Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích thực trạng đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.23 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐH KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHOA KINH TẾ

BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
TÊN CHỦ ĐỀ: Phân tích thực trạng đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay .



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đa dạng sinh học có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát và tồn tại của con người.
Tuy nhiên, sự suy giảm đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu đang trở nên báo động và được xem
là một trong những thách thức lớn của thế kỉ XXI. Hoạt động sản xuất của con người là một trong
những tác nhân lớn nhất gây nên mất đa dạng sinh học, trong đó, sản xuất nơng nghiệp, lâm nghiệp
và ni trồng thuỷ sản ảnh hưởng rất lớn đối với suy giảm đa dạng sinh học tại Việt Nam. Đây là
kết luận quan trọng của báo cáo “Đánh giá Đa dạng Sinh học tại Việt Nam” được Tổ chức Quốc tế
về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam) và Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng
Sinh học (BCA) công bố ngày 29 tháng 10 năm 2021 – Việt Nam là một trong 16 quốc gia sở hữu
sự đa dạng sinh học cao nhất thế giới. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang
phải đối mặt với tình trạng suy thoái đa dạng sinh học đang diễn ra ngày càng lớn. Từ những vấn đề
thực tiễn hiện nay, em lựa chọn đề tài: “ Phân tích thực trạng đa dạng sinh học của Việt Nam hiện
nay”. Nhằm hiểu biết về thực trạng đa dạng sinh học của nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Từ những vẫn đề thực tiễn dựa trên cơ sở, nghiên cứu tìm ra được thực trạng đa dạng sinh
học tại Việt Nam hiện nay. Từ đó có thể tìm hiểu được về khái niệm, phân loại đa dạng sinh học,
nguyên nhân gây nên sự suy giảm đa dạng sinh học, giải pháp khắc phục tình trạng thơng qua
những chính sách, chiến lược cộng đồng cùng chung tay bảo vệ, giải quyết và góp phần vào sự phát
triển chung của nên kinh tế nước nhà.
2.2. Mục tiêu cụ thể


- Trình bày thực trạng đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá sự suy giảm về đa dạng sinh học qua kết quả thu thập được của thực trạng đa dạng
sinh học. Từ đó, đưa ra các nguyên nhân gây nên sự suy giảm về đa dạng sinh học của Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể chủ yếu nhằm bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: “Đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay”.

-

Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

4. Bố cục tiểu luận
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
1.1. Khái niệm của đa dạng sinh học
Theo điều 3 - Luật đa dạng sinh học được Quốc hội thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008,
định nghĩa: “Đa dạng sinh học là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên”.
Trong đó: Gen là mợt đơn vị di trùn, mợt đoạn của vật chất di truyền quy định các đặc tính cụ thể
của sinh vật. Hệ sinh thái là quần xã sinh vật và các yếu tố phi sinh vật của một khu vực địa lý nhất

định, có tác động qua lại và trao đổi vật chất với nhau. Hệ sinh thái tự nhiên là hệ sinh thái hình
thành, phát triển theo quy luật tự nhiên, vẫn còn giữ được các nét hoang sơ. Hệ sinh thái tự nhiên
mới là hệ sinh thái mới hình thành và phát triển trên vùng bãi bồi tại cửa sông ven biển, vùng có
phù sa bời đắp và các vùng đất khác.
Hay cịn được định nghĩa: “Đa dạng sinh học là sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất
cả các nguồn trong hệ sinh thái trên cạn, ở biển và các hệ sinh thái dưới nước khác, và mọi tổ hợp
sinh thái mà chúng tạo nên; Đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền),
giữa các lồi và các hệ sinh thái.” (Cơng ước đa dạng sinh học, 1992).
1.2. Phân loại đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học gồm những thành phần sau đây:
- Đa dạng về gen: Bao gồm tất cả các gen trong các cá thể của các loài sống trong một vùng
nhất định hay phạm vi toàn cầu. Đa dạng gen là cơ sở phát triển của ngành khoa học công nghệ gen,
nhằm phát triển năng suất vật nuôi, cây trồng bằng các giải pháp di truyền.
- Đa dạng loài là sự phong phú về các loài hoặc chủng trong một quần xã. Đa dạng loài là cơ
sở của sự phát triển bền vững.
- Đa dạng về hệ sinh thái: Đa dạng hệ sinh thái liên quan đến sự khác nhau về loại hình sống,
về sinh cảnh của các quần xã sinh vật và các quá trình sinh học giữa các hệ sinh thái. Đa dạng hệ
sinh thái là cơ sở để đa dạng gen và đa dạng loài được thể hiện và bộc lộ ra ngồi.
1.3. Vị trí, vai trị của đa dạng sinh học đối với đời sống con người
Sự sống của con người hoàn toàn phụ thuộc vào sự tồn tại và phát triển của hệ sinh thái.  Hệ
thống sinh thái trực tiếp hoặc gián tiếp cung cấp cho con người khơng khí, thức ăn, nước uống, năng
lượng, nơi ở, thuốc men, nguyên liệu để con người tạo ra nguồn cung cấp dịch vụ, sinh hoạt và bảo
vệ con người trước những thiên tai. Hệ thống làm sạch khơng khí và nước, duy trì đa dạng sinh học,
phân hủy và tái chế chất dinh dưỡng, đồng thời cung cấp các chức năng quan trọng khác giúp Trái
Đất có sự sống.
Các thành phần trong sinh quyển di chuyển và kết nối với nhau để tạo ra sản phẩm cho con
người. Những mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng không thể quản lý các loài mà thiếu sự quản lý
đặc điểm di truyền và nơi sống của chúng và các biện pháp bảo vệ tối ưu không thể đạt được nếu
không hiểu mối quan hệ giữa các loài, đa dạng sinh học và nhu cầu của con người. Sự đa dạng về
loài và gen di truyền, nơi cứ trú và hệ sinh thái của một quốc gia là những tài nguyên quan trọng

cần được sử dụng bền vững cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Bất kể một quốc gia có đa dạng sinh
học cao hay không, việc quản lý các nguồn tài nguyên sinh vật của quốc gia đó phải là một ưu tiên

2


quốc gia để đảm bảo rằng các nhu cầu của con người được đáp ứng và thực hiện cũng như các
nghĩa vụ tồn cầu của quốc gia đó được thực hiện.
- Về mặt mơi trường, đa dạng sinh học có khả năng điều hồ khí hậu, điều tiết mọi biến
động của môi trường do thiên nhiên tạo ra và bảo vệ mơi trường trước những biến động đó. Chu kỳ
quang hợp hay đồng hoá chất diệp lục và việc chuyển hố các chất vơ cơ thành hữu cơ của thực vật
trong thiên nhiên đã tạo nên sự sống cho tất cả sinh vật trên Trái đất, trong đó có con người. Những
khu rừng được mệnh danh “lá phổi thế giới” là bộ máy tự nhiên khổng lồ lọc khí cacbonic và tạo
ơxy để có mơi trường trong lành cho con người hơ hấp. Các hệ thực vật có chức năng bảo vệ vùng
đầu nguồn, vùng ven biển, bảo vệ đất trong việc chắn sóng, bão, lũ, điều chỉnh và ổn định đất trên
các vùng đất dốc làm giảm tác hại của lũ lụt và xói mịn đất.
- Về kinh tế, đa dạng sinh học là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh,
nguyên liệu chế biến thuốc, nước và nguyên liệu trong sản xuất cho con người. Giá trị trực tiếp và
quan trọng nhất của các loài đối với con người là dùng làm thức ăn, rất nhiều lồi động, thực vật có
thể ăn được và một số lồi đã được đưa vào ni trồng để cung cấp thức ăn cho con người. Các loại
dược phẩm có nguồn gốc tự nhiên có vai trị quan trọng trong cơng tác bảo vệ sức khoẻ trên phạm
vi toàn cầu, đặc biệt ở các nước kém phát triển việc chăm sóc sức khoẻ, thuốc chữa bệnh chủ yếu
bằng dược phẩm truyền thống (nước ta gọi là đông y, thuốc nam). Hiện tại, đã thống kê được
30.000 lồi cây có những phần ăn được, nhưng chỉ mới khoảng 7.000 loài được trồng hoặc thu hái
làm thức ăn, trong đó có 20 lồi đã cung cấp đến 90% lượng tinh bột trên toàn thế giới.
- Ngồi ra, sinh vật trong q trình tiến hoá đã tồn tại và phát triển một cách bền vững và hài
hoà với nhau, tạo nên một thiên nhiên đa dạng, phong phú và hấp dẫn, làm nền tảng cho mọi cảm
hứng về thẩm mỹ, nghệ thuật và văn hóa của con người, như là nơi giải trí, du lịch, giáo dục, nghiên
cứu,… Đa dạng sinh học cũng phản ánh sự phong phú cùng những nét đẹp của thiên nhiên dành cho
một quốc gia.

Tuy nhiên, sự đa dạng sinh học tỷ lệ nghịch với sự phát triển và tiến hố của lồi người.
Cùng với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội và để đáp ứng nhu cầu của mình, con người đã áp dụng
khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại vào khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi
ích của con người, để cải tiến cuộc sống, thậm chí con người cịn điều khiển tự nhiên, làm thay đổi
tự nhiên. Do vậy, các hệ sinh thái đều chịu tác động của loài người, bị thay đổi, và tiến tới bị huỷ
diệt. Khi đa dạng sinh học bị xâm phạm thì sự tồn tại của con người trên Trái đất sẽ bị đe doạ. Con
người sẽ bị cạn dần nguồn thức ăn, thuốc chữa bệnh, ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh...
Đa dạng sinh học đang bị suy giảm với tốc độ nhanh, thể hiện sự suy giảm và tuyệt chủng
của một số loài. Do vậy, năm 1948 tại Fontainebleau (Pháp), Liên hợp quốc đã thành lập Tổ chức
bảo vệ thiên nhiên quốc tế (IUPN) nhằm bảo vệ và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Đến năm 1956 tổ chức này đổi tên thành Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế, viết tắt là
IUCN (International Union for Conservation of Nature).

3


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
2.1. Thực trạng về đa dạng sinh học của nước ta hiện nay
Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có đa dạng sinh học cao của thế giới, với
nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật và nguồn gen phong phú và đặc hữu. Đa dạng sinh học ở
Việt Nam có ý nghĩa to lớn, các hệ sinh thái với nguồn tài nguyên sinh vật phong phú đã mang lại
những lợi ích trực tiếp cho con người và đóng góp to lớn cho nền kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản; là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực quốc gia...Ngoài ra, các hệ sinh
thái cịn đóng vai trị quan trọng trong điều tiết khí hậu và bảo vệ mơi trường
2.1.1. Đa dạng sinh học về loài
Đa dạng sinh học ở Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới, là một trong những quốc gia có đa
dạng sinh học cao, đặc biệt là đa dạng về loài. Theo báo cáo quốc gia lần thứ 6 đối với Công ước đa
dạng sinh học (2019), Việt Nam có khoảng lồi 51.400 sinh vật được xác định, bao gồm: khoảng
7.500 chủng vi sinh vật; khoảng 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước; khoảng 10.900 loài
động vật trên cạn; khoảng 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt; và hơn 11.000

loài sinh vật biển khác. Hàng năm, nhiều loài mới tiếp tục được phát hiện, nối dài danh lục các lồi
hiện có ở Việt Nam. Trong các lồi được ghi nhận, nhiều lồi có giá trị bảo tồn cao, khẳng định tầm
quan trọng toàn cầu của đa dạng sinh học Việt Nam như sao la, cheo cheo lưng bạc, mang lớn,
mang trường sơn, thỏ vằn, voi châu á, bò rừng, bị xám, hổ, báo, hươu sao, các lồi linh trưởng, các
lồi rùa biển và rùa cạn, nước ngọt... Từ năm 2014 đến 2018, có 344 lồi mới gồm 208 lồi động
vật, 136 lồi thực vật, đã được mơ tả và cơng bố trên các tạp chí khoa học quốc tế  và Tạp chí Sinh
học của Viện Hàn Lâm KH&CN Việt Nam (Báo cáo quốc gia lần thứ 6 đối với Công ước Đa dạng
sinh học, 2019).
Một đặc điểm nổi bật trong nguồn tài nguyên về đa dạng sinh học ở Việt Nam là tính đặc
hữu về lồi, đồng thời cũng là về nguồn gen quý hiếm. Khu hệ động vật Việt Nam khá giàu về
thành phần lồi và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng Đơng Dương. Trong
số 21 lồi khỉ có trong vùng này thì Việt Nam có 15 lồi, trong đó có 7 lồi và phân lồi đặc hữu.
Trong vùng này có 49 lồi chim đặc hữu thì Việt Nam có 33 lồi, trong đó có 10 lồi đặc hữu của
Việt Nam. Thống kê từ cơ sở dữ liệu các nhóm động, thực vật cho thấy, Việt Nam có ít nhất 467
lồi động vật đặc hữu, cao hơn nhiều so với các quốc gia lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan
(bảng 1). Bên cạnh đó, Việt Nam có đến 25 giống thực vật có mạch đặc hữu, trong khi con số này ở
Lào là 3 và Campuchia là 1. Rõ ràng nguồn gen thực vật đặc hữu này là nguồn tài nguyên vô cùng
q giá mà Việt Nam có được. Tính đặc hữu ở Việt Nam trong khu hệ động vật đã ngày một gia
tăng khi số lượng nghiên cứu về côn trùng được mở rộng ra các nhóm đối tượng khác như Chuồn
chuồn (Bộ Odonata), Bọ cánh cứng (Bộ Coleoptera), Bọ ngựa (Bộ bọ ngựa Mantodea), Bọ que (Bộ
Phasmatodea). Một số phát hiện điển hình đã gia tăng tính đặc hữu về động vật ở Việt Nam như
phát hiện các giống và lồi cơn trùng mới cho Việt Nam. Những nghiên cứu trên đã thêm khẳng
định tính độc đáo về đa dạng sinh học của Việt Nam và giá trị to lớn trong sự đa dạng về nguồn gen
sinh vật.

4


Cho đến nay đã thống kê và xác định được 794 lồi động vật khơng xương sống. Trong đó,
đáng lưu ý là trong thành phần lồi giáp xác nhỏ, có 54 lồi và 8 giống lần đầu tiên được mơ tả ở

Việt Nam. Riêng hai nhóm tơm, cua (giáp xác lớn) có 59 lồi thì có tới 7 giống và 33 lồi (55,9%
tổng số lồi) lần đầu tiên được mơ tả. Trong tổng số 147 lồi trai ốc, có 43 loài (29,2% tổng số
loài), 3 giống lần đầu tiên được mơ tả, tất cả đều là những lồi đặc hữu của Việt Nam hay vùng
Đơng Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc nước
ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn.
Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rő ở đặc tính nhiệt đới, đặc tính hỗn
hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt bắc – nam. Trong vùng biển nước ta đă phát hiện được
chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng
sinh học biển khác nhau, trong đó có hai vùng biển: Móng Cái – Đồ Sơn, Hải Vân – Vũng Tàu có
mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa có 9 vùng nước
trồi có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là các bãi cá lớn. Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở
Việt Nam có khoảng 11.000 lồi, trong đó cá (khoảng 130 lồi kinh tế) có 2.458 lồi; rong biển có
653 lồi; động vật phù du có 657 lồi; thực vật phù du có 537 lồi; thực vật ngập mặn có 94 lồi;
tơm biển có 225 lồi...
Theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (2021), 75 (21%) loài thú, 57 (6%) lồi chim, 75
(19%) lồi bị sát, 53 (24%) loài lưỡng cư và 136 (7%) loài cá được liệt kê là các loài bị đe doạ
(nghĩa là thuộc mức cực kỳ nguy cấp, nguy cấp và sắp nguy cấp).
Theo Chiến lược Đa dạng sinh học quốc gia của Việt Nam tới năm 2020, tầm nhìn tới năm
2030 (MONRE, 2019), các mối đe doạ tới động vật hoang dã của Việt Nam gồm: khai thác quá
mức và trái phép (ví dụ săn bắn, bẫy, đánh bắt quá mức v.v.), buôn bán trái phép, mất và xáo trộn
sinh cảnh, ô nhiễm và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, dựa trên phân loại mối đe doạ của Tổ chức Bảo
tồn Thiên nhiên Quốc tế, suy thối mơi trường và sự tử vong của lồi là mối đe doạ chính đối với
các lồi thú, chim, bò sát, ếch nhái và cá ở Việt Nam (Bảng 2).
Bảng 2: Các mối đe dọa chính đối với thú, chim, lưỡng cư, bò sát và cá ở Việt Nam

5


Cập nhật đã liệt kê 9.925 tên loài thực vật được chấp nhận ở Việt Nam, gồm 269 loài bị đe
doạ ở cấp tồn cầu (trong đó có 122 lồi sắp nguy cấp, 101 loài nguy cấp và 46 loài cực kỳ nguy

cấp) theo sách đỏ Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (2021). Tuy nhiên, sách đỏ Tổ chức Bảo
tồn Thiên nhiên Quốc tế (tháng 4/2021) đã xác định có 227 lồi thực vật bị đe doạ ở cấp toàn cầu,
gồm 69 loài sắp nguy cấp, 94 loài nguy cấp, 64 lồi cực kì nguy cấp. Việc sử dụng tài nguyên sinh
vật đã đe doạ 65% của 227 lồi, tiếp theo là nơng nghiệp và ni trồng thuỷ sản đã đe doạ 59% của
227 loài và các mối đe doạ khác. Các ngành kinh tế khác có ít tác động hơn, gồm xây dựng các khu
thương mại và dân cư (tác động tới 25 loài hay 11%) và hành lang vận chuyển và dịch vụ (tác động
tới 16 loài hay 7%), sản xuất và khai thác năng lượng đe doạ 12 loài (5%), những thay đổi trong hệ
thống tự nhiên đe doạ 41 loài (18%), sự xâm nhập và làm xáo trộn bởi con người đe doạ 36 lồi
(16%) và ơ nhiễm đe doạ 20 lồi (9%). Thực tế, khoảng 61% lồi đã đánh giá gặp phải tình trạng
suy giảm kích thước quần thể và có 34% số lồi khơng đánh giá được sự thay đổi kích thước quần
thể do thiếu dữ liệu.
Thay đổi hệ sinh thái là mối đe dọa chính đối với các lồi phân bố hẹp, đặc biệt đối với
những lồi sống trong mơi trường đặc biệt như núi đá vơi (ví dụ như gesneriads, begonias, v.v.).
Khai thác mỏ là tác nhân chính làm mất sinh cảnh của các lồi phân bố ở mơi trường đó, thường là
các lồi đặc hữu như Thu hải đường Ba Tai Begonia bataiensis (loài sắp nguy cấp) và Ornithoboea
emarginata (cực kỳ nguy cấp) - cả hai đều phân bố hạn chế ở núi đá vôi của Tỉnh Kiên Giang.
2.1.2. Đa dạng nguồn gen: Nguồn gen giống cây trồng, vật nuôi
Theo đánh giá của Jukovski (1970), Việt Nam là một trong 12 trung tâm nguồn gốc giống
cây trồng của thế giới. Mức độ ĐDSH của hệ thực vật cây trồng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với
dự đốn.Tính đến năm 2015, danh mục giống cây trồng nông nghiệp được phép sản xuất, kinh
doanh tại Việt Nam gồm 814 giống cây trồng. Giống cây lâm nghiệp: Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam đã chọn tạo, tuyển chọn và công nhận 189 giống; riêng giai đoạn 2011-2014, đã công
nhận 45 giống (13 giống quốc gia và 32 giống tiến bộ kỹ thuật).
- Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay đang chiếm vị trí chủ đạo
đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống cây trồng này có những giống đã được nơng dân
sử dụng và lưu truyền hàng nghìn năm nay.
- Các giống cây trồng mới: Là những giống cây có khả năng cho năng suất cao và có một số
đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh cao… được các nhà
khoa học chọn lọc, lai tạo thành. Những năm gần đây các giống cây trồng được các nhà khoa học
6



chọn lọc và lai tạo mới cũng như các loại giống cây trồng được nhập nội, trước khi đưa ra sản xuất
rộng rãi, được hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét công nhận như
lúa: 156 giống; ngô: 47 giống; đậu tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14 giống…
- Các giống cây trồng được nông dân ở các tỉnh biên giới trao đổi với nhau qua biên giới hoặc
mua bán qua đường tiểu ngạch.
Hiện nay, Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115 loài cây
trồng. Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn khơng cịn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa.
Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen bản địa với nhiều đặc tính quý mà duy nhất
chỉ nước ta có.Về vật ni, hiện nay Việt Nam có 14 lồi gia súc và gia cầm đang được chăn ni
chủ yếu bao gồm 20 giống lợn trong đó có 14 giống nội, 21 giống bị (5 giống nội), 27 giống gà (16
giống nội), 10 giống vịt (5 giống nội), 7 giống ngan (3 giống nội), 5 giống ngỗng (2 giống nội), 5
giống dê (2 giống nội), 3 giống trâu (2 giống nội), 1 giống cừu, 4 giống thỏ (2 giống nội), 3 giống
ngựa (2 giống nội), bồ câu, hươu và nai (có khoảng 10 ngàn con hươu nai được ni trong tồn
quốc).
Đặc trưng của đa dạng nguồn gen
- Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam rất phong phú. Riêng kiểu gen cây ngơ có rất nhiều
kiểu hình khác nhau, ví dụ như giống ngơ lai đơn GS9989,VN5885, giống ngô nếp lai đơn VN556,..
- Các kiểu gen ở Việt Nam thường có nhiều biến dị, đột biến. Một trong những nguồn tạo
giống mới, trong đó có những biến dị xảy ra dưới tác động của các yếu tố tự nhiên (sấm, chớp, bức
xạ..), có những đột biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo.
- Đa dạng sinh học gen ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu và tính mềm dẻo sinh
thái cao của các kiểu gen.
2.1.3. Đa dạng hệ sinh thái
Hệ sinh thái đất ngập nước
Đất ngập nước ở Việt Nam được phân thành hai nhóm lớn: đất ngập nước nội địa và đất
ngập nước vùng bờ biển, gần tương đương với hệ sinh thái nước ngọt và hệ sinh thái biển và vùng
chuyển tiếp của chúng với hệ sinh thái trên cạn theo phân loại của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên
Quốc tế. Rừng ngập mặn và thềm bùn tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng châu thổ, cửa biển và

vùng triều, trong khi các đầm phá phân bố chủ yếu ở dọc bờ biển miền Trung (từ Thừa Thiên Huế
tới Ninh Thuận) và rạn san hô, cỏ biển chủ yếu ở vùng duyên hải Nam-Trung bộ (Tổ chức Bảo tồn
Thiên nhiên Quốc tế, 2005). Theo đó, hệ thống phân loại đất ngập nước ở Việt Nam bao gồm 3
nhóm với 26 kiểu, trong đó, các kiểu hệ sinh thái tương đương với các hệ sinh thái vi mơ: Nhóm 1,
đất ngập nước ven biển có 9 kiểu (thảm cỏ biển, rạn san hô, các vùng cửa sông, rừng ngập mặn,
đầm phá, vùng biển nơng, địa hình các-xtơ, vách đá, đất vùng gian triều); Nhóm 2, đất ngập nước
nội địa gồm 8 kiểu (sơng suối có nước thường xun, nước theo mùa, hồ, than bùn, đất ngập nước
có cây bụi, cây gỗ, khu nước nóng, hệ thống tủy văn ngầm); Nhóm 3, đất ngập nước nhân tạo có 9
nhóm (ni trồng thủy sản nước mặn, nợ, đồng cói, đồng muối, ni trồng thủy sản nước ngọt, đất
nông nghiệp, hồ nhân tạo, khai thác khống sản, hồ nước thải, sơng đào) (Bộ TN&MT, 2013).
7


Rừng ngập mặn, đầm phá và bãi triều ven biển đã bị chuyển đổi nhanh chóng thành các khu
ni trồng thủy sản thâm canh (như ao nuôi tôm, nuôi ngao), dẫn đến gần như mất hoàn toàn rừng
ngập mặn ở nhiều tỉnh như Vịnh Vân Phong. Riêng đối với rừng ngập mặn, từ năm 1943-1999, do
tác động của chiến tranh và phát triển ni trồng thủy sản, diện tích rừng ngập mặn đã giảm 62%.
Tương tự, Bộ TN&MT (2015) ước tính mất ít nhất 220.000 ha rừng ngập mặn trong giai đoạn
1943-2005 do phá rừng và phát triển nuôi trồng thủy sản. Tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng
đã mất 40.000 ha rừng ngập mặn trong ba thập kỷ qua (1960 - 1995) và diện tích rừng ngập mặn
cịn lại của tỉnh là 15.700 ha.
Hệ sinh thái trên cạn (Hệ sinh thái rừng)
Theo Bộ Nông nghiệp & Phát triển nơng thơn (2021), cho tới 31/12/2020, Việt Nam có
14.677.215 ha đất rừng trong đó có 10.279.185 ha rừng tự nhiên và 4.398.030 ha rừng trồng. Đối
với rừng đặc dụng, theo quyết định số 1107/QĐ-BTN&MT ngày 12/5/2015, Việt Nam có 31 vườn
quốc gia, 64 khu bảo tồn, 16 khu bảo tồn loài, sinh cảnh và 55 khu bảo vệ cảnh quan. Cho tới đầu
năm 2019, rừng phòng hộ của Việt Nam được quản lý bởi 229 Ban quản lý rừng phòng hộ.
Do nhiều nguyên nhân đã làm cho diện tích rừng tự nhiên bị giảm sút trong thời gian qua đã
kéo theo sự suy giảm về đa dạng sinh học đối với các hệ sinh thái rừng nói chung. Các hệ sinh thái
của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, tuy nhiên các hệ sinh thái này hiện nay cũng đang đối mặt

với nhiều thách thức chủ yếu từ các hoạt động kinh tế xã hội của con người và những biến động của
sự thay đổi khí hậu của Trái đất. Diện tích rừng tự nhiên đang có chiều hướng suy giảm cả về chất
lượng. Trong giai đoạn 2017-2018, chính phủ đã nhận được yêu cầu chuyển đổi đất rừng đặc dụng,
phịng hộ từ 50/60 tỉnh; 33 trong số đó đề xuất chuyển đổi rừng tự nhiên thuộc 3.021 dự án (với
tổng số 122.851 ha) và các dự án tại 22/33 tỉnh đã được phê duyệt. Ở Tây Nguyên, diện tích rừng tự
nhiên bị mất ở các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông và Gia Lai lần lượt là 3.472 ha, 3.811 ha và 10.219 ha.
Đất quy hoạch cho cao su đến năm 2030 là 343.890 ha và 79% diện tích mở rộng là từ rừng tự
nhiên. Kissinger (2020) chỉ ra rằng từ năm 2005 đến 2015, diện tích cao su, cà phê, sắn và hồ tiêu
lần lượt tăng 198% (~ 172.308 ha), 29% (~ 106.000 ha), 157.292 ha và 106% (52.000 ha). Năm
2008, 150.000 ha rừng khộp ở Tây Nguyên, vốn bị coi là suy thoái, đã bị chuyển đổi sang trồng cao
su (Bộ TN&MT, 2015).
Hệ sinh thái biển
8


Với tổng đường bờ biển dài 3.260 km và hơn 3000 đảo ven bờ và xa, diện tích bờ biển của
Việt Nam có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao và đặc biệt chúng là các sinh cảnh quan trọng cho
nhiều loài chim di cư bị đe doạ. Diện tích bờ biển lớn với nguồn tài nguyên phong phú là nguồn tài
nguyên quan trọng cho sinh kế của gần 20 triệu người ở 125 huyện ven biển.Đối với hệ sinh thái
biển, hàng nghìn ha rạn san hơ và thảm cỏ biển cũng bị mất do khai thác quá mức hoặc sử dụng
lồng bè nuôi trồng thủy sản (Bộ TN&MT, 2015; 2019). Diện tích cỏ biển và san hơ đã giảm xuống
30% ở một số khu vực, và chỉ 1% được coi là trong tình trạng tốt. Sự suy giảm các rạn san hô ở một
số khu vực trọng điểm.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học
Khai thác trái phép và quá mức tài nguyên sinh vật: Nhiều loài là đối tượng săn lùng đã
giảm số lượng trong thiên nhiên Việt Nam đến mức các thương lái hiện tại đã phải mua cả động vật
hoang dã và sản phẩm của chúng từ các nước khác, như hầu hết tê tê gần đây được nhập lậu từ
Malaysia, Myanmar và Indonesia; sừng tê giác được vận chuyển từ Nam Phi. Thông tin từ Công
ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp cho thấy Việt Nam là quốc gia
tiêu thụ sừng tê giác lớn nhất trong khu vực, hoặc hình ảnh xẻ thịt voọc chà vá đăng tải trên các báo

mạng đã gây bức xúc cho cộng đồng.
Ơ nhiễm mơi trường: Q trình đơ thị hố và cơng nghiệp hố diễn ra nhanh chóng đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước. Nước thải sinh hoạt và công nghiệp không được xử lý
được đổ vào các sơng, hồ, khơng được kiểm sốt chặt chẽ đã tác động xấu đến ĐDSH của các hệ
sinh thái tự nhiên này. Mở rộng thâm canh nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật với nhiều nguồn gốc
khác nhau được sử dụng ngày càng phổ biến và không kiểm sốt được ở Việt Nam đã góp phần làm
suy thối các quần thể chim và cơn trùng ở các vùng nông thôn và ngoại ô thành phố
Gia tăng dân số: Việt Nam có hơn 98,5 triệu người (2021). Tăng dân số nhanh là một trong
những nguyên nhân làm suy thoái đa dạng sinh học. Sự gia tăng dân số đòi hỏi gia tăng nhu cầu
sinh hoạt: lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác trong khi lượng tài nguyên thì hạn
hẹp, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Dân số Việt Nam phân bố không đều. Khoảng
77% dân số sống ở vùng nông thôn và miền núi. Tỷ lệ tăng dân số ở vùng núi (vùng có mức đa
dạng sinh học cao) cao hơn ở vùng đồng bằng. Ví dụ trong khu vực Na Hang (Tuyên Quang, tỷ lệ
tăng dân số 2,8-3,5%/năm, ở khu vực Ba Bể, tỷ lệ tăng dân số còn cao hơn 3,5-5%/năm. 
Đói nghèo: Việt Nam là một quốc gia cịn nghèo, cuộc sống cịn phụ thuộc nhiều vào nơng
nghiệp và tài ngun. Trong các khu bảo tồn được nghiên cứu, 90% dân địa phương sống dựa vào
nông nghiệp và khai thác rừng. Hầu hết đang thiếu đất trồng trọt, mức sống gia đình thấp, trên 50%
gia đình thuộc diện đói nghèo. Người nghèo khơng có vốn để đầu tư, sản xuất và bảo vệ tài nguyên.
Họ buộc phải khai thác tài nguyên sinh vật hoang dã để sinh sống làm cho tài nguyên này càng suy
thối một cách nhanh chóng.
Ảnh hưởng của kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường đã dẫn đến sự phân hóa xã hội sâu
sắc, nhu cầu về vật chất ngày càng tăng thúc đẩy người dân vào rừng khai thác lâm sản để phục vụ
nhu cầu của bản thân và gia đình. Mỗi khi các sản phẩm từ rừng có giá trị kinh tế cao thì đó là động
lực kích thích sự khai thác của cộng đồng. Lợi nhuận từ việc khai thác lâm sản, đặc biệt là gỗ quý
hiếm làm cho nhiều người bất chấp các hành vi vi phạm pháp luật để vào rừng khai thác trộm nhằm
thu lợi bất chính.
9


CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG

3.1. Đánh giá chung
Từ những phân tich trên ta có thể thấy đa dạng sinh học đã mang lại lợi ích trực tiếp cho con
người, cộng đồng và có nhiều đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân. Cách quản lý và giám sát
sử dụng bền vững, hợp lý thì đó nền tảng đảm bảo cho nông, lâm ngư nghiệp và du lịch phát triển
bền vững, nguồn gen giống cây trồng vật nuôi vô cùng q giá, phục vụ cho q trình cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa của đất nước.
3.2. Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học tầm nhìn đến năm 2030
Vai trò của ngành bảo tồn đa dạng sinh học ngày một tăng lên và đã trở thành một phần mở
rộng của xã hội, kinh tế, chính trị; đồng thời gắn liền với các chiến dịch nâng cao nhận thức như
một phần của nền kinh tế bền vững. Ở Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học có thể tính từ khi Chính
phủ thành lập Vườn quốc gia Cúc Phương (1962), mở đầu cho một hệ thống vườn quốc gia và các
rừng đặc dụng ở Việt Nam. Sự hình thành nên hệ thống pháp luật liên quan đến đa dạng sinh học về
sau khẳng định hệ thống chính trị của Việt Nam đã đưa bảo tồn đa dạng sinh học là một vấn đề
quốc gia, và gắn liền nó với sự phát triển kinh tế. Tuy vậy trong bối cảnh phát triển như hiện nay,
bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, đòi hỏi sự chung tay của cả
xã hội. Các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, loài, nguồn gen nguy cấp, quý, hiếm được bảo tồn và
sử dụng bền vững nhằm góp phần phát triển đất nước theo định hướng nền kinh tế xanh, chủ động
ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Nâng cao chất lượng và tăng diện tích của các hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ, bảo đảm:
diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn đạt 9% diện tích lãnh thổ, diện tích các khu bảo tồn
biển đạt 0,24% diện tích vùng biển; độ che phủ rừng đạt 45%; rừng nguyên sinh được giữ ở mức
0,57 triệu ha và có kế hoạch bảo vệ hiệu quả; diện tích rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hơ
được duy trì ở mức hiện có; 15% diện tích hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị suy thoái được phục
hồi; số lượng các khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam được quốc tế công nhận đạt: 10 khu
Ramsar, 10 khu dự trữ sinh quyển, 10 vườn di sản ASEAN;
- Cải thiện về chất lượng và số lượng quần thể các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo
vệ, bảo đảm: không gia tăng số lượng loài bị tuyệt chủng, cải thiện đáng kể tình trạng một số lồi
nguy cấp, q, hiếm, bị đe dọa tuyệt chủng;
- Kiểm kê, lưu giữ và bảo tồn các nguồn gen (vật nuôi, cây trồng, vi sinh vật) bản địa, nguy
cấp, quý, hiếm, bảo đảm các nguồn gen bản địa, q, hiếm khơng bị suy giảm và xói mòn.

3.3. Một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học
- Nâng cao nhận thức: Nâng cao nhận thức cho lãnh đạo từ cấp tỉnh đến các cấp chính quyền
địa phương thông qua hội thảo bảo tồn và phát triển. Đối với người dân tổ chức các hội thảo chuyên
đề về tầm quan trọng của đa dạng sinh học và bảo tồn có sự tham gia của người dân cho từng nhóm
đối tượng, để sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, phổ biến pháp luật, giáo dục môi
trường... Tổ chức các nhóm tuyên truyền do lực lượng thanh niên làm nịng cốt có sự tham gia của
cộng đồng thơng qua phim ảnh, chương trình,...
10


- Nâng cao đời sống con người: Hạn chế việc khai thác quá mức làm suy giảm nguồn tài
nguyên, tạo các sản phẩm thay thế tương ứng. Thu hút cộng đồng đặc biệt lớp trẻ có trình độ tham
gia cơng tác bảo vệ rừng. Chuyển giao khoa học kỹ thuật, giống, vật ni, cây trồng có năng suất
cao cho cộng đồng trong sản xuất, chăn nuôi.
- Tăng cường phổ biến thể chế pháp luật cho cộng đồng: Cùng với các cấp, các ngành chức
năng đề xuất thay đổi một số chính sách phù hợp. Có những chính sách hỗ trợ đối với người dân
thông qua kế hoạch hoạt động trên nguyên tắc có sự quản lý, giám sát thơng qua hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật (hệ thống mở). Đề xuất xây dựng, hoàn thiện khung thể chế, tăng cường
năng lực quản lý, bảo tồn cho các đơn vị, ngành liên quan. Đặc biệt chú trọng xây dựng quy chế
phối kết hợp trong công tác bảo vệ rừng và. Tiến hành xây dựng hương ước quản lý bảo vệ rừng
cho cộng đồng nhằm chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Thi hành
luật pháp một cách nghiêm túc triệt để trong công tác bảo tồn.
- Kiểm soát nhu cầu thị trường: Tăng cường lực lượng kiểm lâm cả số lượng và chất lượng
cũng như trang thiết bị, phương tiện cho công tác tuần tra, kiểm soát bảo vệ rừng một cách hiệu quả
các vùng, mùa trọng điểm tác động. Căn cứ vào hiện trạng nguồn tài nguyên hiện có, hạn chế khai
thác đối với các nguồn đang trong giai đoạn phục hồi, nghiêm cấm khai thác các nguồn đã bị cạn
kiệt, song song với việc khai thác, tiến hành thuần hóa và áp dụng khoa học, công nghệ để nhân
giống, phát triển nguồn tài ngun ở bên ngồi rừng đó là biện pháp hữu ích của sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên. Dựa vào nhu cầu thị trường để tiến hành sản xuất, xây dựng một số mơ hình sản
phẩm thay thế nhằm hạn chế sử dụng tài nguyên từ rừng tự nhiên (gỗ, lâm sản ngoài gỗ, chất đốt...).


11


KẾT LUẬN
Việc bảo tồn đa dạng sinh học ít được quan tâm vì sự mất mát về đa dạng sinh học, đặc biệt
là ở biển ít được nhìn thấy; sự mất mát này không tác động ngay lập tức và trông thấy được trong
cuộc sống hàng ngày; đa số quần chúng ít cảm nhận được lợi ích trong việc bảo tồn đa dạng sinh
học là cần thiết ví dụ như: phục vụ cho mục đích sử dụng trong hiện tại và tương lai các nhân tố đa
dạng sinh học như các nguồn tài nguyên thiên nhiên sinh học; phục vụ cho việc duy trì sinh quyển
trong trạng thái có thể hỗ trợ cho cuộc sống của con người; phục vụ bảo tồn bản thân đa dạng sinh
học mà khơng vì mục đích nào khác, đặc biệt tất cả các lồi đang sống hiện nay.
Trong thời đại ngày nay, bảo vệ đa dạng sinh học đang được quan tâm không chỉ ở phạm
vi riêng lẻ của từng quốc gia mà là mối quan tâm chung của tồn nhân loại. Bởi vì bảo tồn tài
nguyên đa dạng sinh học gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như
sự hạn chế các tác động của sự thay đổi khí hậu.
Mục tiêu của bảo tồn đa dạng sinh học đều hướng tới sự thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu
cầu cuộc sống của con người về tất cả mọi mặt. Để đạt được mục tiêu này địi hỏi có sự liên kết, hỗ
trợ giúp đỡ giữa các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, cộng
đồng... nhằm làm cho q trình phát triển khơng ảnh hưởng tới các hoạt động bảo tồn và hoạt động
bảo tồn sẽ hỗ trợ ngày càng tốt hơn cho quá trình phát triển.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật đa dạng sinh học, 2008.
2. Chi cục Bảo vệ Môi trường – Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đồng Nai: Sổ tay đa dạng sinh
học: Nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường trong học đường cấp trung học cơ sở, 2013.


3. Công ước đa dạng sinh học (Convention on Biological Diversity - CBD), 1992.
4. Viện Sinh thái học miền Nam, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam: Đa dạng sinh học ở Việt
Nam: Thực trạng và bảo tồn, 2020.

5. Báo cáo quốc gia lần thứ 6 đối với Công ước Đa dạng sinh học, 2019.
6. Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên: Đánh giá đa dạng sinh học ở Việt Nam phân tích
từ tác động một số lĩnh vực kinh tế, tháng 10 – 2020.

7. Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế: Sách đỏ, 2021.
8. Bộ NN&PTNT, 2018. Công bố hiện trạng rừng năm 2017. Quyết định số 1187/QĐ-BNNTCLN ngày 3/4/2018.

9. Tài liệu tham khảo: />
10. Tài liệu tham khảo: />
11. Tài liệu tham khảo: />
13



×