Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích mục tiêu và nhiệm vụ phát triển văn hoá, con người việt nam của đảng ta hiện nay liên hệ tình hình thực tế xây dựng văn hoá, con người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.46 KB, 16 trang )

Họ tên: Phùng Khánh Ly TA24.14
MSV: 19146856
Chủ đề 9: Phân tích mục tiêu và nhiệm vụ phát triển văn hố, con người Việt Nam
của Đảng ta hiện nay? Liên hệ tình hình thực tế xây dựng văn hố, con người Việt
Nam hiện nay

MỤC LỤC
I.
II.

Lời mở đầu
Nội dung
1. Mục tiêu phát triển văn hoá, con người Việt Nam của Đảng
ta hiện nay.
2. Nhiệm vụ phát triển văn hoá, con người Việt Nam của Đảng
ta hiện nay.
3. Liên hệ tình hình thực tế xây dựng văn hoá , con người ở

III.

Việt Nam hiện nay
Kết luận


I.

Lời mở đầu

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả
quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa


của các cấp, các ngành và tồn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân
ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát
huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa,
văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là


thơng tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn
hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa
gia đình, dịng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở
rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của
đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín
ngưỡng, tơn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công
tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được
hồn thiện. Đội ngũ làm cơng tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền
tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn
hóa có nhiều khởi sắc.
Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để
tác động có hiệu quả xây dựng con người và mơi trường văn hóa lành mạnh. Tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội
có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi cịn nghèo nàn,
đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô
thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Mơi trường văn hóa cịn
tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã
hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng . Cịn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật


có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm
thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học,

nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông

tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản
lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thơng có biểu hiện thương
mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục đích . Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa,
văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ
thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động
văn hóa cịn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập
khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngồi đã tác
động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp


ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật
quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng cịn chậm, thiếu đồng
bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa
chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí bng lỏng; kỷ luật, kỷ
cương khơng nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn
trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và
có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp.
II.

Nội dung.


1. Mục tiêu phát triển văn hoá, con người Việt Nam của Đảng ta hiện nay.
Dự thảo văn kiện nhấn mạnh hai mục tiêu: Xây dựng văn hố và con người
Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân- thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần
dân tộc , nhân văn, dân chủ và khoa học, văn hoá thật sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh”.
Kế thừa có chọn lọc Văn kiện Đại hội XI và tiếp thu những định hướng được
nêu trong Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI về văn hoá Dự thảo Văn kiện Đại hội


XII của Đảng lựa chọn, định hướng một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong phát
triển văn hoá, xây dựng con người. Trong đó đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện. Trọng tâm là đúc kết, từng bước xây
dựng trong thực tế các chuẩn mực giá trị văn hoá và con người Việt Nam, tạo môi
trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo,
thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm cho
mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hố dân
tộc; khẳng định, tơn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các
giá trị cao đẹp, nhân văn
Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan
điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hoá, làm tha
hoá con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục
những mặt hạn chế của con người Việt Nam.


Dự thảo Văn kiện nhấn mạnh xây dựng con người cần gắn với xây dựng mơi
trường văn hố lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập quốc tế.
Trước hết là xây dựng môi trường văn hố, đời sống văn hố lành mạnh trong
hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố,
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình.
Phát huy vai trị văn hố trong gia đình, nhà trường, cộng đồng; thường xuyên
quan tâm xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới,
việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hố, phong
trào "Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố"; từng bước thu hẹp khoảng
cách về hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các
giai tầng xã hội. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hố tơn giáo, tín
ngưỡng.

Đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hố trong chính trị và kinh tế, Dự thảo Văn
kiện nêu yêu cầu chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ
quan nhà nước và các đoàn thể; Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá trong
kinh tế; xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân.


Các giải pháp chủ yếu về phát triển công nghiệp văn hố đi đơi với xây dựng,
hồn thiện thị trường văn hoá được nêu trong Dự thảo Văn kiện gồm: Có cơ chế
khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để
nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn
hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển; đổi mới,
hồn thiện thể chế, tạo mơi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị
trường văn hố lành mạnh; đẩy mạnh phát triển cơng nghiệp văn hoá...

2. Nhiệm vụ phát triển văn hoá, con người Việt Nam của Đảng ta hiện nay.
Thứ nhất, “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị
quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ
giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”3. Đây là lần đầu tiên, Đảng ta nêu lên

thuật ngữ “hệ giá trị quốc gia” trong văn kiện của Đảng. Nội hàm của nhiệm vụ,
giải pháp này là tập trung hoàn thiện và triển khai xây dựng một hệ thống chuẩn
mực giá trị văn hóa của quốc gia - dân tộc Việt Nam thời kỳ mới. Đó là yêu cầu
khách quan và hết sức cần thiết, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, phát triển và xu
thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Hệ thống chuẩn
mực giá trị văn hóa của quốc gia - dân tộc Việt Nam thời kỳ mới sẽ là sự hịa
quyện hữu cơ giữa giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam trải qua hàng


nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước với sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hóa nhân loại, thể hiện rõ bản sắc, ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc Việt Nam
hướng đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hệ
chuẩn mực giá trị này sẽ là cơ sở định hướng sự phát triển của đất nước trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội một cách bền vững, đồng thời định hướng nhân cách

con người Việt Nam hiện nay. Cùng với đó, cần xây dựng hệ giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, đảm bảo cho họ phải có thế giới quan khoa học, nhân cách,
lối sống cao đẹp, với những đặc tính cơ bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đồng thời, xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật,
tôn trọng đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Tương thân tương
ái”; khẳng định, tôn vinh nhân rộng những giá trị nhân ái, nhân văn.
Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta: “…gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của
xã hội là gia đình”4. Văn hóa gia đình Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử đã


trở thành bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Giữ gìn, phát triển hệ giá trị
văn hóa gia đình Việt Nam thời kỳ mới là vừa kế thừa, phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, vừa kết hợp với những giá trị tiên
tiến của gia đình hiện đại, phù hợp với sự vận động, phát triển của xã hội. Trong xu

hướng tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, gia đình Việt
Nam đang có những cơ hội lớn để giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến,
văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, đời sống văn hóa gia đình Việt Nam cũng
đang đứng trước nhiều thách thức. Sự tác động nhiều mặt của điều kiện kinh tế, xã
hội hiện nay, ở góc độ nào đó đã làm cho những giá trị văn hóa truyền thống của
gia đình Việt Nam bị phá vỡ, lệch chuẩn, nhất là những giá trị văn hóa về đạo đức
gia đình, về văn hóa ứng xử trong gia đình, v.v. Do đó, gìn giữ, phát triển hệ giá trị
văn hóa gia đình đã và đang là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Thứ hai, nếu như Đại hội XII xác định: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn
hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước...” thì Dự thảo xác định: “Xây dựng
và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý” 5 là phù hợp, xuất
phát từ đòi hỏi của thực tiễn. Để nâng tầm văn hóa trong chính trị, văn hóa trong
Đảng, vấn đề cốt lõi nhất là xây dựng văn hóa lãnh đạo của Đảng, để Đảng ta “vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” 6, và “là đạo
đức, là văn minh”7. Văn hóa lãnh đạo của Đảng được hình thành và phát triển trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng; được biểu hiện ở bản lĩnh chính trị,


phẩm chất đạo đức, trình độ trí tuệ của Đảng; ở phong cách, lề lối, kỹ năng lãnh
đạo; ở phương pháp, tác phong công tác của cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ,

đảng viên. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa lãnh đạo là nhân tố
quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, nâng tầm văn hóa của Đảng với tư
cách là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đây là giải pháp
quan trọng, hữu hiệu để không ngừng tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong
điều kiện hiện nay.
Cùng với xây dựng văn hóa lãnh đạo của Đảng, cần phải xây dựng văn hóa
cơng vụ trong các cơ quan nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “nước ta là
nước dân chủ”, có nghĩa là “dân là chủ và dân làm chủ”. Xây dựng văn hóa quản lý

của cơ quan nhà nước phải nhằm phát huy dân chủ, mọi chính sách của Nhà nước
phải hướng đến nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của nhân dân. Phải quyết
tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; xây
dựng “Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động”. Các bộ, ngành, cơ quan nhà


nước từ Trung ương tới địa phương phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng,
trước nhân dân hành động quyết liệt, nói đi đơi với làm. Xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức, viên chức liêm chính, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, năng
lực, uy tín, tính chuyên nghiệp cao, sức khỏe tốt, tận tụy phục vụ nhân dân. Kiên
quyết chống tha hóa quyền lực dẫn tới cậy quyền, lạm quyền, chạy chức, chạy
quyền, tham ô, tham nhũng, v.v. Đó là những biểu hiện phản văn hóa, phi văn hóa
lãnh đạo, quản lý.
Thứ ba, cùng với việc tiếp tục coi trọng xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ
văn hóa, Dự thảo khẳng định: “Khơng bố trí cán bộ làm cơng tác văn hóa kém
năng lực, thiếu bản lĩnh”8. Đây là sự thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng về
vai trò nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh của văn hóa đối với sự phát triển đất
nước. Đồng thời, khẳng định vai trò của cán bộ, công tác cán bộ trong lĩnh vực
hoạt động văn hóa. Q trình thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XI) những năm qua cho thấy, nguyên nhân chính của
những hạn chế, bất cập là do nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các
địa phương, cơ quan, đơn vị về xây dựng, phát triển văn hóa, con người cịn nhiều
yếu kém, “công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chưa thực sự đổi mới, nhất là trong
việc xây dựng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hóa”. Trong bất kỳ


lĩnh vực nào, cán bộ luôn là “cái gốc” của mọi công việc, đặc biệt là đối với công
tác văn hóa, văn nghệ của Đảng, cán bộ làm cơng tác này cần đáp ứng những yêu
cầu cao về phẩm chất, năng lực và bản lĩnh văn hóa. Nói cách khác, người làm
cơng tác văn hóa cần phải thật sự văn hóa, từ nhận thức đến hành động, từ lời nói

đến việc làm, phải trở thành tấm gương về văn hóa đối với quần chúng nhân dân.
Trên thực tế, ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị, cán bộ làm công tác văn hóa lại
thiếu hiểu biết về văn hóa, hạn chế về năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham
mưu trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Tựu trung, Dự thảo lần này, Đảng ta chỉ rõ việc coi trọng đào tạo và phát triển
đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa và “khơng bố trí cán bộ làm cơng tác văn hóa
kém năng lực, thiếu bản lĩnh” là khâu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát
triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay.
3. Liên hệ tình hình thực tế xây dựng văn hố , con người ở Việt Nam hiện
nay
Ðại hội XIII của Ðảng đã thành công tốt đẹp, đánh dấu bước phát triển mới vô
cùng quan trọng của sự nghiệp dựng xây đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta đặt


nhiều niềm tin và hy vọng vào chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong
tương lai gần là "Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh tồn
diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm
gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế xã hội là trung tâm; xây dựng Ðảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên" như đã xác định
trong bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại phiên
khai mạc Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng.
       Sức mạnh của dân tộc là sự tổng hợp sức mạnh của hệ thống chính trị và nền

văn hóa, con người Việt Nam. Khi Ðảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, các tổ
chức quần chúng hoạt động hiệu quả và nền văn hóa thật sự tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, con người Việt Nam phát huy tốt phẩm giá, trí tuệ của mình thì đất


nước chắc chắn sẽ hùng cường. Việt Nam sẽ là đất nước hạnh phúc, là nơi đáng
sống của nhiều dân tộc trong sự hội nhập với nhân loại. Văn hóa và con người Việt

Nam vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Có lẽ, chúng ta cần
quan tâm hơn việc giáo dục, tuyên truyền lối sống đẹp "mỗi người vì mọi người,
mọi người vì mỗi người" như đã từng được quan tâm và thực hiện rất tốt trong
những năm tháng đất nước có chiến tranh. Một xã hội chỉ được coi là tốt đẹp khi
tràn ngập yêu thương và lẽ phải được bảo vệ. Yêu thương chính là cốt lõi của đạo
đức con người. Yêu thương sẽ tạo ra những suy nghĩ tử tế, những việc làm tử tế.
Từ Ðại hội XIII, vấn đề văn hóa và con người Việt Nam đã được đặt đúng chỗ,
đúng tầm. Ðó là nền tảng tinh thần của xã hội, của dân tộc và của Ðảng, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Ðảng ta là đạo đức, là văn minh". Vì thế, để đưa Nghị
quyết Ðại hội XIII của Ðảng vào cuộc sống, cần phải thực hiện "Phát triển con
người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc" như dự thảo văn kiện đã nêu.
III.

Kết luận

Như đã nói, văn hóa ln mang tính đa dạng và biến đổi. Thế nhưng, cho đến
nay các chính sách về văn hóa của Nhà nước ta lại chưa quan tâm đúng mức đến sự
đa dạng văn hóa ở một đất nước vốn có nhiều dân tộc và nhiều vùng địa lý mang
những đặc điểm khác biệt. Bên cạnh đó, việc triển khai các hoạt động liên quan


đến chính sách cũng chưa phù hợp khi nhà nước, chứ không phải người dân, lại
được coi là chủ thể hoạt động và như vậy là chưa đúng với tinh thần xây dựng nền
văn hóa đại chúng - nền văn hóa thuộc về nhân dân với những biến đổi tự thân
khơng ngừng.
Thực tiễn xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam đặt ra nhiều thách
thức trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, triển vọng cũng không hề nhỏ khi mà Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan điểm coi văn hóa là mục tiêu và động
lực phát triển, coi con người là trung tâm trong chiến lược phát triển. Chủ trương

của Đảng về văn hóa trong các kỳ Đại hội sẽ là nền tảng vững chắc để tạo ra những
chuyển biến tích cực. Vấn đề cịn lại là quyết tâm chính trị của tồn bộ hệ thống
quản lý nhà nước có liên quan.



×