu. Chẳng hạn, kỹ năng về quản trị
website và sàn giao dịch TMĐT đang là nhu cầu lớn đối với các DN nhưng
theo khảo sát, có 46% DN gặp khó khăn khi tuyển dụng lao động có kỹ năng

này. Ngồi ra, đối với các kỹ năng khác, DN cũng gặp khơng ít khó khăn, cụ
thể, kỹ năng khai thác, sử dụng các ứng dụng TMĐT (45%); Kỹ năng cài đặt
chế độ, ứng dụng, khắc phục sự cố thông thường của máy vi tính (42%); Kỹ
năng xây dựng kế hoạch, triển khai dự án TMĐT (42%); Kỹ năng quản trị cơ
sở dữ liệu (42%); Kỹ năng tiếp thị trực tuyến (35%); Kỹ năng triển khai thanh
tốn trực tuyến (30%).
2.1.4. Nhận thức xã hội
Chính phủ từng nước phải quyết định xem xã hội thông tin nói chung
và internet nói riêng là một hiểm hoạ hay là một cơ hội. Quyết định đó khơng
dễ dàng, ngay một nước hiện đại như Pháp cũng phải tới năm 97-98 mới
quyết định được và tuyên bố rằng "đây là cơ hội" (sau một thời gian dài
chống lại internet vì nó chiếm mất vị trí của mạng Minitel vốn rất phổ biến
trong nội bộ nước Pháp). Từ khẳng định mang tính nhận thức chiến lược ấy
mới quyết định thiết lập môi trường kinh tế, pháp lý, và xã hội (kể cả văn hoá,
giáo dục) cho nền kinh tế số hố nói chung và cho thương mại điện tử nói
riêng (ví dụ quyết định đưa vào mạng các dịch vụ hành chính, các dịch vụ thu
trả thuế, và các dịch vụ khác như thư tín, dự báo thời tiết, thơng báo giờ tàu xe
v.v.), và đưa các nội dung của kinh tế số hoá vào văn hoá và giáo dục các cấp.
Hiện nay, nhìn chung Đảng, Nhà nước và tồn dân ta đã ý thức, nhận
thức được tầm quan trọng và lợi ích của TMĐT đem lại, đặc biệt thể hiện rõ
nhất trong mùa dịch Covit mới đây, khi có sự giãn cách xã hội diễn ra nhưng
việc mua sắm vẫn có thể diễn ra bình thường trên mạng internet. Hiện nay
người dân không chỉ tham gia TMĐT để mua những món đồ “lạ” mà ở nơi
mình sống khơng có, mà mọi thứ đều được mua trên mạng internet cụ thể như
15


thùng mì tơm, lon nước ngọt, một miếng thịt lợn, … hay vài bộ quần áo, một
đơi dép, thậm trí là cả một cái dây buộc tóc bé xíu. Như vậy có thể thấy rằng
TMĐT đang là xu hướng chung và nó đang phát triển một cách nhanh,

mạnh.2.1.5. Bào mật, an tồn
Việt Nam hiện chưa có Luật về bảo vệ thông tin cá nhân. Xét đặc thù
của tập quán kinh doanh và môi trường thương mại truyền thống, bản thân
vấn đề thơng tin cá nhân cũng cịn tương đối mới mẻ với nhiều doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trước sức ép của quá trình hội nhập, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của việc tạo lập khung pháp lý điều
chỉnh vấn đề này. Tiếp sau Luật Giao dịch điện tử ban hành năm 2005, Luật
Công nghệ thông tin ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã có những quy
định mang tính ngun tắc về việc bảo vệ thông tin cá nhân trong môi trường
điện tử. Điều 46 Luật Giao dịch điện tử quy định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân
không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thơng tin về bí mật đời tư hoặc
thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm sốt
được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Cũng trong năm 2006, nhiều Bộ ngành có liên quan đang bắt đầu triển
khai tiếp cận thực tiễn để nghiên cứu xây dựng các biện pháp chế tài đối với
hành vi phạm tội trong lĩnh vực cơng nghệ cao nói chung và thương mại điện
tử nói riêng. Hiện nay, việc xử lý các hành vi tội phạm trên mạng chủ yếu dựa
vào một số văn bản pháp quy sau: - Luật Giao dịch điện tử - Bộ Luật Hình sự
năm 1999 - Nghị định số 55/2001 về Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ
Internet - Quyết định 71/2004/QĐ-BCA về Đảm bảo an toàn và an ninh trong
hoạt động cung cấp, sử dụng Internet tại Việt Nam.
Tuy nhiên, tất cả những văn bản pháp quy này được đánh giá là mới chỉ
hỗ trợ phần nào cho việc “định tội”, chứ chưa giúp cho việc “định khung”
hình phạt đối với những hành vi tội phạm trên môi trường mạng. Do đó, các
cơ quan điều tra xét xử hiện vẫn gặp khó khăn trong khâu xử lý tội phạm ngay
16


cả khi đối tượng và hành vi phạm tội đã được kết luận rõ. Những ví dụ nổi bật

nhất của năm 2006 là các hành vi ph
Cụ thể, hiện nay khi tham gia giao dịch trên mạng TMĐT hay trên bất
kỳ sàn TMĐT nào thì cũng cần yêu cầu xác minh rât cận thận, nếu bạn đã
từng dùng Shopee một sàn TMĐT cũng đã biết, từ bước xác nhận đơn hàng,
xác nhận thanh toán trực tuyến, đến lúc nhận hàng chúng ta sẽ đều được ký
xác nhận, thậm trí là chụp hình để đảm bảo an tồn cho hàng hóa đến tay
người tiêu dùng. Ngoài ra, khách hàng mua hàng hoặc đánh giá sản phẩm có
thể ẩn tên, đây là điều mà khá nhiều bạn thích bởi lẽ nó mang tính riêng tư
cao.
2.1.6 Sở hữu trí tuệ
Tại Việt Nam, chính phủ cũng sớm nhận ra được vai trò của bảo hộ bản
quyền trong nền kinh tế số. Việt Nam đã tham gia cơng ước Berne vào
10/2004. Ngồi ra, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ vào
ngày 25/11/2005 và có hiệu lực vào ngày 1/7/2006. Luật Sở hữu trí tuệ 2006
chủ yếu tập trung cho bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, giống
cây trồng. Phổ biến nhất hiện nay tại nước ta là vấn đề vi phạm bản quyền
phần mềm. Ngồi ra cịn có việc sao chép tác phẩm để in sách, làm sách lậu,
bản quyền tác phẩm âm nhạc… Trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương,
Việt Nam đang đứng thứ ba chỉ sau Trung Quốc và Indonesia về vi phạm bản
quyền phần mềm. Trước thực trạng vi phạm bản quyền như vậy thì ngày
22/2/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 04/2007/CT-TTg về tăng
cường bảo vệ bản quyền tác giả đối với chương trình máy tính.
Do đó, việc sử dụng tên miền cũng đã được qui định trong khoản 3
Điều 68 Luật Công nghệ thông tin và điểm D khoản 1 Điều 130 của Luật Sở
hữu trí tuệ. Theo khoản 3 Điều 68 Luật Công nghệ thông tin quy định: “Tổ
chức, cá nhân sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về mục đích sử dụng và tính chính xác của các thông
17



tin đăng ký và bảo đảm việc đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia không xâm
phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác có trước ngày
đăng ký”. Còn theo điểm D khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi
đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác
hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình khơng có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm
giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu,
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng bị coi là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh.
2.2.7. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Để khắc phục những nhược điểm của TMĐT, hướng đến mơi trường
kinh doanh lành mạnh có lợi cho người tiêu dùng, bà Nguyễn Thị Phương
Trang, Cục TMĐT và Kinh tế số, cho biết, Ủy ban Điều phối TMĐT ASEAN
đã ban hành những hướng dẫn liên quan đến trách nhiệm của người trung gian
trực tuyến. Theo đó, quy định những quy trình mua bán sản phẩm trực tuyến
và trách nhiệm của sàn giao dịch, của bên bán để đảm bảo quyền lợi của
người tiêu dùng.
Ngoài ra, Hiệp định về TMĐT trong ASEAN có điều khoản liên quan
đến bảo vệ người tiêu dùng trực tuyến cũng như những điều khoản liên quan
đến bảo mật thông tin cá nhân. Tại Việt Nam, Cục TMĐT và Kinh tế số đã
xây dựng website quản lý TMĐT. Người tiêu dùng có thể truy cập để phản
ánh những website (hoặc sản phẩm) có hành vi lừa đảo.  
Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý thị trường Trần Hữu Linh cho rằng,
để xử lý triệt để vấn đề vi phạm trong giao dịch trực tuyến, cần xác định đúng
bản chất, cá nhân hiện diện trên môi trường trực tuyến và sự tham gia của
nhiều đơn vị như quản lý thị trường, an ninh mạng, thông tin truyền thông.
Tổng cục cũng đề xuất sửa đổi Nghị định số 52 về TMĐT, đồng thời kiến
nghị Bộ Cơng thương sớm có kế hoạch rà soát, kiểm tra các sàn TMĐT; sửa
18




×