Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Lịch sử văn minh thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.92 KB, 20 trang )

Đề Cương
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu 1 : Sự phát triển của văn minh Ai Cập cổ đại? Tại sao tín ngưỡng của người Ai Cập
cổ không phát triển thành tôn giáo lớn ?
Trả lời:
 Cơ sở hình thành: (trang 12, 13, 14)
• Địa lý và dân cư.
• Các thời kì lịch sử chính của Ai Cập cổ đại : Lịch sử Ai Cập cổ đại có thể chia ra làm 5 thời kì
chính sau:
- Thời kì TảoVương quốc (khoảng 3200 - 3000 năm TCN).
- Thời kì Cổ Vương quốc ( khoảng 3000 - 2200 năm TCN).
- Thời kì Trung Vương quốc ( khoảng 2200 - 1570 năm TCN).
- Thời kì Tân Vương quốc ( khoảng 1570 - 1100 năm TCN).
- Ai Cập từ thế kỉ X – I TCN.
 Thành tựu cơ bản:
• Chữ viết:
- Khoảng hơn 3000 năm TCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình.
- Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái.
Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là
được viết trên vỏ cây sậy papyrus.
• Về văn học:
- Những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối
thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình, Người nông phu biết nói những điều
hay
• Tôn giáo :
- Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần.
- Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Vì vậy những người giàu
có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng rất phát triển.
• Kiến trúc điêu khắc :
- Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất
phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để


làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự
tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo.
- Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp (Kheops) cao tới 146m, đáy hinh vuông, mỗi cạnh tới
230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai
Cập có câu “Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước
Kim tự tháp”.
- Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp Khephren. Bức
tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện Khephren là
chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử.
• Khoa học tự nhiên :
- Về thiên văn:
+ Người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và sao Thuỷ,
Kim, Hoả, Mộc, Thổ.
+ Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang (Sirius). Một năm của họ có 365
ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân trời. Họ
chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được
xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và
đồng hồ nước.
- Về toán học:
+ Do yêu cầu làm thuỷ lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ cũng
sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính cộng
trừ, còn khi cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ đã
tính được diện tích của các hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vuông thì bình
phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. Pi của họ tính = 3,14 .
- Về Y học: người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng,
dạ dày Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.
Tại sao tín ngưỡng của người Ai Cập cổ không phát triển thành tôn giáo lớn ?
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để
mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo.
Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo là ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian

nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo, và không có 1 hệ
thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ, rời rạc. Tín
ngưỡng nếu phát triển đến mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo. Và các hình thức tín
ngưỡng hay tôn giáo dù rộng hẹp khác nhau, dù phổ quát toàn thế giới hay là đặc thù cho mỗi
dân tộc… thì đều là 1 thực thể biểu hiện niềm tin vào cái thiêng chung của con người mà thôi.
Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng thể hiện ở 1 số điểm như : tôn giáo có hệ thống
giáo lý, kinh điển… được truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các tu viện, thánh đường, học
viện,… có hệ thống thần điện, có tổ chức giáo hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng riêng
như nhà thờ, chùa, thánh đường…, nghi lễ thờ cúng chặt chẽ, có sự tách biệt giữa thế giới
thần linh và con người. Còn tín ngưỡng thì chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền
thoại, thần tích, truyền thuyêt. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa
dân gian, cuộc sống và sinh hoạt của con người và lý giải các hiện tượng siêu nhiên lúc bầy
giờ. trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn
phân tán, chưa thành quy ước chặt chẽ… Như vậy có thể thấy tín ngưỡng ở AC cổ đại chỉ
dừng lại ở việc tin vào các vị thần của họ như: các thần tự nhiên, động vật, linh hồn người
chết, thần đá, thần lửa, thần cây,…Về sau, cùng với sự hình thành nhà nước tập quyền trung
ương, thần Mặt trời trở thành vị thần quan trọng nhất, nơi thờ thần MT đầu tiên là thành
Iunu…
Câu 2: “ Tất cả đều sợ thời gian nhưng thời gian sợ kim tự tháp”. Vì sao?
Trả lời:
Thành tựu của các nền văn minh cổ đại trên thế giới là minh chứng cho sự phát triển
và trình độ của con người xưa khi mà cả khoa học và kỹ thuật đều chưa ra đời và phát triển.
Các giá trị văn hóa vật thể còn tồn tại cho đến ngày nay được coi như vô giá, nó là kho tàng
quan trọng giúp con người có thể nghiên cứu và khám phá về sự phát triển của một thời kỳ
lịch sử từ rất lâu đời. Trong số các sản phẩm tiêu biểu của nền văn minh cổ đại phải kể đến
kim tự tháp của Ai Cập cổ đại. Đây được coi là một trong những công trình vĩ đại nhất của
con người trong thời cổ đại, nó vượt qua sự khắc nghiệt của thời gian và tự nhiên để tồn tại
cho đến ngày nay. Đã từng có câu nói: “Tất cả đều sợ thời gian nhưng thời gian sợ Kim tự
tháp”. Câu trả lời cho quan điểm trên được lý giải như sau:
Kim tự tháp là ngôi mộ của các vị vua AC thuộc vương triều III, vương triều IV thời

cổ vương quốc. các ngôi mộ ấy được xây ở vùng sa mạc ở Tây nam cairo ngày nay.
Kim tự tháp được bắt đầu xây dựng từ thời vua Giêde ( Djeser), vua đầu tiên của
vương triều III, vương triều đầu tiên của thời Cổ vương quốc. Đây là 1 ngôi tháp có bậc, đáy
là 1 HCN dài 120m, rộng 106m. Xung quanh tháp Giêde có đền thờ và mộ những thành
vieenh trong gia đình và những người thân cận. Toàn bộ khu lăng này được bao bọc bởi 1
vòng tường xay bằng đá vôi.
Thời kỳ Kim tự tháp được xây dựng nhiều nhất và đồ sộ là thời kỳ vương triều IV.
Vua đầu tiên của vương triều này là Xnêphru, đã xây cho 2 kim tự tháp, cái thứ nhất cao
36,5m, cái thứ 2 cao 99m. các vua kế tiếp như Kêốp, Kêphren, Mikêrin đều xây dựng những
kim tự tháp rất lớn : kim tự tháp Kêốp ( tên Ai Cập ) là Hufu cao 146,5m, Kim tự tháp
Kêphren cao 137m, Kim tự tháp Mikêrin cao 66m.
Trong số các Kim tự tháp ở Ai Cập, cao lớn nhất, tiêu biểu nhất là Kim tự tháp kê ốp,
con của Xnêphru. Kim tự tháp Kêốp xây thành hình tháp chóp, đáy là hình vuông, mỗi cạnh
230m, 4 mặt là hình tam giác nghoành về 4 hướng đông, tây, nam, bắc. Toàn bộ Kim tự tháp
được xây bằng những tảng đá vôi mài nhẵn, mỗi tảng nặng 2,5 tấn, có tảng nặng 30 tấn. Để
xây Kim tự tháp này, người ta đã dùng đến 2300000 tảng đá với 1 khối lượng là 240800m¬3.
Phương pháp xây kim tự tháp là ghép kín đến mức 1 lá kim loại mỏng cũng ko thể lách qua
được. Ở mặt phía bắc của KTT Kêốp, cách mặt đất hơn 13m, có 1 cái cửa thông với hầm mộ.
KTT Kêốp có 2 hầm mộ : 1 hầm mộ nằm sâu 30m dưới lòng đất và 1 hầm mộ ở giữa KTT
cách mặt đất 40m. Người ta cho rằng theo thiết kế ban đầu, hầm mộ ở sâu dưới đất, nhưng khi
đã làm xong thì Kêốp thay đổi ý kiên, bắt phải xây ở trên cao.
Hơn 2000 năm sau, nhà sử học Hy Lạp Hêrôđôt đến Ai Cập còn được nghe cư dân ở
đây kể lại quá trình xây KTT. Hêrôđôt cho biết, sau khi quyết định xây KTT, Kêốp đã huy
động toàn thể nhân dân lao động trong nước đến công trường làm việc. Họ được tổ chức
thành từng đội gần 100000 người, cứ 3 tháng thì thay phiên nhau 1 lần. KTT được xây ở tả
ngạn sông Nin, nhưng nơi khai thác đã lại ở hữu ngnaj. Vì vậy người ta phải dùng thuyền trở
đá đến khu lăng mộ, người ta phải xây 1 con đường = những tảng đá mài nhẵn, dài hơn 900m,
rộng 18m và chỗ cao nhất là 15m. Chỉ riêng việc xây con đường này đã mất 10 năm. Từ đây
người ta để đá lên xe trượt rồi dùng người hoặc bò kéo để trở đá đến công trường. Không kể
thời gian làm đường và hầm mộ dưới đất, việc xây KTT đã kéo dài hơn 20 năm mới hoàn

thành.
Việc xây KTT, như Hê rô đôt đã nói rằng : “ đã đem lại cho Ai Cập cổ đại không biết
bao nhiêu tai họa:. Nhưng nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối óc của mình đã để lại
cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá. Trải qua gần 5000 năm, cac
KTT hùng vĩ vẫn đứng sừng sững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp thời gian và mưa nắng. Vì
vậy, từ lâu người A rập đã có câu : “ Tất cả đều sợ thời gian, nhưng thời gian phải sợ KTT:.
Và cũng chính vì vậy, từ thời cổ đại, người ta đã xếp KTT Kê ốp là kỳ quan số 1 trong 7 kỳ
quan thế giới. Đến nay trong 7 kỳ quan ấy, cũng chỉ còn lại mỗi KTT mà thôi.
Cho đến ngày nay, chính các nhà khoa học cũng chưa thể lý giải nổi tạo sao các phiến
đá lớn đến vậy lại được đưa lên cao để xây dựng KTT, hơn nữa các phiến đá lại có sự ăn khớp
đến mức khó tin… Trong khi mà khoa học vẫn chưa chứng minh được các ẩn số đó thì KTT ở
AC vẫn còn hiên ngang trước không gian, thời gian, thời tiết khắc nghiệt của nắng và cát bụi
trên sa mạc để tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù mọi vạn vật trong vũ trụ này đều sẽ biến mất
trước thời gian nhưng KTT thì vẫn còn tồn tại và nó được coi là biểu tượng của sự vĩnh hằng
giống như các vị vua Pharaon của người dân Ai Cập cổ đại vậy.
Câu 3: Tìm ra những yếu tố chứng tỏ Ấn Độ có nền văn hóa phát triển?
Trả lời:
Ấn Độ có một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, và họ luôn tìm cách
giữ gìn những truyền thống của mình trong suốt thời kỳ lịch sử trong khi vẫn hấp thu các
phong tục, truyền thống và tư tưởng từ phía cả những kẻ xâm lược và những người dân nhập
cư. Nhiều hoạt động văn hoá, ngôn ngữ, phong tục và các công trình là những ví dụ cho sự
đan xen văn hóa qua hàng thế kỷ đó. Những công trình nổi tiếng như Taj Mahal và các công
trình kiến trúc có ảnh hưởng Hồi giáo là di sản từ triều đại Mughal. Chúng là kết quả của một
truyền thống hợp nhất mọi yếu tố từ mọi phần của quốc gia
+ Ẩm thực Ấn Độ rất đa dạng, về thành phần, hương vị và cách chế biến khác biệt
theo từng vùng. Gạo và bột mì là hai thực phẩm chính của nước này. Ấn Độ nổi tiếng về số
lượng các món chay và không chay. cuisine.
+ Âm nhạc Ấn Độ được thể hiện ở rất nhiều hình thức. Hai hình thức chính của âm
nhạc cổ điển là Carnatic từ Nam Ấn, và Hindustani từ Bắc Ấn. Các hình thức phổ thông của
âm nhạc cũng rất phổ biến, nổi tiếng nhất là âm nhạc Filmi. Ngoài ra còn có nhiều truyền

thống khác nhau về âm nhạc dân gian từ mỗi nơi trên đất nước. Có nhiều hình thức nhảy múa
cổ điển hiện diện, gồm Bharatanatyam, Kathakali, Kathak và Manipuri. Chúng thường ở hình
thức tường thuật và lẫn với những yếu tố sùng đạo và tinh thần.
+ Truyền thống văn học sớm nhất Ấn Độ là hình thức truyền miệng, và sau này mới ở
hình thức ghi chép. Đa số chúng là các tác phẩm linh thiêng như (kinh) Vedas và các sử thi
Mahabharata và Ramayana. Văn học Sangam từ Tamil Nadu thể hiện một trong những truyền
thống lâu đời nhất Ấn Độ.
Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Balamôn, đạo Phật, đạo, Jain và đạo
Xích.
Đạo Balamôn không có người sáng lập, không có giáo chủ. Đạo Balamôn thờ thần
Brama(thần Sáng tạo), Visnu(thần Bảo vệ), Siva(thần Huỷ diệt, có huỷ diệt cái cũ thì mới có
thể sáng tạo cái mới) Về mặt xã hội, đạo Balamôn là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp.
Giáo lí quan trọng nhất của đạo Balamôn là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác
chịu ảnh hưởng. Trong quá trình phát triển, đạo Balamôn có thể chia làm 3 giai đoạn: giai
đoạn Vêđa ( thế kỉ XV TCN - thế kỉ V TCN ), giai đoạn Balamôn ( thế kỉ V TCN - đầu CN ),
giai đoạn Hinđu (đầu CN - nay)
Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu
là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm
thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người
châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những
người theo đạo Thiên chúa). Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế( bốn điền suy xét kì
diệu):
• Khổ đế (suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo)
• Nhân đế-Tập đế(nguyên nhân của sự khổ là dục-lòng ham muốn)
• Diệt đế (con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo)
• Đạo đế (con đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo)
Đạo Jain-Kỳ Na cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN. Đạo này chủ trương bất
sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
Đạo Sikh- Xích xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lí của đạo Xích có sự
kết hợp giáo lí của đạo Hinđu và giáo lí của đạo Islam. Tín đồ đạo Xích tập trung rất đông ở

bang Punjap và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjap.
Câu 4: Tạo sao nói Ấn Độ là 1 trong những văn minh lớn của nhân loại?
Trả lời:
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tạo thời điểm xét đến để tạo nên,
duy trì, vận hành và tiến hóa xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gon lại là
di sản tích lũy tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình thành cho
đến thời điểm xét đến. Đối nghịch với văn minh là hoang dã, man rợ, lạc hậu. Khái niệm văn
minh chỉ mang tính tương đối, có tính so sánh tại thời điểm xét đến mà không có giá trị tuyệt
đối.
Ấn Độ là 1 trong những nền văn minh lớn của nhân loại. Để trở thành 1 nền văn minh
lớn của nhân loại Ấn Độ đã có những sự thay đổi và phát triển từ rất sớm trong lịch sử loài
người và có những thành tựu rực rỡ trên các lĩnh vực của xã hội. Những thành tựu đó không
những là những giá trọ tinh thần vô giá mà còn có những tác động lớn đến xã hội loài người
ngày nay. Những sự tác động ấy biến Ấn Độ trở thành 1 trong những trung tâm văn minh lớn
của nhân loại.
Điều kiện và lịch sử tự nhiên cho thấy Ấn Độ là 1 cơ sở hình thành 1 nền văn minh
lớn. Điều kiện tự nhiên : bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán
đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các
con đèo nhỏ ở tây-bắc Ấn Độ. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ Dương.
Hằng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo 2 con sông Ấn và sông Hằng
lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cách đồng ở Bắc Ấn. Nền văn minh ở lưu vực sông Ấn
đã thầm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mà về sau người ta xem như bản sắc
tiêu biểu cho Ấn Độ.
Năm 326 TCN Alexandros người Macedonia vượt sông Indus và đánh thắng 1 trận
quyết định và rút về. Cuộc xâm lăng của ông đã để lại dấu ấn của thế giới Hy Lạp, nâng văn
hóa Ấn Độ lên 1 tầm cao mới.
Năm 320 TCN, Hoàng đế Maurya thống nhất trở lại toàn bộ các bộ lạc rời rạc và
thành laaoj chế độ tập quyền, kinh đô được đặt lại tại Pataliputa.
Đế chế Gupta thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Ấn Độ thuộc vào thời kỳ triều đại
Gupta. Thời kỳ này có nhiều thành tựu nổi bật về văn hóa trồng trọt. Thời kỳ này nền văn

minh Ấn Độ đã để lại cho nhân loại 1 khối các di sản khổng lồ.
Thành tựu chính của nền văn minh Ấn Độ cho thấy Ấn Độ là 1 trong những nền văn
minh lớn của nhân loại.
Chữ viết, văn học Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xh 1 loại chữ
cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ
họa.
Thế kỷ VII TCN, ở đây đã xh chữ Brani, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc
loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brani, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xh chữ Sanskrit, đây là cơ sở
của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.
Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabrahata và Ramayana. Mahabrahata
là bản trường ca gồm 220000 câu thơ. Bản trường ca này nói về 1 cuộc chiến tranh giữa các
con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là 1 bộ “ bách khoa toàn thư” phản ánh mọi
mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó.
Ramayana là 1 bộ sử thi dài 48000 câu thơ, mô tả 1 cuộc tình giữa chàng hoàng tử
Rama và công chúa Xita ( con của nữ thần mẹ đất). Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học
dân gian 1 số nước ĐNÁ. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh
hưởng từ Ramayana.
Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tập ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đửng rất nhiều tư
tưởng gặp lại trong ngụ ngôn của 1 số dân tộc thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.
Nghệ thuật: Ấn Độ là nơi có nền NT tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tời nhiều
nước ĐNA. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ 1 tôn giáo nhất định, do yêu cầu
của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra 3 dòng nghệ thuật : Ấn Độ giáo, phật giáo, Hồi
giáo.
Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở
miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa
thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20 cm. Trên vách hang có những bức tượng
Phật và nhiều bích họa rất đẹp.
Các công trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên Ấn Độ vào khoảng
tki 7-11. Tiêu biểu cho các công trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn,
gồm 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.

Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng
vào khoảng tki 13 và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng tki 17.
Khoa học tự nhiên: Về Thiên văn, người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia 1 năm ra
làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào 1 tháng nhuận.
Về Toán học : Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà
ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số 0, nhờ vậy mọi biến
đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. Họ tính được căn bậc 2,bậc 3; đã có hiểu
biết về cấp số, biết quan hệ giữa 3 cạnh trong 1 tam giác; Pi = 3,1416.
Về Vật lí: người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt
màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại 2 quyển sách là “ Y học toát
yếu” và “ Luật khảo về trị liệu”.
Tư tưởng: Tôn giáo Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như : Ấn Độ giáo ( Đạo
Bàlamôn) , Phật giáo, đạo Jaina và đạo Sikh.
Như vậy, với những điều kiện và sự hình thành cùng với những thành tựu rực rỡ của
Ấn Độ cho thấy Ấn Độ là 1 trong những nền văn minh lớn của nhân loại cùng với các nền văn
minh Ai Cập, Lưỡng Hà, … Những thành tựu của nền văn minh Ấn Độ có ảnh hưởng 1 cách
sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, không chỉ vậy nó còn có sức lan
tỏa rất rộng ra các quốc gia và các vùng lãnh thổ khác trên TG. Tiêu biểu có sự lan tỏa của
tôn giáo và đặt biệt là phật giáo. Văn minh Ấn Độ đã có sự đóng góp quan trọng trong tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Câu 5: Vì sao nói: “ Cái gì không thấy được trong Mahabharata thì cũng không thể nào
thấy được ở Ấn Độ” ( Ngạn ngữ cổ Ấn Độ).
Trả lời:
Ấn Độ là 1 trong những cái nôi lơn của văn minh nhân loại, nơi đây là nơi mà đã có sự
bắt đầu sớm nhất của các giá trị tinh thần vượt thời gian, các công trình kiến trúc vĩ đại chưa
từng xh trong lịch sử loài người. Những thành tựu lớn của văn minh Ấn Độ càng có tầm quan
trọng với chúng ta ngày nay. Văn học Ấn Độ là 1 trong những chứng cứ quan trọng là cơ sở
và là sách toàn thư mở để chúng ta tìm hiểu đầy đủ nhất về xã hội và con người ở Ấn Độ thời
cổ đại, Và “ cái gì không thấy được trong Mahabharata thì không thể nào thấy được ở Ấn
Độ”. Trong văn học Ấn Độ, các hình thức truyền khẩu và viết đều quan trọng. Truyền thống

chương Hindu chi phối 1 phần lớn của văn hóa Ấn Độ. Ngoài Vedas ( Vệ Đà) là 1 dạng kiến
thức linh thiêng, còn có các tác phẩm khác như sử thi Ramayana và Mahabharata, các luận
thuyết như Vaastu Shastratrong kiến trúc và quy hoạch đô thị, và Arthashastra trong khoa học
chính trị. Kịch Hindu mộ đạo, thơ và ca đã lan ra khắp tiểu lục địa. Mahabharata là 1 tác
phẩm vĩ đại, có thể coi là 1 bộ toàn thư về đời sống văn hóa, chính trị và xã hội Ấn Độ thời
xưa. Tác phẩm ấy kết hợp vs tất cả những tín ngưỡng, truyện tích và tập tục cổ truyền của
toàn thể dân tộc Ấn Độ suốt từ chân núi Hi_Mã cho tới vịnh Bengale. Nội dung phong phú ấy
đã được xác nhận trong 1 câu tục ngữ Ấn: “ cái gì không thấy được trong Mahabharata thì
cũng không thể thấy ở Ấn Độ”. Khuynh hướng và khả năng kết hợp của Mahabharat chứng tỏ
sự thống nhất về tinh thần của 1 dân tộc rất phức tạp về thành phần cấu tạo ở trên 1 lãnh thổ
rất sai biệt về hoàn cảnh địa lý. Tác giả của Mahabharata theo truyền thuyết là đạo sĩ Vyasa.
Nguyên bản của tác phẩm trong giai đoạn đầu gồm có: 24000 câu thơ đôi ( sloka), và sau tăng
lên 6.000000. Hiện giờ chỉ sưu tầm được 110.000 sloka, chiếm 220.000 dòng, tức là dài bằng
7 lần tổng số câu thơ trong cả 2 tác phẩm Odyssée và Iliade của Homère hợp lại.
Nội dung chính của tác phẩm: Ở tp Haxtinapua có 1 dòng họ vua chúa gọi là Curu
vốn là con cháu của vua Bharata. Dòng họ này có 2 anh em là Đritarotora và Pandu. Vì
Đritarotora bị mù nên Pandu được làm vua. Đritarotora có 100 người con trai, gọi chung là
anh em Curu, còn Pandu có 5 con trai gọi chung là anh em Pandu. Sau khi Pandu chết, anh em
nhà Pandu và anh em nhà Curu chia đôi vương quốc. Nhưng vì muốn chiếm toàn bộ vương
quốc, anh em nhà Curu đã thách thức anh em nhà Pandu đánh bạc. nhờ gian lận, anh em nhà
Curu thắng liên tiếp. Bị mất hết của cải, anh em nhà Pandu đặt phần đất nước của mình vào
canh bạc nhưng cũng bị thua nốt. Theo lời giao hẹn, anh em nhà Pandu bị trục xuất và phải
trốn tránh suốt 13 năm, ko được để anh em phía nhà Curu phát hiện. Hết kỳ hạn, anh em nhà
Pandu trở về yêu cầu anh em nhà Curu trả lại phần đất đai cho họ nhưng lại bị từ chối. Do đó
1 cuộc chiến tranh khốc liệt đã xảy ra. Sau 18 ngày đánh nhau dữ dội, hàng trăm triệu người
đã tử trận, phe của Curu chỉ có 3 người sống sót, cả 100 anh em Curu đều chết. Phe Pandu
thắng lợi nhưng cũng chỉ còn lại 6 người, trong đó có 5 anh em nhà Pandu.
Giá trị nội dung: bộ sử thi đã đề cao lý tưởng và ý thức của thời đại. Lý tưởng và đạo
đức kết trong giáo lý Bhaganat Gita, nhiều người cho rằng Bhaganat Gita là hạt nhân giáo lý
của sử thi. Sử thi mang những ý nghĩa thuần túy, mang những giá trí của chủ nghĩa nhân sinh

và lý tưởng sống của con người. Đồng thời xay dựng 1 xã hội bình yên, xóa đi mọi thù hận,
lòng tham và ích kỷ của mình.
Giá trị nghệ thuật : Nghệ thuật xây dựng nhân vật : Yudhi đức độ, sáng suốt, bình
tĩnh Acgiuna dũng cảm, kiên hùng. Bhima xông xáo, sôi nổi, quyết giữ lời thề cho đến chết.
Kacna hùng dũng và kiêu căng. Karisna tài chí siêu việt…Drita tuy mù nhưng vẫn oai nghiêm
trong cốt cách của ông vua hùng và xảo quyệt. Về Nghệ thuật xây dựng tình huống: Càng đọc
sử thi Mahabharata người đọc càng bị lôi cuốn vào quang cảnh chiến tranh tràn đầy hòa khí
sôi động, cảm xúc khi các tướng lĩnh tài giỏi gục ngã. Ấn Độ là nước luôn tôn vinh tình yêu
và niềm hoan lạc vô biên. Trong tác phẩm, tình yêu đc thể hiện trong mqh của nàng Draupadi
với 5 anh em nhà Panda với những gắn bó khác nhau.
Ảnh hưởng của sử thi tới xã hội: Bộ sử thi này đã tác động rất lớn đến đs tinh thần và
tập tục của người dân Ấn Độ. Mahabharata có sự ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới đặt biệt ở
ĐNA. Rất nhiều cốt truyện được phóng túng từ sử thi này ở các nước ĐNA. Ở campuchia,
Mahabharat đã xh khá sớm bằng hình ảnh của các phù điêu trên Ăngco và các đền khác.
Như vậy, Mahabharata là sử thi lớn nhất của Ấn Độ và thế giới, nó được ví như bộ
bách khoa toàn thư ghi lại toàn bộ đời sống văn hóa xã hội. thông qua đó chúng ta cũng thấy
được người dân Ấn Độ đề cao tính nhân sinh sự chính nghĩa và các giá trị của cuộc sống. Nó
trở thành 1 vật báu quý giá trong kho tàng văn học của Ấn Độ, là cảm hứng cáng tạo cho hội
họa, điêu khắc, thơ ca, điện ảnh,… Không chỉ vậy mà nó còn ảnh hưởng ra cả thế giới.
Câu 6: Bức tranh tôn giáo ở Ấn Độ.
Trả lời:
Bức tranh tôn giáo ở ÂĐ là 1 bức tranh đầy màu sắc về sự hình thành, phát triển và
suy yếu của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jaina và đạo Sikh.
Đạo Bàlamôn mà sau này là Ấn Độ giáo ra đời vào khoảng TK 15 TCN trong hoàn
cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lý
của tình trạng bất bình đẳng đó.
Đạo phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỷ 1 TCN do thái tử Xitđacta và Gôtama,
hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là
năm thứ nhất theo Phật lịch, họ cho đây là năm Đức phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người
châu Á theo đạo phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời khác hẳn người

theo đạo Thiên Chúa). Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (4 điều), vô ngã, duyên khởi.
Đạo Jaina cũng xuất hiện vào khoảng tki 6 TCN. Cùng thời vs Phật giáo. Đạo này chủ
trương bất nát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh.
Đạo Sikh xh ở Ấn Độ vào khoảng tki 15. Giáo lý của đạo Sikh là sự dung hòa và kết
hợp giáo lí của Ấn Độ giáo và giáo lí của Hồi giáo. Tín đồ đạo Sikh tập trung rất đông ở
Punjab và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjab. Đạo Sikh là đạo sinh ra
cuối cùng trên đất Ấn Độ.
Về đạo Bàlamôn : thì ko có người sáng lập, ko có giáo chủ. Thờ thần Brama ( thần
sáng tạo), Visnu ( thần Bảo vệ), Siva ( thần Hủy diệt, có hủy diệt cái cũ mới sáng tạo cái mới)
… Về mặt xã hội, đạo Balamon là công cụ để bảo vệ chế độ đẳng cấp. Giáo lí quan trọng nhất
là thuyết luân hồi mà sau này nhiều tôn giáo khác chịu ảnh hưởng. Trogn quá trình phát triển,
đạo Balamon có thể chia làm 3 giai đoạn : gđ Vêđa ( TK 15-5 TCN), gđ Balamon ( TK 5- đầu
CN), gđ Hinđu ( đầu CN- nay).
Về đạo Phật : Giáo lí cơ bản của đạo phật là tứ diệu đế ( 4 điều suy xét kỳ diệu ) là:
Khổ đế ( suy xét về khổ cực, luân hồi, nghiệp báo), Nhân đế- tập đế ( nn của sự khổ là dục-
lòng ham muốn), Diệt đế ( con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo), Đạo đế ( con
đường để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo) Đức Phật còn đề ra 8 con đường chính trực
để tu hành- bát chánh.
Về mặt thế giới quan, ND cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do quan niệm
duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã, Vô thường. Vô tạo
giả quan niệm, thế giới này không do 1 đấng tối cao nào tạo ra, tự nhiên mà có và vô cùng vô
tận. Vô ngã là không có 1 thực thể vật chất tồn tại 1 cách cố định. Vô thường cho là vạn vật
trong thế giới này biến đổi không ngừng, ko có gì là vĩnh cửu cả.Trong hoàn cảnh xh đày rẫy
những bất công do chế độ đảng cấp gây ra thì đạo Phật lại chủ trương ko phân biệt đẳng cấp,
kêu gọi lòng thương người, tránh điều ác, làm điều thiện nên đã được đông đảo người dân
hưởng ứng.
Còn 2 đạo còn lại là Jaina và Sikh là 2 tôn giáo chưa có sự lớn mạnh như đạp Phật và
đạo balamon cho nên nó chưa thực sự ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống Ấn Độ cũng như ảnh
hưởng ra các vùng lãnh thổ khác trên thế giới.
Bức tranh về tôn giáo ÂĐ cho thấy từ lâu con người đã tìm cách lý giải các hiện tượng

kỳ bí của tự nhiên, họ tự xd cho mình niềm tin vào các đấng siêu nhiên, kiếp luân hồi. Họ
thực sự tin vào những điều đó làm cho sự lớn mạnh của các tôn giáo này càng lớn dần và ăn
sâu vsof suy nghĩ của con người trong xh. Tôn giáo còn phản ánh 1 phần quan trọng về cs của
con người Ấn Độ khi mà sự phát triển của các tôn giáo kéo theo hình thành các giáo lý và các
phương thức thi hành các tín ngưỡng tôn giáo của họ. Nó phản ảnh trình độ nhận thức của 1
xh bấy giờ. Tuy nhiên mỗi tôn giáo lại có sự thể hiện về xh theo cách khác nhau do sự ảnh
hưởng trực tiếp của nó vào trong đời sống.
Câu 7: Phật thích ca từng nói: “… Cũng như nước đại dương chỉ có 1 vị mặn, học thuyết
của ta chỉ có 1 vị là cứu vớt…” Hãy chứng minh luận điểm trên.
Trả lời:
Nội dung tư tưởng của đạo Phật thể hiện trong lời nói của đức Phật: “ Trước kia và
ngày nay ta chỉ nêu ra và lý giải các chân lý về các nỗi đau khổ và giải thoát các nỗi đau khổ.
Cũng như nước chỉ có 1 vị mặn. Học thuyết của ta chỉ có 1 vị đó là sự cứu vớt”. Như vậy, hạt
nhân triết lí cơ bản của đạo Phật là đề cao tình yêu thương của con người đối với chúng sinh
tập trung ở trong “ tam tạng kinh điển”. Bên cạnh đó, tư tưởng triết học đạo Phật còn ảnh
hưởng sâu sắc tín ngưỡng đa thần của người Arya, đặc biệt là ảnh hưởng triết lý từ đạo
Baflamon như thuyết nhân-quả, thuyết luân hồi nghiệp báo. Chính vì những yếu tố này mà về
sau đạo Phật bị lên án, phê phán là tiêu cực, thủ tiêu đấu tranh giai cấp. Nội dung tư tưởng
triết lí cơ bản của đạo Phật thể hiện ở 2 vấn đề chính là quan niệm về thế giới quan và nhân
sinh quan. Nội dung tư tưởng, triết lí cơ bản của Phật giáo thể hiện rõ nhất ở “ tứ diệu đế” –
tức là 4 chân lý huyền diệu cao siêu để giải thoát nỗi khổ của chúng sinh gồm: Khổ Đế – Tập
Đế – Diệt Đế - Đạo Đế. Đức Phật khẳng định: “trước kia và ngày nay ta chỉ nêu ra và lý giải
các chân lý về các nỗi đau khổ và giải thoát các nỗi đau khổ. Cũng như nước của đại dương
chỉ có một vị mặn. Học thuyết của ta chỉ có một vị, đó là sự cứu vớt”.
+ Khổ đế:
Là chân lý bàn về các nỗi khổ của con người. Đạo phật cho rằng cuộc sống con người
là khổ ải. Khổ đau là tuyệt đối, là bản chất của sự tồn tại của cuộc sống. Cuộc sống của chúng
sinh là bể khổ. Trong các nỗi khổ mà từng chúng sinh phải chịu đựng có bốn nỗi khổ lớn gọi
là “tứ khổ”: sinh – lão – bệnh – tử khổ.
Ngoài ra, Phật giáo còn khẳng định nỗi khổ của chúng sinh tồn tại ở những dạng khác

như:
Ái biệt ly khổ: tức yêu nhau mà không được ở gần nhau là khổ;
Sở cầu bất đắc khổ: tức mong muốn mà không được như ý là khổ;
Ngũ thủ uẩn khổ: tức các cơ quan của cơ thể không hoàn thiện là khổ;
Oán tăng hội khổ: tức là thù ghét là khổ;
Thân là gốc của nỗi khổ;
Các thứ bệnh tồn tại trong cơ thể là khổ;
Chết vì nhiều nguyên nhân; bất hòa; khổ do ngoại cảnh gây nên mà không biết được lý
do.
+ Tập đế.
Là sự tập hợp chứa đựng những chân tướng những sự khổ não, là nguyên nhân về các
nỗi khổ đau. Đạo phật cho rằng nguyên nhân của khổ đau là do dục vọng – tham muốn của
con người gây nên và đến khi chết vẫn phải chịu khổ đau. Tất cả những nỗi khổ đau mà chúng
sinh phải gánh chịu là do “nhị thập nhân duyên” tạo ra mà khởi đầu là “vô minh”.
+ Diệt đế.
Là chân lý về cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau. Đạo Phật cho rằng chúng
sinh muốn thoát khỏi mọi sự khổ đau thì phải từ bỏ mọi ham muốn, dục vọng, sự giận giữ và
mê muội.
Ham muốn hay dục vọng của con người là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nỗi khổ đau
còn nguồn gốc sâu xa là từ “nhị thập nhân duyê” mà bắt đầu từ “vô minh”. Cho nên theo đạo
Phật, chúng sinh muốn diệt trừ nỗi khổ thì đầu tiên phải diệt trừ “vô minh’. Vì “vô minh” bị
diệt thì trí tuệ mới sáng và hiểu rõ được bản chất sự tồn tại không còn dục vọng, không còn
hành động sai quấy để tạo ra “nghiệp”. Và chỉ có như vậy, chúng sinh mới thoát khỏi nỗi khổ
vòng luân hồi sinh – lão – bênh – tử.
+ Đạo đế.
Là chân lý về các con đường đúng đắn để giải thoát con người. Đây chính là xuất phát
từ sự đúc kết quá trình tu hành đắc đạo của đức Phật.
Để theo đuổi được những con đường này và giải thoát mình khỏi mọi nỗi khổ đau,
người tu hành phải thực hiện những điều kiêng kị là “ngũ giới”.
Như vậy, với những quan niệm triết lý về thế giới quan và nhân sinh quan của đạo

Phật cho thấy tất cả những quan niệm này nhằm chống lại đạo Bàlamôn, chốnglại sự bất bình
đẳng trong xã hội. Chính vì lẽ đó mà những tư tưởng cơ bản của triết lý Phật giáo mang nhiều
yếu tố duy vật sơ khai tiến bộ gắn bó với cuộc sống của con người. Từ quan niệm trên, đạo
Phật không thừa nhận xã hội có đẳng cấp. Đức phật nói rằng “không thể có đẳng cấp trong
những dòng máu cùng đỏ như nhau. Không thể có đẳng cấp trong những giọt nước mắt cùng
mặn như nhau”.
Về tích cực:
+ Chủ trương giải thoát con người khỏi những nỗi khổ đau; thực hiện bình đẳng giữa
các chúng sinh chống lại quan điểm phân biệt đẳng cấp, khuyên con người phải thương yêu
lẫn nhau. Đây chính là tư tưởng nhân văn cao cả phù hợp với đại bộ phận nhân dân bị áp bức,
đáp ứng nhu cầu của xã hội đương thời và chống lại chế độ đẳng cấp Vacna hà khắc. Và trên
thực tế, đạo Phật góp phần làm loãng rất nhiều quan niệm khắt khe của đạo Bàlamôn và
Vacna.
+ Trong hoàn cảnh xã hội ấn Độ thời cổ đại, đạo Phật đã đề ra được lý thuyết về con
đường giải thoát về mặt ý thức. Điều này làm cho quần chúng nhân dân tin tưởng vì tìm thấy
ở đạo này một sự an ủi, một niềm tin vào tương lai.
+ Nghi lễ đạo phật rất đơn giản, điều này phù hợp với hoàn cảnh của người dân lao
động nghèo khổ thuộc các đẳng cấp dưới cho nên nó được hưởng ứng nhiệt tình. Đạo phật
phản ánh tình yêu thương đồng loại.
Về tiêu cực:
Giáo lý của đạo phật về nguồn gốc các nỗi khổ đau không phù hợp với thực tế. Học
thuyết tự tu dưỡng của đạo Phật không góp phần làm giảm mâu thuẫn xã hội mà đẩy mâu
thuẫn đó lên đỉnh cao của nó. Và đương nhiên những tư tưởng của đạo Phật không hợp với
một xã hội còn đầy dẫy những bất công trong xã hội ấn Độ cổ đại bấy giờ.
Nhưng xét cho cùng, sự ra đời của đạo Phật với những tư tưởng triết lý cơ bản trên
cũng đã có thể coi là một cuộc cách mạng vĩ đại trong xã hội ấn Độ cổ đại chống lại những
luật lệ hà khắc do chế độ đẳng cấp Varna, luật Manu và đạo Bàlamôn tạo nên. Chính vì lẽ đó,
đạo Phật ra đời nhanh chóng phát triển mạnh mẽ về số lượng tín đồ và trở thành tôn giáo thế
giới. Và đương nhiên, những nhà sư chân đất với màu vàng thánh thiện của Phật đã tiếp tục sự
nghiệp giải thoát nỗi khổ đau của con người.

Câu 8: Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ đối với Việt Nam.
Trả lời:
Câu 9: Điều kiện hình thành, kể tên những thành tựu cơ bản của nền văn minh Trung
Quốc thời cổ Trung đại. Nhận xét về nền văn minh đó.
Trả lời:
 Điều kiện tự nhiên:
• Địa lý:
- Trung Quốc có diện tích 9.571.300 km², có diện tích gấp 29 lần Việt Nam.
- Trung Quốc là quốc gia lớn thứ 4 thế giới về tổng diện tích.
- Có đường biên giới giáp với 14 quốc gia và lãnh thổ.
- Địa hình: Cao và hiểm trở, 60% diện tích là núi cao trên 1000m.
+ Phía Tây có nhiều núi và cao nguyên,khí hậu khô hanh.
+ Phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu  thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.
- Sông ngòi: hàng ngàn con sông lớn nhỏ, hai con sông quan trọng nhất là Hoàng Hà và
Trường Giang (hay sông Dương Tử) (chảy theo hướng tây-đông, hàng năm đem phù sa về bồi
đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc).
- Hoàng Hà là cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.
• Dân cư:
- Là nước đông dân (do Một số dân tộc khác biệt lọt vào trong vùng sinh sống của dân tộc Hán
 bị Hán hóa  được coi là người Hán).
Hiện nay: 1,3 tỉ người trên tổng số dân toàn thế giới là 6,4 tỉ (cứ 6 người trên thế giới thì có 1
người TQ).
- Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện chính thức công nhận tổng cộng 56 dân
tộc, trong đó người Hán chiếm đa số.
 Điều kiện lịch sử:
• Trung Quốc thời cổ đại
- Đã trải qua Xã hội nguyên thuỷ.
- Đến nửa đầu Thiên kỷ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất hiện 1 thủ lĩnh bộ lạc gọi là Hoàng đế
(Họ Cơ, Hiệu là Hiên viên)  Được coi là thuỷ tổ người TQ.
- Đến cuối Thiên kỷ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ đều là dòng dõi cuả Hoàng

đế. (Nghiêu và Thuấn là 2 ông vua tốt nhất trong lịch sử TQ).
- Sơ đồ nhường ngôi: Nghiêu (72 tuổi) -> Thuấn (già) -> Vũ (chết đi) -> Khải (con Vũ) được
tôn lên làm vua.
TQ bắt đầu bước vào XH có nhà nước.
Thời cổ đại: có 3 vương triều nối tiếp nhau là: Hạ, Thương, Chu (còn gọi là Tam đại -
là các triều đại phong kiến thế tập cổ xưa nhất được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc).
- Nhà Hạ (khoảng TK XXI đến XVI TCN)
- Thương (còn gòi là Ân _ Thương, TK XVI – XII TCN)
- Chu (TK XI – III TCN)
• Trung Quốc thời trung đại
- Trải qua hơn 2000 năm, Dưới sự thống trị của 14 triều đại phong kiến.
- Nổi bật:
+ Hán, Đường, Tống, Minh: những vương triều lớn  là thời TQ rất cường thịnh, phát triện
về mọi mặt.
+ Minh, Thanh: lần lượt do người Mông Cổ, Mãn Châu lập nên  mâu thuẫn dân tộc và giai
cấp gay gắt  hạn chế sự phát triển văn hóa.
… (trang 103)
Câu 10: Nêu các thành tựu nổi bật của văn minh Trung Hoa và ý nghĩa của nó tới sự
phát triển của nhân loại ? ( giấy, thuốc súng, là bàn…)
Trả lời:
Thời trung đại Trung Quốc có 4 phát minh lớn rất quan trọng đó là: Giấy, kĩ thuật in,
thuốc súng và kim chỉ nam.
 Kĩ thuật làm giấy:
• Thời Tây Hán, người Trung Quốc vẫn dung thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng thế kỷ II,
mặc dù đã biết dung phương pháp xơ gai để làm giấy, tuy nhiên giấy thời kỳ này còn xấu, mặt
không phẳng , khó viết nên chỉ dung để gói.
• Đến thời Đông Hán, năm 105 một người tên Thái Luân đã dung vỏ cây, lưới cũ, rẻ rách…làm
nguyên liệu, đồng thời đã cải tiến kỹ thuật, nên đã làm được loại giấy có chất lượng tốt. Từ đó
giấy được dung để viết 1 cách phổ biến thay thế cho các vật liệu trước đó.
• Từ thế kỷ III nghề làm giấy được truyền sang Việt Nam và sau đó được tryền đi hầu khắp các

nước trên thế giới.
 Kĩ thuật in:
• Từ giữa thế kỷ VII kĩ thuật in giấy đã xuất hiện. Khi mới ra đời là in bằng ván sau đó có một
người dân tên Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung đã hạn chế được
nhược điểm của cách in bằng ván. Tuy nhiên cách in này vẫn còn hạn chế nhất định: chữ hay
mòn, khó tô mực. Sau đó đã có một số người tiến hành cải tiến nhưng ko được, đến thời
Nguyên, vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng chữ rời bằng gỗ.
• Từ khi ra đời kĩ thuật in cũng đã được truyền bá rộng rãi ra các nước khác trê thế giới. Cho
đến năm 1448, Gutenbe người Đức đã dùng chữ rời bằng kim loại, nó đã làm cơ sở cho việc
in chữ rời bằng kim loại ngày nay.
 Thuốc súng:
• Thuốc súng là phát minh ngẫu nhiên của những người luyện đan, cho đến thế kỷ X thuốc súng
bắt đầu được dùng làm vũ khí. Sau đó qua quá trình sử dụng nó đã được cải tiến rất nhiều với
nhiều tên gọi khác nhau. Và trong quá trình tấn công Trung Quốc người Mông cổ đã học được
cách làm thuốc súng và từ đó lan truyền sang Tây Á rồi đến châu Âu.
 Kim chỉ nam.
• Từ thế kỷ III TCN người Trung Quốc đã phát minh ra “Tư nam” đó là một dụng cụ chỉ
hướng. Sau đó các thầy phong thủy đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo, đầu tiên la bàn
được dùng để xem hướng đất rồi mới được sử dụng trong việc đi biển. Nửa sau thế kỷ XII la
bàn được truyền sang Arập ròi sang châu Âu.
 Ý nghĩa:
Đối với trung quốc bốn phát minh trên ra đời không chỉ trực tiếp giúp cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của con người Trung Quốc, mà đó còn là những đóng góp không
nhỏ của một nền văn minh cho toàn nhân loại.
Đối với thế giới sự ra đời của kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam đã
nâng cao được vị thế của loài người, đưa nhân loại tiến lên một bước trong quá trình chinh
phục tự nhiên và tranh đấu với tự nhiên với chính con người để sinh tồn và phát triển.
Câu 12: Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực Đông Nam Á và những thành tựu
cơ bản của nền văn minh đó. VN đã có những đóng góp gì cho nền văn minh khu vực ?
Trả lời:

 Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực ĐNA:
• Điều kiện tự nhiên của ĐNA thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của con người. Vì
thế có thể hiểu được tại sao con người đã có mặt ở vùng đất ày từ rất xa xưa. Cùng sinh tụ
trên một khu vực địa lý, cư dân ĐNA đã sang tạo ra một nền văn hóa bản địa có cội nguồn
chung từ thời tiền sử và sơ sử trước khi tiếp súc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Theo
những vật chứng để lại nhờ sự phát hiện của các nhà khảo cổ có thể thấy Văn hóa ĐNA cũng
đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và rồi dần hình thành lên một nền văn
minh mới của nhân loại.
• Sự hình thành các quốc gia ĐNA còn gắn liền với việc tiếp thu ảnh hưởng văn hóa
Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ. Những ảnh hưởng này là khá tòa diện và sâu sắc, cả về chữ
viết, văn chương, tôn giáo, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Sự tiếp thu đó qua các con
đường khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là thông qua hoạt động thông thương và việc xâm
chiếm. Tuy phải chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của hai nền văn hóa lớn song ĐNA vẫn là ĐNA
một khu vực được coi là “Châu Âu giáo mùa” cũng có những bản sắc và những thành tựu
riêng biệt mang đậm chất ĐNA.
 Những thành tựu cơ bản của nền văn minh ĐNA
Cư dân ĐNA lấy sản suất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chủ
yếu. Do đó không chỉ có những nét tương đồng về canh tác và hệ thồng thủy lợi, mà đến các
phong tục tập quán ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của của nền nông nghiệp lúa nước.
• Trước khi các tôn giáo được truyền bá vào ĐNA, cư dân nơi đây đã dùng thuyết “vạn
vật hữu linh” để chỉ tất cả những hình thức tín ngưởng. Trong đó sớm nhất là bái vật giáo với
những ý niệm về sức mạnh siêu nhiên của tự nhiên.
Quan niệm “vạn vật hữu linh” đã tồn tại trong các tín ngưỡng dân gian và có tác động
không nhỏ đến các tôn giáo được truyền bá vào và một phần làm biến dạng nó, biến nó thành
cái của mình: như Ăng co vát ở Campuchia, Bánh xe luân hồi bằng đá ở Thái Lan.
• Khác với văn hóa chữ viết của người Hán và Ấn Độ, văn hóa cư dân nông nghiệp
ĐNA tắm mình trong nền văn hóa dân gian. Tín ngưỡng, lễ hội gắn liền với chu ký nông
nghiệp, thờ cúng tổ tiên. Cơ cấu của lễ hội bao gồm hai phần đó là Lễ và Hội đan xen hòa
quyện vào nhau rất khăng khít, Ngoài ra lễ hội khu vực ĐNA còn mang tính chất thống nhất
cao như Tết cổ truyền ở các nước đều có với hình thức gần giống nhau và thời điểm cũng

tương đương nhau.
• Qua các văn bia người ta biết rằng ĐNA cổ xưa đã sử dụng chữ viết đươc du nhập từ
Ấn Độ là chính. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử lâu dài việc sang tạo ra chữ viết và quá trình
cải tiến nó của các cư dân ĐNA không phải là một sự bắt chước đơn giản mà là cả một quá
trình công phu và sang tạo, một thành tựu đáng kể về văn hóa của khu vực.
Nền văn học dân gian của các dân tộc ĐNA cũng rất phong phú và đa dạng về thể loại
đó là những truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn, truyện trạng…
mặc dù có chịu ảnh hưởng của văn học Hán và Ấn Độ song văn học ĐNA vẫn mang được bản
sắc riêng để lại nhờ sự phát hiện của các nhà khảo cổ có thể thấy Văn hóa ĐNA cũng đã trải
qua rất nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và rồi dần hình thành lên một nền văn minh mới
của nhân loại.
Ngoài ra văn hóa ĐNA còn rất nhiều bản sắc riêng biệt nữa như: Chiếc nhà sàn, Thích
múa hát tập thể, hát đối…
Câu 18: Phân tích tính chất, ý nghĩa và hệ quả của phong trào văn hoá Phục hưng?
Trả lời: (giáo trình trang 270)
 Văn hóa Phục Hưng:
• Đây là một phong trào văn hóa tư tưởng có tiếp thu và kế thừa một số yếu tố trong nền
VH của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Do đó góp phần vào việc phục hồi văn hóa Hy-La.
• Quan trọng hơn đây là 1 phong trào VH tư tưởng mang nội dung hoàn toàn mới một ý
thức g/c mới của g/c Tư sản mới ra đời.
• Phong trào văn hóa Phục Hưng là khôi phục tinh hoa văn hóa xán lạn cổ đại Hy Lạp,
Rô-ma, đấu tranh xây dựng một nền văn hóa mới, một cuộc sống tiến bộ.
• Phong trào VH Phục Hưng là 1 phong trào rộng lớn nhiều mặt, trong đó ý thức hệ TS
chiếm vị trí chi phối. Hay nói cách khác phong trào là 1 cuộc cm Vh tư tưởng của g/c TS
nhằm chống lại giáo hội thiên chúa và chế độ phong kiến.
 Nguyên nhân ra đời:
• Do nền văn hoá Tây âu dưới thời Sơ và Trung đại bị giáo hội Cơ đốc giáo lũng đoạn.
• Do VH Tây Âu dưới thời Trung Đại bị giáo hội thiên chúa cưỡng đoạt, tư tưởng tình
cảm con người bị ràng buộc bởi giáo hội.
• Do sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến trước sự ra đời của g/c tư sản và sự phát

triển của quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa.Và sự phát triển của g/c TS đang lên cần phải có
hệ tư tưởng và nền VH riêng để phục vụ cho đời sống tinh thần của mình, để đấu tranh với hệ
tư tưởng lỗi thời của giáo hội và g/c quý tộc phong kiến đang cản trở sự phát triển XH.
 Hoàn cảnh lịch sử:
Diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử Tây Âu diễn ra nhiều sự kiện quan trọng:
+ Sự xuất hiện nhiều phát minh khao học quan trọng: Các máy móc như: vành sắt, máy ngựa,
vai cày, xe cút kít, cối xay gió, đồng hồ cơ học, giải toán học,
+ Thời kì diễn ra nhiều cuộc phát kiến lớn về địa lý mang lại những hiệu quả to lớn và sâu
sắc đã thúc đẩy sự phát triển KT và thương mại mang tính chất thế giới rõ rệt, làm cho Tây
Âu giàu lên nhanh chóng thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo những tiền đề quan trọng cho sự ra
đời của g/c tư sản Châu Âu.
+ Đây là thời kỳ bùng nổ các cuộc cải cách tôn giáo và cuộc đấu tranh của g/c nông dân
chống lại các lãnh chúa phong kiến. Tiêu biểu là cải cách tôn giáo và chiến tranh nông dân
Đức thế kỷ XVI.
+ Đây là thời kỳ Chủ nghĩa chuyên chế thắng lợi ở một số nước lớn & chủ nghĩa dân tộc
đang hình thành.
+ Riêng Italia sở dĩ trở thành quê hương đầu tiên của Vh Phục Hưng vì phong trào ở đây ra
đời sớm.
Đây vốn là quê hương của nền Văn hoá La Mã cổ đại. La Mã lại tiếp thu nền văn minh Hy
Lạp.
Sự xuất hiện tầng lớp giàu có đã kích thích sự sáng tạo nghệ thuật của các nghệ sĩ. Từ
Italia đã truyền sang các nước Anh, Pháp, Đức. Thủy Sĩ,….
 Tính chất:
• Khẳng định Phong trào VH Phục Hưng mang tính chất Tư sản. Là phong trào VH
hoàn toàn mới dựa trên nền tảng KT-XH mới và được chỉ đạo bởi một hệ tư tưởng mới, thực
chất đây là cuộc cm văn hóa tư tưởng mang tính chất TS mới ra đời, nhằm chống lại quan
điểm lỗi thời, ràng buộc tư tưởng tình cảm của con người, kìm hãm sự phát triển của XH, của
chế độ phong kiến, giáo hội thiên chúa.
• Điểm tiến bộ của phong trào VH Phục Hưng:
- Phong trào thể hiện nội dung chống giáo hội thiên chúa và chống phong kiến, mang tính chất

phản phong khá rõ nét.
- Thể hiện ở quan điểm và nhận thức của giai cấp tư sản về con người với tự nhiên, trong đó
đặc biệt đề cao giá trị của con người và tự do cá nhân.
- Thể hiện trong việc g/c tư sản đề cao tinh thần dân tộc tình yêu đối với tổ quốc và tiếng nói
đất nước mình góp phần hình thành dân tộc tư sản ở Tây Âu.
• Điểm hạn chế của phong trào văn hoá Phục hưng:
- Chưa triệt để chống giáo hội và chế độ phong kiến.
- Đề cao giá trị con người nhưng lại ủng hộ sự bóc lột để làm giàu.
 Ý nghĩa phong trào Văn hoá Phục Hưng:
- Phong trào Văn hoá Phục hưng là một cuộc cách mạng trên mặt trận văn hoá, tư tưởng
của giai cấp tư sản đang lên chống lại xã hội phong kiến, để chuẩn bị mở đường cho một cuộc
cách mạng xã hội.
- Đánh bại hệ tư tưởng lỗi thời phong kiến và giáo hội thiên chúa, giải phóng tư tưởng
tình cảm của con người khỏi trói buộc của giáo hội, chủ nghĩa nhân văn ngày càng giữ vai trò
chi phối.
- Là bước tiến kì diệu trong lịch sử văn minh phương tây với những công trình tác
phẩm bất huỷ làm phong phú kho tàng văn minh nhân loại, là chuẩn mực để thế hệ sau noi
theo. Nhiều quy luật (hội hoạ), quan điểm mới, phát minh đặt nền móng cho nhiều chuyên
ngành sau này. Đặt cơ sở cho văn minh Tây âu những thế kỉ sau.
- Lên án giáo hội Ki tô, tấn công vào trật tự phong kiến, đánh bại tư tưởng phong kiến
lỗi thời.
- Đây là cuộc đấu tranh đầu tiên của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến trên
mặt trận văn hoá tư tưởng.
- Đề cao tự do, xây dựng thế giới quan tiến bộ.
 Hệ quả:

Câu 19: Phát kiến địa lý đã mở ra một trang sử mới trong tiến trình lịch sử loài người.
Vì sao?
Trả lời:
 Phát kiến địa lý: thuật ngữ thường dùng có tính quy ước để chỉ những phát hiện mới

về địa lí của các nhà thám hiểm Châu Âu ở thế kỉ 15 - 16. Ở giai đoạn này, nhu cầu tiêu thụ
đặc sản phương Đông như hương liệu, tơ lụa, vàng bạc, đá quý, vv… ngày càng tăng đã khiến
những kẻ phiêu lưu, khát khao quyền lực và của cải ở Tây Âu muốn tìm những con đường
mới sang phương Đông mà không phải đi qua vịnh Ba Tư đã bị người Thổ Nhĩ Kì ngăn chặn.
Bên cạnh đó, những tiến bộ về khoa học kĩ thuật như kĩ thuật đóng tàu gỗ có buồm và bánh
lái Caraven, phát minh la bàn, những hiểu biết về hàng hải và về Trái Đất, đầu óc thực tiễn và
duy lí là những điều kiện thuận lợi giúp các nhà thám hiểm đi được xa.
 Phát kiến địa lý có ý nghĩa trọng đại và đã mở ra một trang sử mới trong tiến trình lịch
sử loài người, vì:
• Những chuyến đi thám hiểm, tìm những vùng đất mới trong các thế kỷ XV, XVI của
những nhà hàng hải nổi tiếng đã mở ra một chương mới trong lịch sử thế giới. Đó là tìm ra 1
lục địa mới là Châu Mỹ, 1 đại dương mà người châu Âu chưa biết, được đặt tên là Thái bình
dương, mở ra những con đường biển đến các châu lục.
 Từ chính những chuyến đi thám hiểm, khám phá những vùng đất mới này đã phát
hiện ra những thị trường mới, đem lại những khả năng mới cho sự giao lưu Kinh tế & văn
hoá, thúc đẩy mối giao lưu thương mại trên toàn thế giới về cả nội dung và hình thức.
• Trước những phát triển về kỹ thuật và nhu cầu tìm kiếm những nguyên liệu mới, thị
trường mới đã đặt ra nhu cầu bức thiết là phải tìm ra con đường buôn bán nối liền phương Tây
và phương Đông (nơi có giàu nguyên liệu)  nhu cầu hợp tác.
• Sau những cuộc phát kiến này, đó là một sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá trên thế
giới diễn ra do các cá nhân có nguồn gốc văn hoá khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những
người khai phá vùng đất mới, những quân nhân
+ Những cuộc di chuyển dân cư trên quy mô lớn.
+ Hoạt đông thương mại trở nên nhộn nhịp, các thành thị trở nên sầm uất. Việc buôn bán
được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới  hình thành các tuyến đương thương mại nối liền
châu Âu – Phi – Á, và tạo nên tam giác mậu dịch. Nhiều thành phố và trung tâm thương mại
xuất hiện.
+ Công cuộc thám hiểm các vùng đất mới cũng làm nảy sinh nạn buôn bán nô lệ da đen và
chế độ thực dân tàn bạo. Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở
sang Châu Mĩ, … Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như

nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
• Tìm thấy những con đường hàng hải và những vùng đất mới đã góp phần thúc đẩy
sự giao lưu toàn cầu, quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản ở Châu Âu và hình thành hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.
 Tóm lại, những cuộc phát kiến địa lý ở các thế kỷ XV, XVI đã mang đến những hiểu biết
mới cho loài người về trái đất, dân tộc, thị trường…nhưng hệ quả lớn nhất mà nó mang lại đó
là hình thành nên con đường buôn bán mới, đẩy nhanh quá trình giao lưu thương mại
trên thế giới, mở rộng các mối quan hệ quốc tế. Ngoài ra, phát kiến địa lý cũng góp phần
giúp các nước châu Âu tích lũy được nguồn tư bản nguyên thủy, tạo điều kiện ra đời của Chủ
nghĩa Tư bản. Nhưng mặt khác, nó đã để lại một hệ quả xấu là việc ra đời Chủ nghĩa thực dân
đã gây ra bao thương đau cho các dân tộc trên thế giới.
Câu 20: Sự ra đời của máy hơi nước là 1 cuộc cách mạng trong lịch sử sản xuất của loài
người. Vì sao?
Trả lời:
Cách mạng công nghiệp là sự kiện cơ bản đánh dấu việc chuyển biến từ xã hội sang
giai đoạn văn minh công nghiệp. Cách mạng công nghiệp là sự biến đổi sâu sắc về chất của
nền kinh tế mà đặc trưng cơ bản của nó là việc thay thế lao động thủ công bằng máy móc.
Việc sử dụng rộng rãi năng lượng than đá và phương thức sản xuất mới.
Sau cuộc cách mạng tư sản của các nước trên thế giới sau khi thành công là sự ra đời và
phát triển của chế độ tư bản, ngay cùng thời gian đó là cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ được tiến hành và đạt được hành loạt những thành tựu lớn với những phát minh vĩ đại
như: Năm 1733 Giôn Cây đã phát minh ra “thoi bay”, Năm 1764 Giêm Hacgrivơ đã phát
minh ra máy kéo sợi Jenny, … Trong đó phải kể đến máy hơi nước, ra đời năm 1769 do
Giêm Oát (James Watt) đã sáng chế ra. Sự ra đời của máy hơi nước là một trong những bước
ngoặt lớn của loài người, đó là một trong những thành tựu văn minh vĩ đại mở ra một cánh
của mới cho lịch sử văn minh thế giới.
Máy hơi nước là phát minh quan trọng nhất để làm lên một cuộc cách mạng công
nghiệp. Nhu cầu của sản xuất là động lực trực tiếp thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật. Máy hơi
nước nhanh chóng được sử dụng để tạo đông lực cho các nghành công nghiệp nhờ đó sức sản
xuất ra tăng nhanh chóng và năng xuất lao động cũng vậy, máy hơi nước dần thay thế sức lao

động thủ công. Với việc sử dụng máy hơi nước, các nhà máy ở Anh bắt đầu hình thành.
Với máy hơi nước, hoạt động giao thông cũng trở lên phát triển với sự ra đời của tàu
hỏa chạy bằng động cơ hơi nước rồi tàu thủy cũng được trang bị động cơ này. Năm 1804,
chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã
lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mĩ.
Năm 1807, Phơntơn (Robert Fulton) đã chế ra tàu thuỷ chạy bằng hơi nước thay thế cho
những mái chèo hay những cánh buồm. Thực sự động cơ hơi nước đã làm được những
điều thật tuyệt vời cho quá trình công nghiệp hóa ở các nước Phương Tây, đặc biệt là
nước Anh – nơi được coi là “công xưởng của thế giới”.
Cách mạng công nghiệp không chỉ đơn thuần là cuộc cách mạng công cụ, nó đã gây ra
những biến đổi lớn trong quan hệ xã hội và cấu tạo giai cấp. Ăngghen từng nhận xét: “Hơi
nước và máy công cụ mới đã biến công trường thủ công thành đại công nghiệp hiện đại và do
đó đã cách mạng hóa toàn bộ nền móng của xã hội tư bản”.
 Như vậy có thể nói rằng sự ra đời của máy hơi nước thực sự đã làm lên một cuộc
cách mạng của con người trong việc khám phá và chinh phục thế giới xung quanh. Động cơ
hơi nước là cơ sở đánh cho toàn bộ nền công nghiệp sau này, nó quyết định tới sự phát triển
của mọi loại hình hoạt động trong xã hội có nhu cầu sử dụng đến sức thay thế loa động thủ
công tay chân. Động cơ hơi nước có ý nghĩa quan trọng trong thành tựu văn minh của con
người.
Câu 21: Trình bày những hiểu biết của anh chị về “Kinh tế tri thức”. Cho Ví dụ minh
hoạ?
Trả lời:
 Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ
trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Trong hơn bốn thập kỷ qua, đã có
nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải thích cơ chế của nền kinh tế này. Trong những năm
qua kinh tế tri thức được chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, cả những nước
phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức là khái niệm không dễ hiểu vì dựa
trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do vậy đã được hiểu nhiều ít khác
nhau.
 Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức (Knowledge - BasedEconomy)

là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao.
+ Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD cho rằng: "Nền kinh tế tri thức là nền kinh
tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin"
(OECD 1996).
+ Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: "Nền kinh tế
tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành
động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trongtất cả các ngành
kinh tế” (APEC 2000).
+ Còn theo Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà việc
sản sinh ra và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải”.
+ Theo GS.VS Đặng Hữu: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập
và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
 Các động lực: 4 trụ cột của nền kinh tế tri thức:
+ Môi trường kinh tế và thể chế xã hội.
+ Giáo dục và đào tạo.
+ Mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố vấn, doanh nghiệp
tư nhân, các nhóm cộng đồng.
+ Hạ tầng cơ sở thông tin, từ radio đến Internet, đặc biệt là hệ thống viễn thông.
 Đặc điểm:
Nền kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ bản như:
• Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn;
• Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các
thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao;
• Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức có những biến đổi như Lao động tri thức chiếm
tỷ trọng cao (70-90%), nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới,
học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người. ở đỉnh cao của nó, xã hội của nền
kinh tế tri thức sẽ trở thành xã hội học tập;
• Trong nền kinh tế tri thức, quyền sở hữu đối với tri thức trở nên quan trọng;
• Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa.

 Sự phát triển:
• Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, các quốc gia có nền kinh tế và khoa học công
nghệ phát triển đã đề ra những chương trình, chiến lược nhằm hướng nền kinh tế phát triển
theo những đặc trưng của kinh tế tri thức.
+ Có thể kể đến những ví dụ điển hình như: từ 1984 đến nay, mỗi năm chính phủ Mỹ chi
hàng trăm tỷ USD cho hoạt động khoa học, công nghệ.
• Từ những năm 80 của thế kỷ XX, chính phủ Nhật đã dành cho chương trình vi điện tử
hơn 100 tỷ USD.
• Những năm 90 đến nay, nước Nhật đã dành khoảng 3% tổng sản phẩm quốc dân cho
hoạt động nghiên cứu và triển khai. Các nước Tây Âu cũng đẩy mạnh hoạt động vào lĩnh vực
công nghệ cao, như: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, điển
hình là các nước Đức, Pháp, Italia, Anh, Ba Lan để đo lường sự phát triển của kinh tế tri
thức tại các quốc gia, hiện nay có chỉ số KEI của Ngân hàng thế giới.
• Năm 2012, Thụy Điển, Phần Lan và Đan Mạch là 3 quốc gia đạt hạng cao nhất thế
giới về phát triển kinh tế tri thức với số điểm lần lượt là 9,43; 9,33 và 9,16. Trong bảng đánh
giá này, Việt Nam xếp hạng 104 với số điểm 3,4, tăng 9 bậc so với năm 2000.
 Kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất tiêu biểu cho nền văn minh trí tuệ - văn minh xã
hội XHCN.
 Một số vấn đề cơ bản trong thực tiễn phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện
nay:
• Thứ nhất, định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế tri thức:
- Xét về bản chất, kinh tế tri thức không phải là cơ sở của nền thống trị của số ít đối với
nhân dân, của chủ nghĩa bá quyền nước này đối với nước khác.
- Từ những quan sát ấy có thể nhận rõ rằng, sự phát triển kinh tế tri thức là cơ hội chưa
từng có của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa (với nội hàm là phát triển bền
vững).
- Liên hệ với thực tế thì thấy rằng, trong thời đại kinh tế tri thức kiên trì định hướng xã
hội chủ nghĩa là có cơ sở khoa học thực tiễn. Nhưng sự kiên trì này ở Việt Nam lại chưa được
thể hiện trong mô hình phát triển kinh tế - xã hội. Với nhứng vấn nạn về xã hội và môi trường
ngày càng tăng, với những hậu quả của tệ quan liêu, tham nhũng trong quản lý đã cho thấy

mô hình công nghiệp hóa dựa trên khai thác tài nguyên và lao động rẻ đã lỗi thời, hoàn toàn
không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa và với thời đại hiện nay.
- Chuyển sang mô hình kinh tế thị trường dựa trên kinh tế tri thức vừa là một đòi hỏi
cấp bách của định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phù hợp với thời đại kinh tế hiện nay. Đây
phải là một trong những vấn đề chiến lược cơ bản của Đại hội XI của Đảng.
• Thứ hai, kết hợp nội lực với ngoại lực:
- Nội lực và ngoại lực là hai sức mạnh cơ bản của con đường phát triển rút ngắn. Kết
hợp tốt hai sức mạnh đó thì dân tộc mới có thể đồng hành cùng thời đại. Ngoại lực ở đây là
những thành tựu của kinh tế tri thức trên tất cả các lĩnh vực, chứ không phải bất cứ ngoại lực
nào. Không có ngoại lực này thì các nước phát triển sau chỉ dừng lại ở nền kinh tế thị trường
“hoang dã”. Mặt khác, muốn sử dụng thành tựu tiên tiến làm cho dân giàu, nước mạnh thì
phải phát huy nội lực của dân tộc. Trong đó chủ yếu nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao
trên các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hóa, lãnh đạo và quản lý các cấp và
doanh nghiệp. Không có hoặc thiếu nguồn nội lực như vậy thì chỉ tiếp nhận những nguồn
ngoại lực chất lượng thấp, thậm chí là “rác thải” của các nước khác.
- Nhìn vào thực trạng nước ta, đây đang là khâu yếu nhất của hệ thống, từ trình độ
công nghệ cao và tổ chức quản lý ở doanh nghiệp cho đến các lĩnh vực khoa học và công
nghệ, nền giáo dục, đào tạo, môi trường văn hóa, hệ thống lãnh đạo quản lý các cấp. Hệ quả là
chỉ có thể tăng vốn đầu tư để đạt tốc độ tăng trưởng cao, còn chất lượng, hiệu quả thấp.
• Thứ ba, xây dựng thể chế chính trị phù hợp với yêu cầu vận dụng và phát triển kinh tế
tri thức:
- Một thế chế kinh tế chính trị như vậy sẽ phát huy ngày càng đầy đủ những ưu thế của
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
• Thứ tư, mối quan hệ giữa con người với tổ chức:
- Mối quan hệ này được hình thành trong nền kinh tế thị trường. Nhưng ở giai đoạn
kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa, con người chỉ là công cụ của tổ chức và tổ chức chỉ là
công cụ của ông chủ để thực hiện mục đích làm giàu.
- Đối với nước ta, xây dựng kinh tế tri thức là một vấn đề mới, nhưng là một tất yếu
khách quan của giai đoạn mới.
• Thứ năm, thời gian và phát triển

Câu 22: Hãy phân tích ảnh hưởng của thành tựu khoa học công nghệ thế giới nửa sau
thế kỉ XX đến quá trình Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ nửa sau thế kỉ XX:
• Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đạt được những thành tựu kì diệu trong mọi
ngành khoa học cơ bản và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, rõ nét nhất là trong các ngành
điện tử - tin học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, kĩ thuật lade, khoa học vũ
trụ.
• Máy tính và rôbôt là những sản phẩm tiêu biểu của công nghệ điện tử-tin học:
+ Từ những chiếc máy vi tính đầu tiên ra đời vào năm 1946 đến nay, máy tính đã trải qua bốn
thế hệ. Từ những chiếc máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bóng đèn điện tử chân không, rồi
chất bán dẫn, vi mạch (mạch tích hợp IC - Integrated Circuit), vi mạch với độ tích hợp cao.
Từ máy tính điện tử dẫn tới sự kết nối Internet, tạo ra mạng thông tin toàn cầu với khả năng
trao đổi thông tin cực nhanh, giá rẻ.
+ Đội ngũ rôbôt công nghiệp ngày càng đông đảo, thông minh hơn và lĩnh vực tham gia hoạt
động đang ngày càng mở rộng.
• Nhiều loại vật liệu mới ra đời trong hoàn cảnh vật liệu thiên nhiên ngày càng vơi cạn
dần. Những loại vật liệu mới này còn có những tính năng hơn hẳn vật liệu tự nhiên như siêu
bền, siêu cứng, siêu nhẹ Tên các loại vật liệu mới như composit, polyme, silic, sợi cáp
quang ngày càng trở nên phổ biến. Nhiều loại năng lượng mới đã được con người sử dụng
để biến thành điện năng như năng lượng nguyên tử, năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió
• Tia lade (laser) mới được phát minh ra từ những năm 60 của thế kỉ XX nhưng đến nay
đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự, thiên văn, y học, công nghệ in, thông tin
liên lạc
• Công nghệ sinh học đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc, thậm chí đáng sợ.
Công nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gien, công nghệ tế bào, công nghệ
vi sinh, công nghệ enzim. Nhờ công nghệ sinh học, người ta đã tạo ra nhiều giống cây, con
mới với những đặc tính ưu điểm khác hẳn các giống trong tự nhiên; nhiều loại dược phẩm
mới ra đời, nhiều loại chất xúc tác mới xuất hiện
• Trong nghiên cứu vũ trụ, con người đã tiến những bước dài mà đi đầu là hai nước Liên

Xô và Mĩ. Các tàu vũ trụ của Liên Xô và Mĩ đã đi thăm dò những hành tinh xa xôi ngoài Trái
Đất. Liên Xô, Mĩ và giờ đây đang thêm nhiều nước khác đã phóng các vệ tinh nhân tạo đáp
ứng nhu cầu truyền hình, thông tin toàn cầu, điều tra tài nguyên, dự báo thời tiết, mạng định vị
qua vệ tinh
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội. Từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng 1 cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến, hiện đại; dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Những ảnh hưởng:
• Những thành tựu của văn minh thế giới ngày nay là kết quả chung những tri thức mà
cả loài người đã xây dựng, tích luỹ qua bao thế hệ. Văn minh thế giới chứa đựng những nét
chung nhất mà mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều tiếp thu và vận dụng nó vào cuộc sống của dân
tộc mình. Do những điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử khác nhau, giá trị văn hoá của mỗi
dân tộc có những nét khác nhau, có những sắc thái riêng biệt. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để
tiếp thu những yếu tố hợp lí, tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực.
• Dân tộc Việt Nam ta nằm giữa hai nền văn minh lớn của Châu Á là Ấn Độ và
Trung Hoa. Trong xu thế hội nhập tất yếu ngày nay, dù muốn hay không chúng ta vẫn phải
tham gia, phải đương đầu để mà tồn tại và phát triển, chúng ta cần chủ động tìm hiểu sự đa
dạng về văn hoá của các dân tộc khác, tiếp thu những giá trị văn minh chung của nhân loại để
góp phần nhỏ bé của mình vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và
bảo vệ, phát huy những tinh hoa của văn hoá dân tộc.
• KH – CN là một bộ phận không thể tách rời khỏi sự phát triển của xã hội và con
người, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã đem lại sự thay đổi to lớn mang tính bước
ngoặt trong sự phát triển của xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật đã tạo ra
những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và năng
suất lao động, làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới có liên quan đến sự tiến triển của khoa
học và công nghệ (công nghiệp tên lửa, điện tử, vi sinh ) và thay đổi hoàn toàn cơ cấu các
ngành kinh tế. Trong khi cách mạng công nghiệp chứng kiến nền sản xuất từ thủ công chuyển
sang cơ khí hóa, cách mạng khoa học – công nghệ cho thấy sự tự động hóa cao độ của nền sản

xuất dựa trên việc điện tử hóa và ứng dụng các thành tựu mới nhất của công nghệ vào sản
xuất. Ngoài ra, tất cả những thay đổi to lớn trong công nghệ và sản xuất đã tạo ra những thiết
bị sinh hoạt, hàng tiêu dùng mới làm thay đổi hoàn toàn lối sống của con người trong xã hội.
• Làm sự biến đổi triệt để về chất của lực lượng sản xuất, biến khoa học thành nhân tố
chủ đạo của sự phát triển nền sản xuất xã hội, thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến sự
biến đổi cách mạng trong cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội, trong tính chất và phân công lao
động xã hội. CMKH - CN tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, đòi hỏi ngày càng nâng
cao trình độ học thức chuyên môn, trình độ văn hoá, tổ chức, làm thay đổi thói quen, tập tục
lỗi thời; thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.
• Việc áp dụng những công nghệ mới đã tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo chiều
sâu, giảm hẳn tiêu hao năng lượng và nguyên liệu, giảm tác hại cho môi trường, nâng cao chất
lượng sản phẩm và dịch vụ, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất.
 Nói tóm lại:
• Thành tựu khoa học công nghệ thế giới nửa sau thế kỉ XX đã có sức ảnh hưởng lớn tới quá
trình CNH – HĐH ở Việt Nam. Nó là tiền đề cho sự phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất XH và áp dụng
những thành tựu KH-CN hiện đại.
• Góp phần xây dựng cơ cấu Kinh tế hiện đại và hợp lí. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế: Công
nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng.
• Thiết lập quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN ở nước ta nhằm xây dựng XHCN. Bất cứ
sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đều là kết quả
tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất.

×