Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Thi Pháp Tiểu Thuyết Nỗi Buồn Chiến Tranh Của Bảo Ninh (Qua So Sánh Với Tiểu Thuyết Phía Tây Không Có Gì Lạ Của Erich Maria Remarque Và Tiểu Thuyết Khói Lửa Của Henri Barbusse).Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.06 KB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ THÚY VÂN

THI PHÁP TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH
CỦA BẢO NINH (QUA SO SÁNH VỚI TIỂU THÚT PHÍA
TÂY KHƠNG CĨ GÌ LẠ CỦA ERICH MARIA REMARQUE
VÀ TIỂU THUYẾT KHÓI LỬA CỦA HENRI BARBUSSE)

LUẬN VĂN THẠC SI ̃

Hà Nội – 2013
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THỊ THÚY VÂN

THI PHÁP TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA
BẢO NINH (QUA SO SÁNH VỚI TIỂU THÚT PHÍA TÂY
KHƠNG CĨ GÌ LẠ CỦA ERICH MARIA REMARQUE
VÀ TIỂU THUYẾT KHÓI LỬA CỦA HENRI BARBUSSE)

Luận văn Thạc Sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN BÁ THÀNH


Hà Nội – 2013

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 84
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 84
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 106
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 1612
4. Mục đích nghiên cứu…...………………………………………………....13
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 1713
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................. 1814
NỘI DUNG ............................................................................................. 1915
CHƢƠNG1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THI PHÁP TIỂU THUYẾT
VÀ CÁC TÁC PHẨM PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ (ERICH MARIA
REMARQUE), KHÓI LỬA (HENRI BARBUSSE), NỖI BUỒN CHIẾN
TRANH (BẢO NINH) ............................................................................. 1915
1.1.Tiểu thuyết - Đặc trưng thể loại tiểu thuyết .......................................... 1915
1.1.1. Thể loa ̣i tiểu thuyết ..................................................................... 1915
1.1.2.Mô ̣t số vấ n đề về thi pháp tiể u thuyế t .......................................... 2117
1.2. Tác giả Maria Remarque và tiểu thuyết Phía Tây khơng có gì lạ ......... 2521
1.2.1.Erich Maria Remarque – Nhà văn hiện đại tiêu biểu của Đức ....... 2521
1.2.2. Tiểu thuyết Phía tây khơng có gì lạ ............................................. 2622
1.3. Tác giả Henri Barbusses và tiểu thuyết Khói Lửa................................ 2824
1.3.1.Về tác giả Henri Barbusse – Nhà văn Pháp nổi tiếng .................... 2824
1.3.2. Khói lửa – viên gạch đặt nền móng cho văn học xã hội chủ nghĩa Pháp
............................................................................................................ 2925
1.4. Bảo Ninh và tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh ...................................... 3027
1.4.1.Bảo Ninh – con người và sự nghiê ̣p văn chương .......................... 3027

1.4.2.Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh – đỉnh cao của văn học Việt Nam
thời hậu chiến....................................................................................... 3329

5


1.5. Khái quát về những tương đồng và khác biệt của Nỗi buồ n chiế n tranh so
với Phía tây khơng có gì lạ và Khói lửa. .................................................. 3430
1.5.1. Những nét tương đồ ng ............................................................... 3430
1.5.2. Những điể m khác biê ̣t của

Nỗi buồn chiến tranh so với Phía tây

khơng có gì lạ và Khói lửa ................................................................... 3632
CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG NHÂN VẬT VÀ

KHÔNG – THỜI GIAN

NGHỆ THUẬT ....................................................................................... 3834
2.1.Quan niê ̣m nghê ̣ thuâ ̣t về con người của Bảo

Ninh trong Nỗi buồ n chiế n

tranh......................................................................................................... 3834
2.1.1. Con người bản ngã, bản năng ...................................................... 3834
2.1.2. Con người tâm linh ..................................................................... 4036
2.1.3. Con người là na ̣n nhân của hoàn cảnh ......................................... 4440
2.2. Hê ̣ thố ng nhân vật .............................................................................. 4743
2.2.1 Thế giới nhân vật ......................................................................... 4844
2.2.2. Các kiểu nhân vật đặc biệt ......................................................... 5854

2.2.3. Thủ pháp xây dựng nhân vật ....................................................... 5248
2.3.Không gian nghê ̣ thuâ ̣t ........................................................................ 6662
2.3.1. Không gian phố phường ảo giác.................................................. 6763
2.3.2. Không gian rừng núi huyền thoại ................................................ 7167
2.4.Thời gian nghê ̣ thuâ ̣t ........................................................................... 7571
2.4.1. Dịng thời gian đứt gãy, đờng hiện .............................................. 7571
2.4.2. Dòng thời gian quá khứ .............................................................. 7874
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT ................. 8379
3.1. Sự di chuyển giữa các điểm nhìn trần thuật......................................... 8379
3.1.1. Nhân vật trần thuật xưng “tơi” trong Nỗi buồn chiến tranh và Phía tây
khơng có gì lạ....................................................................................... 8379
3.1.2. Nhân vật trần thuật xuất hiện ở ngôi thứ ba ................................. 8682

6


3.1.3. Nhân vật trần thuật là các nhân vật khác...................................... 9187
3.1.4. Sự đan xen các điểm nhìn trần thuật ............................................ 9389
3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ............................................................. 9591
3.2.1. Nỗi buồn chiến tranh với cốt truyện theo dòng ý thức ................. 9591
3.2.2. Nỗi buồn chiến tranh dưới cốt truyện kiểu lồng ghép (tiểu thuyết “tiểu
thuyết trong tiểu thuyết”, “truyện trong truyện”) ................................... 9894
3.2.3.Sử dụng phương thức kết cấu mở ............................................... 10197
3.3. Ngôn ngữ trần thuật ......................................................................... 10399
3.3.1. Nỗi buồn chiến tranh với thủ pháp độc thoại nội tâm .............. 104100
3.3.2. Ngôn ngữ đối thoại ................................................................. 106102
3.3.3. Ngôn ngữ tả thực .................................................................... 108104
3.4. Sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật ........................................... 109105
3.4.1. Giọng hồi tưởng, buồn thương ................................................ 110106
3.4.2. Giọng giễu nhại ...................................................................... 112108

3.4.3. Giọng triết lý, chiêm nghiệm................................................... 114110
KẾT LUẬN ......................................................................................... 118114
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 121117

7


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chiế n tranh - cho đế n nay , vẫn là mô ̣t đề tài lớn , mang tầ m vóc nhân
loại. Nó từng có bề dài và bề dày trong tiế n triǹ h của lich
̣ sử văn ho ̣c thế
giới. Chiế n tranh và âm vang trong bản trường ca Iliat , Ođixê của Homer ,
trong bô ̣ tiể u thuyế t đồ sô ̣

Chiế n tranh và hòa bình của Tolstoi… Và gần

hơn, trong Chuông nguyê ̣n hồ n ai của He mingway, trong Cái trống thiếc
của Gunter Grass , trong Khói Lửa của H .Barbusse, trong Phía tây khơng
có gì lạ của E .Remarque và mô ̣t số tác phẩ m kh

ác,… Ở Việt Nam , chiế n

tranh vẫn là đề tài có tin
́ h thời sự vì nó gắ n liề n với số phâ ̣n đau thương
của dân tộc . Chiế n tranh như mô ̣t nỗi ám ảnh , mô ̣t vế t thương rỉ máu , khó
lành. Đặc biệt , đến với nền văn học thời hậu chiến, ta như sống lại với cả
một quá khứ hào hùng nhưng cũng đầy bi cảm. Trong giai đoạn này, cảm
hứng ngợi ca và cổ vũ khơng cịn là dịng chảy chính mạnh mẽ trong q
trình sáng tác của nhà văn mà họ đã đi vào những mặt trái, những góc

khuất của cuộc chiến tranh để phản ánh nó một cách đầy đủ, sâu sắc và
trung thực nhất. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một tác phẩm phản
ánh rõ nét nhất và nó được coi là một cột mốc sáng chói của văn học thời
kì đổi mới.
Khơng phải ngẫu nhiên mà Nỗi buồn chiến tranh đạt Giải nhất của Hội
nhà văn Việt Nam năm 1991 (cùng với các tác phẩm khác là Mảnh đất lắm
người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng của Dương
Hướng). Tác phẩm là cách nhìn chiến tranh của riêng nhà văn, không
giống như sử thi truyền thống . Bảo Ninh có cái nhìn sâu hơn về thân phận
con người đã trải qua trận mạc, sự mất mát cá nhân trong thời chiến.
Xuyên suốt tác phẩm là nỗi buồn về chiến tranh, về một tình u khơng
trọn vẹn. Đó là những trang văn “nhỏ máu đầu ngọn bút”, chứa đựng cả

8


niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh lẫn nỗi thống khổ tột cùng. Tác phẩm đã chạm
vào mẫu số chung của cả nhân loại - khai thác chiến tranh từ góc độ đời tư.
Nội dung ấy lại được thể hiện qua một bút pháp quả là mới lạ “một ćn
hơi khó đọc - đương nhiên, khi được viết với một kĩ thuật khá lạ”. Nhà văn
Nguyên Ngọc cũng đánh giá “về mặt nghệ thuật đó là thành tựu cao nhất
của văn học đổi mới”. Chúng tôi cho rằng đi vào thế giới nghệ thuật của
tác phẩm sẽ khám phá, khẳng định giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật của nó vì nội dung nào cũng được chứa đựng bởi hình thức, hình
thức nào cũng chứa đựng nội dung.
Tiểu thuyết Phía tây khơng có gì lạ và Khói lửa được đánh giá là hai
cuốn tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh hay nhất trên thế giới. Khi so
sánh về cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh, tờ nhật báo uy tín của nước Anh
đã nhận xét: “Vượt ra ngoài sức tưởng tượng của người Mĩ, Nỗi buồn
chiến tranh đi từ chiến tranh Việt Nam đã đứng ngang hàng với c uốn tiểu

thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỉ, Mặt Trận phía Tây vẫn yên tĩnh của
Erich Maria Remarque (…). Một cuốn sách về sự mất mát của tuổi trẻ,
cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn… một thành quả lao động tuyệt
đẹp”. Nhận thấy được những sự tương đồng về phương diện thể loại, quan
niệm về chiến tranh, hiện thực được phản ánh trong chiến tranh và về con
người trong chiến tranh, chúng tơi đã quyết định tìm hiểu vấn đề “Thi
pháp tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (Qua so sánh với
tiểu thuyết Phía tây khơng có gì lạ của Erich Maria Remarque và tiểu
thuyết Khói lửa của Henri Barbusse)” giúp chúng tôi hiểu hơn về một
nhà văn hậu chiến nhìn nhận và thể hiện cuộc chiến tranh như thế nào,
đờng thời qua đó chúng tơi nhận thức được thế giới nghệ thuật của nhà
văn Bảo Ninh.

9


2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1.Tình hình nghiên cứu ba tác phẩm: Khói Lửa, Phía tây khơng có gì lạ,
Nỗi buồn chiến tranh.
*Về tác phẩm Khói Lửa của H.Barbusse
Kể từ khi ra đời (1916) trên báo Sự nghiệp cho đến khi được xuất bản
thành sách (1917), Tác phẩm Khói Lửa đã được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm, bình giá trong các cuộc báo, tạp chí.
Báo Sự thật số ra 2 - 9 – 1935(dẫn lại trong lời tựa viết cho cuốn Khói
Lửa – Nhà xuất bản Ngoại văn Mạc tư khoa năm 1953) G.Đimitrop có viết
“Tên tuổi của H.Barbusse sẽ chói lịa trên những lá cờ của hàng triệu người
đang đấu tranh chống lại thế giới cũ, thế giới của sự bóc lột, của sự nơ lệ và
của những cuộc chiến tranh ăn cướp” và “H.Barbusse là người chiến sĩ phản
đối chiến tranh đế quốc đầu tiên và lớn nhất trong văn học thế giới” [dẫn theo
18; tr.1].

Trong cuốn Những cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô,(1961), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, ở trang 82,có in bài
viết của A.Ivasenko với bài “góp phần vào vấn đề chủ nghĩa hiện thực phê
phán và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” do Vũ Thứ Hiển và Lê Đình
Kỵ (dịch), có đoạn đã nhận xét “Barbusse liên miên bất tận trong những mơ
típ tàn khớc, vì bản thân thực tại cũng tàn khốc. Ở nhà tự nhiên chủ nghĩa, sự
thể hiện tự nó là mục đích; ở nhà hiện thực xã hội chủ nghĩa Barbusse, mơ tả
cái gì là đứng trên lập trường của một lí tưởng xã hội nhất định và nhằm
phục tùng những nhiệm vụ tác động đến thực tại về mặt tư tưởng” [dẫn theo
18; tr.13].
Annet Vidan trong bài viết H.Barbusse-chiến sĩ của hịa bình (tr.65),
Nhà xuấst bản Les essditeurs Francais reessunis, Paris-1953, đã viết:“Đọc tác
phẩm của ông, tôi như vừa được ở chiến hào ra” và “Ông đã thét lên tiếng

10


thét của chân lí,…Tác phẩm của ông là bức tranh của cuộc đời tăm tối như
địa ngục của chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn ông đã vạch cho chúng tôi một
tương lai vô cùng vinh quang”[dẫn theo 18; tr.13].
Cuốn Văn sĩ xã hội của Hải Triều - Nhà xuất bản Văn hóa cứu quốc Việt
Nam có viết “Đới với Việt Nam chúng ta, thân thế và sự nghiệp văn học của
Henri Barbusse đã có ảnh hưởng lớn đới với các nhà văn và các nhà hoạt
động cách mạng ngay trong những năm trước cách mạng tháng Tám.
Barbusse đã nghiêm khắc lên án chế độ thuộc địa vô cùng tàn bạo của thực
dân Pháp. Đã từ lâu, báo chí Việt Nam đã có những bài giới thiệu
H.Barbusse như một nhà văn dùng nghệ thuật của mình để phục vụ nhân dân,
phục vụ chân lí, phục vụ Chủ nghĩa xã hội” [dẫn theo 18; tr.9].
Trong bài viết Nhà văn Pháp có mối thâm giao với Nguyễn Ái Quốc,
tác giả Hữu Ngọc từng nhận định về Khói Lửa: “Đây là tác phẩm hiện đại

đầu tiên tả chiến tranh một cách trần trụi của nhà văn, theo bút pháp tự nhiên
chủ nghĩa, không tô vẽ bằng một lớp phấn “ái quốc” hay “anh hùng ca”. Lời
lẽ mộc mạc ý vị vì dùng tiếng lóng của lính, vừa tục tằn vừa gây được cảm
xúc. Khói Lửa sẽ sống mãi với tinh thần là tư liệu sâu sắc về nhân tính và là
khuôn mẫu của một thể loại văn học đề cập đến chiến tranh với triết lí về con
người, vượt ra ngoại ý thức hệ và chính trị”[41; tr.5].
*Tác phẩm Phía tây khơng có gì lạ của Remarque
Ra đời năm (1929), tác phẩm Phía tây khơng có gì lạ cho đến nay vẫn là
một tác phẩm đặc biệt cho những ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu.
Trong lời mở đầu của cuốn sách Phía tây không có gì lạ, tác giả Lưu
Minh Sơn trong bài viết Erich Maria Remarque - người đi qua chiến tranh
đã có những nhận định, đánh giá về cuộc đời, sự nghiệp văn chương của
Remarque

11


Ngoài ra, trong cuốn Almanach những nền văn minh thế giới, (1997),
Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội và trong Từ điển văn học bộ mới
(2004), Nhà xuất bản Thế giới, cũng đã đi sâu tìm hiểu tác giả Remarque và
tác phẩm Phía tây khơng có gì lạ ở phương diện nghiên cứu tác gia tác phẩm.
*Tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
Kể từ khi ra đời (1987), rồi đạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam
(1991) dưới nhan đề Thân phận của tình yêu cho đến nay, cuốn tiểu thuyết
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, bình giá trong các cuộc hội thảo, trên
các tạp chí và trong một số chuyên đề.
Trên Báo Thể thao-Văn hóa số ra ngày 28.10.2006, Nguyễn Quang
Thiều có nhận xét: “Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số chung của
nhân loại, đó là câu chuyện của thân phận, của mất mát, của tình yêu và của
chiến tranh”.

Trong Thi pháp học hiện đại, (2000), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội,
ở phần III, Phê bình truyện, tác giả Đỗ Đức Hiểu có bài viết riêng về Nỗi b̀n
chiến trang. Tác giả đã đối chiếu mơ hình tiểu thuyết của Bảo Ninh với một số
tiểu thuyết Châu âu thế kỉ XX như Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Prourt.
Trong bài viết Kĩ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh của tác giả Nguyễn Đăng Điệp, in trong Tự sự học – một số vấn đề lí
luận và lịch sử, (2003), Nhà xuất bản Đại học sư phạm, đã khám phá kĩ thuật
dòng ý thức qua việc nghiên cứu những giấc mơ đứt gãy, những trạng thái
ngủ “mở mắt” của nhân vật Kiên. Từ đó tác giả rút ra kết luận về sức hấp dẫn
của thiên tiểu thuyết: “Văn Bảo Ninh hấp dẫn người đọc ở chính khoảng lặng
của ngôn từ, ở màu sắc của biểu tượng được dệt lên từ những giấc mơ, những
độc thoại của con người về mình và về chính cõi người”[52; tr.408].
Đào Duy Hiệp trong Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, (2007),
Nhà xuất bản Giáo Dục, đã nghiên cứu thời gian trong tiểu thuyết Nỗi buồn

12


chiến tranh. Một trong những kết luận quan trọng mà tác giả rút ra là: “Chính
những thủ pháp “sai trật, ngoái lại, đoán trước” ở đây đã dệt nên trong tác
phẩm của Bảo Ninh một mạng lưới tâm lí truyện kể được xem như một ý thức
về thời gian hoàn tồn rõ rệt và những mới liên hệ khơng mập mờ giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai”[23; tr267 - 289].
Nhìn chung, qua những tài liệu nghiên cứu mà chúng tơi tập hợp được
thì vấn đề về nội dung, nghệ thuật của cả ba cuốn tiểu thuyết trên đã được các
nhà nghiên cứu đưa ra bàn luận trong mấy năm trở lại đây. Tuy vậy, việc
khẳng định giá trị của mỗi cuốn tiểu thuyết vẫn là công việc lâu dài của giới
phê bình và cơng chúng văn học.
2.1.Tình hình nghiên cứu vấn đề thi pháp trong tiểu thuyết Khói Lửa,
Phía tây khơng có gì lạ và Nỗi buồn chiến tranh

Khi đi tìm hiểu vấn đề thi pháp trong cả ba tác phẩm trên, có thể nhận
thấy rõ ràng nhất ở hai tác phẩm Khói lửa và Phía tây khơng có gì lạ dường
như việc nghiên cứu ở phương diện nghệ thuật, thi pháp của mỗi tác phẩm
trên vẫn là vấn đề còn đang rất mới. Hầu hết những bài viết bàn luận về tác
giả, đáng giá cao về nội dung tác phẩm chứ chưa có bài nào thực sự khai thác
sâu ở lĩnh vực nghệ thuật của tác phẩm.
Việc nghiên cứu vấn đề thi pháp Nỗi buồn chiến tranh ở Việt Nam có
khá nhiều bài viết, bài nghiên cứu bàn luận về: nhân vật, khơng-thời gian, cốt
truyện, có thể kể đến các cơng trình như:
Trong cuốn Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy, Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (cb),(2005), Nhà xuất bản Giáo
dục, có in hai bài nghiên cứu về vấn đề nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh
Tác giả Phạm Xuân Thạch với Nỗi buồn chiến tranh viết về thời kì hậu
chiến – từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp đã chia thế
giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh thành ba tuyến chạy song song với

13


cuộc đời nhân vật Kiên: những người phụ nữ, những người đồng đội, những
người thân.
Tác giả Nguyễn Thị Mai Liên với bài viết Hình tượng con người – nạn
nhân chiến tranh trong hai tiểu thuyết Một nỗi đau riêng và Nỗi buồn
chiến tranh đã so sánh hai tác phẩm trên ở ba phương diện: con người dị
dạng nhân hình, con người tha hóa về nhân tính, con người khắc khoải về một
xứ sở bình n nhưng khơng trớn chạy thực tại.
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 10.2008, tác giả Đinh Thị
Huyền đã đưa ra một số đặc điểm của nhân vật tiểu thuyết hậu chiến nói
chung: nhân vật tha hóa về nhân tính, nhân vật suy tư chiêm nghiệm sống với
thời gian hai chiều, nhân vật tự nhận thức.

Trong bài viết Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau
1975 in trong cuốn Tiểu thuyết đương đại – tiểu luận – phê bình văn học,
(2005), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Tác giả Bùi Việt Thắng đã cho
rằng: “Cùng với những tác phẩm khác, Nỗi buồn chiến tranh có thời gian –
tâm lí và kí ức trở nên đậm đặc (với tỉ lệ quá khứ ba – hiện tại một)” và “Kí
ức như là một chất liệu kiến tạo nên cấu trúc tác phẩm. Nỗi buồn chiến tranh
có nhiều tầng lớp (đa tuyến) nhưng lại mang dáng vẻ gọn nhẹ, linh hoạt. Kiểu
cấu trúc dựa vào lịch sử tâm hồn tạo điều kiện cho nhà văn miêu tả nghệ
thuật đời sống theo chiều sâu” [59; tr.414].
Điểm nhìn và thời gian nghệ thuật của Nỗi buồn chiến tranh cũng được
tác giả Trần Quốc Huấn đánh giá trong bài viết Thân phận tình yêu của Bảo
Ninh đã cho rằng: “Tồn bộ tác phẩm là cái nhìn ngoái lại, thờ thẫn, đăm
đắm của một người lính khi đã tàn cuộc. Cái nhìn dằng dặc, đầy phân tán
nhưng khơng hề lơ đãng. Điểm nhìn có góc độ rộng, song khá tập trung”
[25;tr.85].

14


Trên Tạp chí Sơng Hương, số 205 (3-2006), Trần Huyền Sâm viết bài
khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của Nỗi buồn chiến tranh qua bài
Bảo Ninh và nỗi ám ảnh về chiến tranh. Theo Trần Huyền Sâm: “Nỗi buồn
chiến tranh đã chứng tỏ một cây bút sắc sảo, có chiều sâu (…). Thủ pháp đậm
đặc nhất là thủ pháp độc thoại nội tâm” [50;tr.45].
Trong bài viết Tìm hiểu trình tự thời gian nghệ thuật của Ăn mày dĩ
vãng và Nỗi buồn chiến tranh – tiếp cận từ lí thuyết thời gian của Genetle
đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 225, của Trần Quốc Hội đã nhận định một
trong những vấn đề tạo nên sự thành công của hai tác phẩm trên là do “hai tác
giả đã xử lí theo kết cấu đảo thuật thời gian, phá vỡ cấu trúc truyền thống”
[27;tr.41]. Nhưng “nếu Ăn mày dĩ vãng mỗi “blog” là một lát cắt của sự kiện

thì trong Nỗi buồn chiến tranh mỗi “blog” là mỗi vòng trịn đồng tâm. Hầu
như trong Nỗi buồn chiến tranh khơng có sự kiện hành động mà chỉ là sự kiện
tâm trạng hay nói cách khác tâm trạng về sự kiện” [27;tr.41]. Dù chỉ trong bài
viết ngắn nhưng Trần Quốc Hội cũng đã minh chứng qua sự thống kê khá tỉ mỉ
và đưa ra nhận xét chính xác về cách xây dựng nhân vật trong tác phẩm của
Bảo Ninh. Nghiên cứu đó gợi ý rất nhiều cho chúng tơi tìm hiểu cách xây dựng
cốt truyện và hình tượng nhân vật.
Qua một số nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê bình, chúng tôi rút ra
một số kết luận sau:
- Ra đời sau Khói Lửa và Phía tây khơng có gì lạ gần bảy mười lăm năm.
Cùng thâm canh trên mảnh đất viết về chiến tranh nhưng Bảo Ninh khơng nhìn
chiến tranh bằng những tấm huân chương, những bản anh hùng ca, mà giống
như hai nhà Remarque và H.Barbusse, Bảo Ninh đã nhìn nhận chiến tranh từ
góc độ của người vừa cầm súng vừa cầm bút để ghi lại, phơi bày một cách trần
trụi tất cả những gì khốc liệt, đau thương, tăm tối nhất của chiến tranh.

15


- Kể từ khi ra đời, tác phẩm đã tạo ra những l̀ng ý kiến đánh giá khác
nhau, thậm chí đối lập về giá trị nội dung và tài năng nghệ thuật của Bảo Ninh.
Nhưng từ khi đất nước hội nhập, tác phẩm được nhiều độc giả biết đến, nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm, xu hướng đánh giá cao nội dung và nghệ thuật tác
phẩm chiếm ưu thế.
- Chúng tôi nhận thấy các khía cạnh nghệ thuật của tiểu thuyết như cốt
truyện, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, điểm nhiǹ trần thuật… hầu hết đã được
các nhà nghiên cứu quan tâm. Hơn nữa nhiều hướng tiếp cận mới từ lý thuyết
thi pháp của văn xuôi phương Tây càng làm giàu thêm giá trị tác phẩm. Tuy
nhiên do phạm vi của một bài báo, bài viết nên các tác giả chỉ mới nêu lên một
vài đặc điểm của một vài khía cạnh về thi pháp tác phẩm chứ chưa nghiên cứu

một cách tồn diện, sâu sắc và có hệ thống.
Qua những nhận xét trên chúng ta đã thấy được rằng các tác giả đều đã
khẳng định những nét nghệ thuật độc đáo trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh đã làm nên thành công lớn cho tác giả. Tuy nhiên mỗi công trình, mỗi ý
kiến thường chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nhất định về nghệ thuật trần
thuật của tác phẩm chứ chưa đi sâu vào phân tích tìm hiểu và trình bày một
cách có hệ thống. Đó sẽ là những tài liệu bổ ích, là nền tảng kiến thức, là cơ
sở để chúng tơi tiếp tục đi sâu tìm hiểu về vấn đề này mong mang đến cho
người đọc một cái nhìn tồn diện và hệ thống hơn về mảng nghệ thuật

trong

tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
thuật tiểu thuyết Nỗi buồn chiến

Luận văn tập trung nghiên cứu nghê ̣

tranh của Bảo Ninh. Phía tây khơng có gì lạ của Erich Maria Remarqua, Khói
lửa của Heri Barbusse. Để thấy được sự tương đờng và đờng thời làm tốt lên
được sự sáng tạo và thành công của tác giả Bảo Ninh.

16


Nghiên cứu thi pháp tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi sẽ đi vào
nghiên cứu thi pháp nhân vật, Không – thời gian nghê ̣ thuâ ̣t , đă ̣c điể m nghê ̣
thuâ ̣t trầ n thuâ ̣t và chỉ ra hiệu quả nghệ thuật trong sự đổi mới về phương diện
này của tác phẩm. Trong nghệ thuật trần thuật, chúng tơi sẽ nghiên cứu các
điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật tổ chức cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu,

không gian và thời gian nghệ thuật. Luận văn làm rõ những đổi mới nghệ thuật
tác phẩm trong thể loại tiểu thuyết.
4.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về thi pháp tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
qua so sánh với tiểu thuyết Phía tây khơng có gì lạ của Remarque và tiểu
thuyết Khói lửa của Barbusse, để có một cái nhìn tồn diện hơn về tác phẩm
Nỗi buồn chiến tranh cũng như đóng góp của Bảo Ninh vào nghệ thuật tiểu
thuyết, vào tiến trình phát triển của văn học đương đại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp
tiếp cận thi pháp học; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh - đối chiếu;
phương pháp lịch sử - xã hội.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Phương pháp tiếp cận thi pháp học giúp chúng tôi chỉ ra bản chất nghệ
thuật của tác phẩm, chỉ ra lí do tờn tại của hình thức nghệ thuật trong mối quan
hệ với nội dung để chỉ ra đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm.
-Phương pháp thống kê
Ở một số tiểu mục như thời gian nghệ thuật, thế giới nhân vật, nghệ thuật
ngôn từ, chúng tôi khảo sát đưa ra số liệu, cụ thể hóa kĩ thuật xây dựng tác
phẩm của tác giả. Kết quả thống kê sẽ là cơ sở cho chúng tơi phân tích giá trị
nội dung và so sánh với một số tác phẩm khác.
- Phương pháp so sánh

17


Khi phân tích giá trị các yếu tố nghệ thuật được xây dựng trong tác phẩm,
chúng tơi có so sánh với cách thức xây dựng tác phẩm của các tác giả khác để
làm nổi bật đóng góp của Bảo Ninh trên con đường đổi mới tiểu thuyết.
- Phương pháp lịch sử - xã hội

Sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội, chúng tơi muốn có một cái nhìn tổng
qt khi đặt các tác phẩm vào bối cảnh của xã hội để nghiên cứu, nhìn nhận
trong mối quan hệ ngoại sinh, phù hợp với quy luật khách quan, điều đó giúp
chúng tơi có thể hình dung được mối quan hệ gần gũi với đời sống của dân tộc,
và rộng hơn là đời sống của nhân dân thế giới.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gờm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận về thi pháp tiểu thuyết và các tiể u thuyế t
Phía tây khơng có gì lạ (Erich Maria Remarque), Khói Lửa (Henri Barbusse),
Nỗi buồ n chiế n tranh (Bảo Ninh)
Chương 2: Hê ̣ thố ng nhân vâ ̣t và Không – thời gian nghê ̣ thuâ ̣t
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật trần thuật

18


NỘI DUNG
CHƢƠNG1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THI PHÁP TIỂU
THUYẾT VÀ CÁC TÁC PHẨM PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ LẠ (ERICH
MARIA REMARQUE), KHÓI LỬA (HENRI BARBUSSE),
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH)
1.1.Tiểu thuyết - Đặc trƣng thể loại tiểu thuyết
1.1.1. Thể loa ̣i tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một khái niệm mới và ngay thế kỷ XIX đã được coi
là“hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ”. Ở châu Âu, tiểu thuyết xuất
hiện vào thời kì xã hội cổ đại tan rã và văn học cổ đại suy tàn. Giai đoạn phát
triển mới của tiểu thuyết châu Âu bắt đầu từ thời Phục hưng và đến hết thế kỷ
XIX với sự xuất hiện của các nghệ sĩ bậc thầy như Xtăng-đan, Ban-dắc, Đíchkenx, Gơ-gơn, L.Tơnxtơi...
Tiểu thuyết hình thành ở Châu Âu vào thời kỳ xã hội cổ đại tan rã
học cổ đại suy tàn ; hình thành ở Trung Quốc vào thời Ngụy Tấn


, văn

(III - IV)

dưới dạng chí quái chí nhân . Lịch sử thể loại tiểu thuyết là lịch sử dần khẳng
định ưu thế thể loại của mình . Đến thế kỉ XIX, tiểu thuyết được coi là hình
thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ. Giai đoạn hiện nay, tiểu thuyết vẫn đứng
ở vị trí then chốt trong hệ thống thể loại văn học.
Nhà bác học Nga – M. Bakhtin (1895 - 1975) - một trong những nhà
khoa học nhân văn lỗi lạc nhất trong thế kỉ XX, rất đề cao thể loại tiểu thuyết.
“Có thể coi tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất cho thời đại mới
của lịch sử loài người, là thành quả rực rỡ có giá trị như một bước nhảy vọt
thực sự vĩ đại của hàng ngàn năm văn chương thế

giới” [38; tr.8] Bakhtin

nhận định “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất ln biến đổi, do đó
nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn sự chuyển biến của bản
thân hiện thực . Chỉ kẻ biến đổi mới hiểu được sự biến đổi . Tiểu thuyết sở dĩ

19


thành nhân vật chính trong tấn kịch phát triển văn học thời đại mới bởi vì nó
là thể loại duy nhất do thế giới mới ấy sản sinh ra và đồng chất với thế giới
ấy về mọi mặt” [38; tr.27].
Gần với quan niệm của Bakhtin, Kundera – nhà văn Pháp gốc Tiệp, nhà
lí luận về tiểu thuyết đặc sắc , một trong những nhà tiểu thuyết quan trọng nhất
hiện nay, cũng chỉ ra những yêu cầu mà tiểu thuyết cần đáp ứng để có khả

năng hồn thành sứ mệnh cao cả của miǹ h . Tiểu thuyết theo quan niệm của
Kundera thể hiện trong min
̀ h “tinh thần phức tạp” “hiền minh của hồi nghi”
tiểu thuyết khơng đi tim
̀ câu trả lời mà đặt ra các câu hỏi

,

. Nó nghiên cứu

“không phải hiện thực mà là hiện sinh” - nghiên cứu ngay chính bản chất sự
tờn tại của con người . Kundera không thoả mañ với quan niệm về tiểu thuyết
như sự phản ánh hiện thực . Đối với ông , đó trước hết là “sự tổng hợp trí tuệ
lớn” tự do thu nhận vào mình những suy tư về bất kỳ đề tài nào

. Ơng khẳng

định khơng có cái gì có thể đưa ra suy luận mà lại nằm ngoài nghệ thuật tiểu
thuyết.
Trên cơ sở tìm hiểu quan niệm của Bakhtin và Kundera

- hai nhà

nghiên cứu tiểu thuyết lỗi lạc, ta thấy việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh,
đầy đủ về tiểu thuyết là một vấn đề đầy thách thức với các nhà nghiên cứu
phê bình lí luận văn học .
Trong hơn một thế kỷ qua, ở Việt Nam, cũng có nhiều quan niệm của
các nhà văn, nhà khoa học về tiểu thuyết. So với các nước thì tiểu thuyết ở
Việt Nam phát triển muộn hơn. Mãi đến đầu thế kỉ XVIII, với sự xuất hiện
của Nam triều cơng nghiệp diễn chí, Hồng Lê nhất thớng chí thì nước ta mới

có tác phẩm có quy mơ tiểu thuyết. Tuy nhiên nó vẫn là những tác phẩm
thuộc phạm trù tiểu thuyết cổ điển phương Đông. Phải sang đầu thế kỷ XX thì
ở Việt Nam mới có tiểu thuyết hiện đại.

20


Trong Bàn về tiểu thuyết, Bùi Việt Thắng cho rằng tiểu thuyết là “một
truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tí nh tự người ta , phong tục xã hội hay
những sự lạ tích kỳ, đủ làm cho người đọc có hứng thú” [59; tr.218].
Trong Từ điển văn học (Bộ mới) tác giả Lại Nguyên Ân và Nguyễn Huệ Chi
viết: “Tiểu thuyết là thuật ngữ chỉ thể loại tác phẩm tự sự trong đó sự trần
thuật tập trung vào một số phận, một cá nhân trong quá trình hình thành và
phát triển của nó; sự trần thuật ở đây được triển khai trong không gian và
thời gian nghệ thuật đến mức đủ truyền đạt cơ cấu của nhân cách

.” [20;

tr.1716].
Điểm lại một số quan niệm về tiểu thuyết được giới nghiên cứu phê bin
̀ h
quan tâm trên để thấy một cái nhìn khái quát nhất về thể loại tiểu thuyết. Đờng
thời đó cũng là minh chứng cụ thể nhất về tính phức tạp của bản thân thể loại.
Là thể loại đặc biệt, tiểu thuyết chứa đựng trong nó những yếu tố chưa
hoàn kết, việc đưa ra khái niệm khái quát, đầy đủ là vấn đề khoa học lâu dài,
và đầy thách thức.
Nhìn chung có thể nhận thấy “ Tiểu thuyết là một hình thức tự sự cỡ lớn ,
mô tả đời sống riêng của con người trong những mối quan hệ rộng lớn với xã
hội” [37; tr.244] Trên tinh thần đó có thể thống nhất với quan niệm trong giáo
trình Lí luận văn học – Phương Lựu (Chủ biên) để làm cơ sở nghiên cứu:

“Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và
hiện đại. Với những giới hạn rộng răi trong hình thức trần thuật , tiểu thuyết
có thể chứa đựng lịch sử nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đặc
điểm xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện những
tính cách đa dạng” [37; tr.387]
1.1.2.Mô ̣t số vấ n đề về thi pháp tiể u thuyế t
Lịch sử tiểu thuyết xuất hiện từ rất sớm ở châu Âu và đã phát triển rất
mạnh so với các thể loại khác. Ở đây người ta biết đến tiểu thuyết với các tên

21


tuổi bậc thầy như Xtangđan, Banzac, Đichkenx, L.Tonxtoi... đã đưa thể loại
này đạt tới sự nảy nở trọn vẹn. Riêng ở Trung Quốc mầm mống tiểu thuyết
cũng xuất hiện sớm với những pho tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng. Tiểu
thuyết phát triển mạnh mẽ như một dòng chảy từ tiểu thuyết hiện thực xã hội
phê phán phương Tây đến nguồn mạch dồi dào của tiểu thuyết Mĩ Latinh và
các nước khắp hành tinh. Ngày nay tiểu thuyết đã có những cách tân đổi mới
như là sử dụng kỹ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, sự xáo trộn liên tục
các bình diện thời gian và khơng gian, điểm nhìn trần thuật luôn được thay
đổi chủ yếu giao cho các nhân vật dị biệt, sử dụng phổ biến bút pháp nhại, bút
pháp huyền thoại, sử dụng nghệ thuật đồng hiện. Mở đầu cho kiểu tiểu thuyết
cách tân này là các tên tuổi như: M. Proust, J. Joyce, Kafka... và ở Việt Nam
cũng đã xuất hiện các tên tuổi như: Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu, Chu Lai,...
Từ quan niệm về thể loại tiểu thuyết trên đây , ta nhận thấy trong tương
quan thể loại , tiểu thuyết có một số đặc trưng thể loại mang tính đặc thù . Tiểu
thuyết nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư

. Đặc điểm này làm cho tiểu thuyết


khác biệt với sử thi (anh hùng ca), ngụ ngôn. Tiểu thuyết miêu tả những tình
cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và đời sống nội tâm
của con người. Đời sống riêng tư là tiêu điểm miêu tả cuộc sống một cách tiểu
thuyết. Yếu tố đời tư càng phát triển, chất tiểu thuyết càng tăng. Tiểu thuyết
gần gũi cuộc sống hơn các thể loại văn chương khác chính bởi tiểu thuyết
nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư với yêu cầu tái hiện cuộc sống như một thực
tại đang sinh thành.
Tiểu thuyết đặc trưng bởi chấ t văn xuôi. Chất văn xuôi chính là sự tái hiện
cuộc sống khơng thi vị hố, lãng mạn hố, lư tưởng hố. Chất văn xi làm cho
tiểu thuyết khác với truyện thơ, thơ trường thiên, sử thi. Miêu tả cuộc sống như
thực tại cùng thời đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu
tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời bao gồm cái cao cả và cái tầm thường

22

,


nghiêm túc và buồn cười , cái bi và cái hài , cái lớn lẫn với cái nhỏ . Chính chất
văn xuôi đã mở ra một vùng tiếp xúc tối đa với thời hiện tại đang sinh thành
làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn bởi nội dung phản ánh. Chất văn xuôi
làm cho tiểu thuyết du nhập ngày càng nhiều ngôn ngữ đời sống hằng ngày
nhằm hướng tới cái đang diễn ra, cái chưa hoàn tất trong cuộc đời thực.
Điều làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với nhân vật sử thi, nhân vật
kịch, nhân vật truyện trung cổ ở chỗ nhân vật tiểu thuyết là con người nếm
trải trong khi các nhân vật kia thường là nhân vật hành động. Nhân vật tiểu
thuyết cũng hành động nhưng do sự chi phối của đặc trưng thể loại, nhân vật
tiểu thuyết xuất hiện như là con người nếm trải tư duy , chịu khổ đau dằn vặt
của cuộc đời . Tiểu thuyết miêu tả con người trong hoàn cảnh , khơng tách nó
ra khỏi hồn cảnh một cách nhân tạo, khơng cơ lập nó cũng như khơng cường

điệu sức mạnh của nó. Tiểu thuyết miêu tả nhân vật như con người đang
trưởng thành biến đổi và do đời dạy bảo . Miêu tả thế giới bên trong , phân tích
tâm lí là một phương diện rất đặc trưng cho tiểu thuyết .
Trong truyện ngắn trung cổ , truyện vừa , cốt truyện đóng vai trò chủ yếu
cùng với nhân vật, mọi yếu tố trong tác phẩm được tổ chức sát với sự vận
động của cốt truyện và tính cách hầu như khơng có kế thừa . Lời nói nhân vật
cũng chỉ là một khâu thúc đẩy cốt truyện phát triển hoặc mở nút. Tiểu thuyết
lại khác, những cái thừa so với truyện vừa và truyện ngắn trung cổ lại là cái
chính yếu trong thành phần thể loại tiểu thuyết: Suy tư của nhân vật về thế
giới, về đời người, sự phân tích diễn biến tiǹ h cảm , sự trình bày tường tận các
tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ người - người… nói chung về
tồn bộ tờn tại của con người.
Xố bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật, tiểu
thuyết hướng về miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần
thuật. Tiểu thuyết cho phép người trần thuật tiếp xúc , nhìn nhận các nhân vật

23


một cách gần gũi như người biǹ h thường , thường tiǹ h để hiểu họ bằng kinh
nghiệm của min
̀ h . Khoảng cách gần gũi làm cho tiểu thuyết trở thành một thể
loại dân chủ, nó cho phép người trần thuật có thái độ thân mật thậm chí s̀ng
sã với nhân vật của mình , từ đó có thể nhiǹ h iện tượng từ nhiều chiều , sử
dụng nhiều giọng nói . Tiểu thuyết hấp thu mọi loại lời nói khác nhau của đời
sống, san bằng ngăn cách lời trong văn học và lời ngoài văn học
nhân vật trong tiểu thuyết là quá trń h chưa xong xu

. Cuộc sống


ôi. Ngay lời trần thuật,

dạng thức nhân vật cũng là một cái gì chưa xong xuôi . Kết cấu tiểu thuyết do
đó thường là kết cấu để ngỏ.
Tiểu thuyết là thể loại có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng
nghệ thuật của các loại hình văn học khác . Tiểu thuyết tổng hợp đặc điểm của
các thể loại kịch , kí, thơ,... và tổng hợp thủ pháp nghệ thuật của các loại hình
nghệ thuật lân cận như hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc, điện ảnh.
Những nét đặc trưng trên chỉ rõ hơn tính chưa hồn kết của thể loại tiểu
thuyết. Từ đặc trưng thể loại tiểu thuyết ta thấy , đặt trên cả nền của các thể
loại thì tiểu thuyết là một tạo thành hết sức “tự do” , “tự do” tạo nên sức hút và
sức sống lâu dài cho thể loại tiểu thuyết.
Tóm lại, với các đặc điểm đó đã cho thấy tiểu thuyết là thể loại văn học
có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn
học khác. Bởi thế mà ta có thể bắt gặp trong tiểu thuyết những rung động tinh
tế của thơ ca, những xung đột gay gắt của hình thái kịch, những mảng hiện
thực nóng hổi chất sống của thể ký, những bức tranh thiên nhiên giàu màu sắc
hội họa... Chính hiện tượng tổng hợp trên đã làm cho tiểu thuyết cũng đang
vận động, không đứng yên. Đúng như Bakhtin đã nói: “Tiểu thuyết là thể loại
duy nhất đang hình thành và chưa xong xi”.

24


1.2. Tác giả Maria Remarque và tiểu thuyết Phía Tây khơng có gì lạ
1.2.1.Erich Maria Remarque – Nhà văn hiện đại tiêu biểu của Đức
Remarque (1898 - 1970) tên thật là Erich Paul Remarque, sinh ngày 22
tháng 06 năm 1898, tại Osnabrueck. Ơng là con của một người thợ đóng sách.
Lớn lên ơng theo học trường Giịng. Bị động viên vào lính năm 18 tuổi trong
chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Chiến đấu tại mặt trận phía Tây bị thương

trong chiến đấu . Chiến tranh kế t thúc , Ông giải ngũ và làm nhiều nghề khác
nhau: kinh doanh, giáo viên, thủ quỹ, viết quảng cáo,…Từ 1923, ơng làm
phóng viên, đi nhiều nước trên thế giới và b

ắt đầu công viê ̣c viết văn, văn

phong của ông mang tư tưởng tự do, tiến bộ. Năm 1933, khi bọn phát xít lên
nắm chính quyền ở Đức, sách của ơng bị chúng cấm và đốt. Năm 1938, ông bị
trục xuất khỏi Đức. Sống lưu vong ở Mỹ và Thụy Sĩ trong 32 năm cịn lại của
cuộc đời. Ơng mất ngày 25 tháng 9 năm 1970, tại Locano, Thụy Sĩ.
Remarque là nhà tiểu thuyết hiện đại tiêu biểu của Đức. Các tác phẩm
của ơng mang tư tưởng chống phát xít và chế độ quân phiệt, nên nó đã thu hút
được sự chú ý của độc giả trên thế giới. Tác phẩm nổi tiếng nhất công bố khi
ông 31 tuổi: Phía Tây không có gì lạ (1929), đề cập tới q trình “thú vật
hóa” con người trong cuộc chiến. Tất cả các tác phẩm của ông đều trực tiếp
hay gián tiếp rung tiếng chuông báo động về nguy cơ của chủ nghĩa phát xít
và u cầu phải tiêu diệt nó, bảo vệ sự sống của lồi người, từ Khải Hồn
Mơn viết về số phận của một người Đức chống phát xít phải sống lưu vong,
đến Tia Lửa Sống tố cáo tội ác phát xít Đức trong các trại tập trung, từ Thời
gian để sớng và thời gian để chết nói về sự tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, đến
Đường về của những ngày khủng khiếp chiến tranh thế giới thứ hai,…tất cả
đều tốt lên tình u của ơng đối với dân tộc Đức và đất nước Đức đang bị
quằn quại dưới ách thống trị của bọn phát xít. Tất cả đều thể hiện sâu sắc tinh
thần đấu tranh không mệt mỏi cho hịa bình và hạnh phúc con người.

25


Tác phẩm của Remarque ít nhiều mang yếu tố tự nhiên chủ nghĩa trong
cách miêu tả. Nó vừa là sự hấp dẫn đối với những người này, lại vừa là sự thất

vọng đối với những người khác. Tác phẩm của ông là sự thể hiện của tâm
trạng và thái độ của cả một thế hệ, một tầng lớp người đã trải qua chiến tranh
tàn khốc suy ngẫm về chiến tranh, giải thích về nó với những mặc cảm tội lỗi
của một dân tộc. Bằng cách kể chuyện điêu luyện và hấp dẫn, với óc quan sát
tinh tế và sắc sảo, tiểu thuyết của Remarque đã gây hứng thú cho đông đảo
độc giả trên thế giới, nhất là khi ông bày tỏ trong tác phẩm của mình nỗi xúc
động đau đớn về thân phận của dân tộc ông, cũng như của nhân loại.
1.2.2. Tiểu thuyết Phía tây khơng có gì lạ
Phía tây khơng có gì lạlà một cuốn tiểu thuyết viết về đề tàichiế n tranh của
Erich Maria Remarque– mô ̣t cựu chiến binh đã từng tham gia chiế n tranh thế giới
thứ nhấ t. Tác phẩm được viết dưới dạng hời ức của một người lính Đức , kể về
c ̣c số ng chiế n đấ u và những nỗi kinh hoàng mà anh và các đồ ng đô ̣i trải qua
trong các chiế n hàotại mặt trận phía Tây của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất
, và
đươ ̣c xem là mô ̣t trong số những tác phẩm hay nhấ t thời kì này.
Tiể u thuyế t Phía Tây khơng có gì lạ đươ ̣c x́ t bản năm 1929, ngay từ khi
mới ra đời, tiể u thuyết này đã gây một tiếng vang lớn , làm cho chính tác giả và
bấ t cứ mô ̣t người nào cũng phải nga ̣c nhiên “ Bóng ma của chiến tranh luôn ám
ảnh chúng tôi – ông nói – nhấ t là khi chúng tôi cố gắ ng không nghi ̃ đế n nó
nữa”[17, tr.1]. Và kết quả là Phía tây khơng có gì lạ đã làm tấ t cả những người
ở hai bên bờ Thái Bình Dương xúc động sâu sắc trong khi trước đây , họ ra sức
tìm kiếm ý nghĩa của chiến tranh.
Trong những năm đầ u tiên , riêng đô ̣c giả Đức đã mua tới hơn mơ ̣t triê ̣u
bản cuốn tiểu thuyết Phía tây khơng có gì lạ và người Anh , Pháp, Mỹ thậm chí
cịn mua nhiều hơn . Ć n tiể u thú t còn thành công hơn nữa nhờ bô ̣ phim do
người Mỹ đựng với Lewis Ayres và Lewis Wolherim đóng vai chiń h. Đó là mô ̣t

26



trong những bô ̣ phim nói đầ u tiên và hiê ̣n nay vẫn là mô ̣t phim kinh điể n thế
giới. Năm 1932, tiể u thuyế t Phía tây khơng có gì lạ

đươ ̣c dich
̣ ra 29 thứ

tiế ng.Từ mô ̣t anh nhà báo vô danh, Erich Maria Remarque đã trở thành nhà văn
nổ i tiế ng trên khắ p thế giới . Dù vậy, cuố n sách đã gây ra cuô ̣c tranh luâ ̣n ngay
trong lòng nước Đức . Mô ̣t số người cho rằ ng tác giả chỉ biạ ta ̣c để gây số c và
kiế m tiề n . Lúc bấy giờ, bọn Quốc xã đã phao đủ thứ tin đồ n để phá hoa ̣i sự nổ i
tiế ng của Remarque
Với chương trin
̀ h “săn phù thủy” , Goebbels – kẻ cầm đầu chương trình đã
có những phản ứng đầu tiên khi bộ phim

Mỹ Phía tây khơng có gì lạ đươ ̣c

chiế u ở Beclin. Đội quân của hắ n với cái tên Thanh niên Hitler đã xông thẳ ng
vào rạp để ném những con chuô ̣t ba ̣ch và hét lên : “Nước Đức haỹ thức tỉnh” .
Năm 1931, bô ̣ phim bi ̣cấ m và Remarque bị buộc phải rời nước Đức , tồn bộ
sách của ơng bi ̣thiêu ru ̣i trong năm 1931.
Từng dòng, từng trang trong Phía tây khơng có gì lạ là những nam châm
vơ hình thu hút người đo ̣c vì Remarque đã lô ̣t tả đươ ̣c tấ t cả những tâm tư tình
cảm rất người của những thanh niên phải tham gia và o chiế n tranh . Khi ra đi ,
họ chỉ mới mười tám, mười chín, lứa tuổ i mô ̣ng mơ, hừng hực sức sớ ng, nhưng
chỉ một thời gian ngắn sau đó , họ như những cụ già thờ ơ với tất cả . Phía tây
khơng có gì lạ là một thiên tiểu thuyết hấp dẫn và lôi cuốn. Cùng viết về đề tài
chiến tranh nhưng Phía tây khơng có gì lạ không chỉ là một cuốn tiểu thuyết
viết về chiến tranh mà nó cịn là bản di chúc của những người đã ngã xuống
trên chiến trường. Câu chuyện không chỉ dừng lại ở việc thuật lại hay kể lại

những gì đã diễn ra trên chiến tuyến mà nó thể hiện sâu sắc sự đấu tranh nội
tâm của nhân vật trong tác phẩm. Làm nên đặc sắc trong tiểu thuyết Phía tây
khơng có gì lạ phải kể đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo
trong tác phẩm, kiểu nhân vật của thế hệ vứt đi mà Erich Maria Remarque đã
xây dựng thành cơng trong tác phẩm của mình.

27


×