Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM, NHỮNG GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.06 KB, 34 trang )

PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM, NHỮNG GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH
VÀ PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI
I.Tổng quan về thị trường chứng khoán:
1.1 Khái niệm:
Thị trường chứng khoán (TTCK) trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại,
được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán
trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi
người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở
những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được
phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao
đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể
nắm giữ chứng khoán.
1.2 Chức năng cơ bản của TTCK:
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm
sau: tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng
khoán.
a) Tổ chức phát hành
Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK.
Tổ chức phát hành là tổ chức cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của
TTCK.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.


- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng phục vụ cho hoạt động của họ.
b) Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK.
Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư
có tổ chức.
c) Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
d) Các tổ chức có liên quan đến TTCK
- Cơ quan quản lý Nhà nước
- Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
1.4. Cấu trúc và phân loại cơ bản của TTCK
TTCK là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ
phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây
là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
a) Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang tổ chức phát
hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
- Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã
phát hành.

b) Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
TTCK được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và
phi tập trung (thị trường OTC).
c) Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
TTCK cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị
trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
- Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu,
bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
- Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã
được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu
đô thị và trái phiếu chính phủ.
- Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và
mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng
quyền, hợp đồng quyền chọn
1.5. Vài nét về một số thị trường chứng khoán trên thế giới:
Vào ngày 17/5/1792 tại Wall Street, 24 nhà môi giới (broker) và thương gia
(merchant) đã chính thức ký thỏa thuận Buttonwood thành lập thị trường
chứng khoán New York (NYSE). Tại phiên họp các thương gia quyết định
sẽ gặp nhau hàng ngày tại Wall Street để giao dịch cổ phiếu và trái phiếu. Và
cho đến bây giờ, chỉ số NYSE vẫn là một trong những chỉ số quan trọng để
đánh giá ttck toàn cầu.
Ngày nay, NYSE, AMEX, NASDAQ và hàng trăm các TTCK khác đã góp
phần quan trọng đáng kể vào nền kinh tế quốc gia và toàn cầu.
Biểu đồ các chỉ số S&P 500 , Dow jones, Nasdaq 1996-2009
II. Các giai đoạn phát triển của TTCK Việt Nam
Thị trường Chứng khoán Việt Nam ra đời từ khi nào?
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị
định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch

Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực
ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày
28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính
thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-
2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào
đời vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết
và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân
chơi” cho các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Chỉ số VN – Index:ϖ
VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây
dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với
hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một
cách tổng quát
Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường
cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào
hoạt động.
Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các
trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi
về vốn niêm yết.
Công thức tính chỉ số VN - Index:
Chỉ số VN -Index = (Giá trị thị trường hiện hành / Giá trị thị trường cơ sở) x
100
Trong đó:
Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i
Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i

2.1. Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn chập chững biết đi của TTCK
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc
đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở
thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE
và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được
niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn
sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu
năm nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ
phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04
điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng
10/2001. Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo
chạy khỏi thị trường với lời nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà
đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được
lợi nhuận. thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm,
mức thấp nhất xuống đến130 điểm. Lý do chính là ít hàng hoá, các doanh
nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không hấp dẫn nhà đầu tư trong
nước, trong khi "room" cũng hết.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN)
chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005
khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ
lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị
trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận
hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Ta có thể nhận định rõ được điều đó thông qua bảng số liệu sau:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số CT NY/ĐKGD 5 5 20 22 26 32

Mức vốn hoá TTCP (% GDP) 0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21
Số lượng CTCK 3 8 9 11 13 14
Số tài khoản KH 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005,
tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm
0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện có 4.500 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần
35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu
hút 28.300 tài khoản giao dịch .Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị
trường chứng khoán gấp đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ
đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt gần 1%.
2.2. Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn
mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí
Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường
chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2
thế giới, chỉ sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này
đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
.
Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam
non trẻ này đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có
lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
Năm 2006 , TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại
sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao
dịch Hà Nội (Hastc) tăng 152,4%
Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so
đầu năm
Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP)

giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ
USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường.
hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ
phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị trường phi
tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao
dịch trên Hastc.
Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193
công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần
so với 6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500
điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở
nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả
những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng
“nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật
Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng
12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) Đặc biệt, số lượng các nhà
đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12-
2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó
gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với
HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm,
chỉ số VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới
170%. Đây là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận
là quá ấn tượng. Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán TP.HCM đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367
trái phiếu với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng.
Còn tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán
tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao
dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Xét riêng về mức vốn hoá cổ
phiếu, toàn bộ thị trường chứng khoán chính thức Việt Nam với 193 cổ

phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương đương với
13,8 tỷ USD.
Quy mô niêm yết cổ phiếu đến hết 31/12/2006
Số loại
cổ phiếu Tổng khối lượng niêm yết Tổng mệnh giá niêm yết Vốn hoá thị
trường
(VND) (USD) (VND) (USD)
193 12.667.321.104
cổ phiếu 126.673,2 tỷ 7.917 triệu 221.156 tỷ 13.822,2 triệu
Tỷ trọng ~ 13% GDP ~ 22,7% GDP
(Nguồn: TTGDCK Tp. HCM và TTGDCK Hà Nội)
2.3. Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính
quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng
cường.
VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm
HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên
giao dịch có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ
giao động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02
điểm, Hastc-Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động
VNIndex đạt được mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so
với mức điểm thiết lập vào cuối năm 2006.
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên
giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương
đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2
lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi
phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương
với 980 tỷ đồng.

TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối
lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương
với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần
về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao
dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ
đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
a. Các giai đoạn phát triển của thị trường
Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trường, bên cạnh những thành công,
TTCK qua một năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những giai đoạn
thăng trầm nhất định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt thất
thường: giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường bắt
đầu hạ nhiệt và điều chỉnh mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt
phục hồi trước khi đi vào thoái trào trong 4 tháng cuối năm .
• Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007:
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn
giao dịch đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm
sau 7 năm hoạt động và Hastc – Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2
năm hoạt động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng
với tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị
trường trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá
trị vốn hóa 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm
đã chiếm tỷ trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị vốn
hóa của thị trường không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng
mà do yếu tố giá cổ phiếu tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng
loạt các cổ phiếu từ Blue – chip, Penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết
trên sàn… tất cả đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá
giao dịch đầu năm, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng trên
100% như: STB (113,57%), REE (122,66%), ACB (197%),…. Rất nhiều mã

CP thiết lập mức giá đỉnh kể từ khi lên sàn trong giai đoạn này như: SJS
(728.000 đ/CP), FPT (665.000 đ/CP), DHG (394.000đ/CP), REE
(285.000đ/CP), SSI (255.000đ/CP), SAM (250.000đ/CP), KDC
(246.000đ/CP), VNM (212.000đ/CP), ACB (292.000đ/CP)…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này
phải kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao
dịch trung bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn
HCM, bình quân mỗi phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN
cũng đạt con số 300 tỷ đồng.
• Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ Tháng 4/2007 đến đầu Tháng 9/2007
Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện
pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự
tăng trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có
những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn
ra trong một khoảng thời gian rất dài (từ cuối Tháng 3 đến đầu Tháng 9).
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và
HASTC, tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng.
VNIndex chỉ trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm
(24/04/2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3. Hastc – Index
trở về mốc 321,44 điểm (24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh. Thị
trường đã mất điểm quá nhanh trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch
của các cổ phiếu đã trở về gần mức giá thiết lập vào đầu năm.
Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối
Tháng 5/2007 khi VNIndex quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007).
Nhưng do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường
trước đó như Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,…., thị trường nhanh
chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai
đoạn đầu Tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VNIndex
(6/8/2007) và 247,37 điểm của Hastc - Index (23/08/2007).

Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu Tháng 8), sàn HCM có
những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày
30/07/2007 chỉ có 3.296.340CP được giao dịch), sàn HN cũng chỉ có vẻn
vẹn 600.000 CP được chuyển nhượng thành công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh
603.100 CP).
Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của
khối này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình
quân của khối NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên,
giảm tới 52% so với giai đoạn đầu năm.
• Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian
đầu tháng 9 đến cuối Tháng 10/2007.
Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các
mã cổ phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong
6 tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa
các cổ phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này,
VNIndex đã có những phiên giao dịch vượt lên trên ngưỡng 1.100 điểm
(1.106,6 điểm vào ngày 3/10/2007), Hastc – Index cũng gần chạm trở lại
ngưỡng 400 điểm (393,59 điểm ngày 01/10/2007).
Đà tăng giá của các cổ phiếu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét nhất ở nhóm
các cổ phiếu blue – chip như DHG, FPT, VIC… tại HOSE và nhóm cổ phiếu
Sông Đà: S99, SDA, S91…. tại HASTC. Lượng giao dịch bình quân phiên
tại HOSE luôn ở trên mức 10 triệu CP (phiên giao dịch kỷ lục đạt
19.047.000 CP vào ngày 01/10/2008), sàn HASTC cũng đạt lượng giao dịch
bằng 1/2 sàn HOSE với trung bình phiên có 5 triệu CP được chuyển nhượng.
Tuy nhiên, Thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh giảm
vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có
các đợt phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy
nhiên sự phục hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy
giảm chỉ sau 1 phiên tăng điểm. Chính điều này đã dẫn tới việc các nhà đầu

tư bị đọng vốn,. Trong khi nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì nguồn cung
vẫn tiếp tục gia tăng. Tương quan cung cầu mất cân bằng khiến thị trường
ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch.
VNIndex giảm xuống dưỡi ngưỡng điểm 1.000 và chỉ xoay quanh mốc 900
điểm, với lượng chứng khoán chuyển nhượng rất hạn chế.
2.4. Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK
Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường:
Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi
xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại,
sự can thiệp của các c ơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các
NĐT.Tính từ đầu năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai
đoạn chính.
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc
Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn,
kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH,
chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp phát
hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường
CK có nguy cơ thừa "hàng".
• Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động
từ tác động của kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và
trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới
trong nửa đầu năm 2008.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đ ầu tư trong giai đoạn này chủ
yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát,
chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức
ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều
hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:

(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn
hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng
tác động tới tâm lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn
này, có tới 71 phiên VNIndex giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-
Index giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu tháng 06/2008. Sau 103
phiên giao dịch,VNIndex giảm mất
550,52 điểm- tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi phiên, toàn thị
trường có 8,02 triệu CP&CCQ được chuyển nhượng, tương đương khoảng
482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là
nhóm cổ phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là
các doanh nghiệp BĐS).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can
thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008.
Tổng cộng trong năm 2008, UBCKNN đ ã có 04 lần thay đổi biên độ dao
động giá trên cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị
tr ường, ngăn đà suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày
04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường:
Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường,kêu gọi và tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ
Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã
đưa đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng băt đầu gia
tăng với mức trung bình 2,07%/tháng trong 02 cuối năm 2007. Tiếp nối xu
thế này, trong quý I/ 2008, chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân
3,06%/tháng và đạt đỉnh vào tháng 05/200822 với mức tăng 3,91%.
Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm, lương thực

được coi là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 06, giá
lương thực đã tăng 57,22% so v ới tháng 12/2007.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến
động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị tr ường hàng hóa và thị
trường tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động mạnh.
Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm
soát của Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi
suất từ NHNN và NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động
sức ép từ lạm phát, l ãi suất từ các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao
động từ 16 - 18% đối với huy động tiền gửi và 20-21% đối với các khoản
vay. Đặc biệt các sản phẩm huy động vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất cao là
tiêu điểm của hệ thống NH trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về thanh
khoản và sự xáo trộnvề dòng chảy của tiền gửi huy động là nỗi lo của các
NHTM trong giai đoạn này. Thâm hụt thương mại cao nhất vào trong năm
tháng đầu năm với mức trung bình là khoảng 2,6 tỷ USD/tháng.
Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008
với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm h ụt thương mại. Các chính sách
chủ yếu được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ
bản và thắt chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
• Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…
và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác n ước ngoài, cả hai sàn chứng
khoán đã có được những phi ên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này.
VNIndex và Hastc-Index liên ti ếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan
trọng và thường xuyên có đư ợc những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là
giai đoạn thị trư ờng hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối
lượng giao dịch v à giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng
được 168,55 điểm, tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân
đạt 16,9 triệu CP&CCQ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu

dầu khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu v à công nghệ (tăng 89,78%). Các
đại diện tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu n ày bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG,
FPT…
• Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm
do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy
thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này,
VNIndex m ất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch
trung bình đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan
tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế
giảm điểm của TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HoSE và
HaSTC liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên
VNIndex mất điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm
vào ngày 10/12/2008.
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN,
xen lẫn giữa những phiên giảm điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên
phục hồi mạnh. Tuy nhiên, các “con sóng” trên thị trường thường rất ngắn
và không ổn định. Kết thúc giai đoạn n ày, VNIndex giảm mất 239,52 điểm,
tương đương 43,15%.
Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành
nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ. Nguyên nhân của sự
suy giảm trong giai đoạn này được nhận định một phần do sự tác động của
xu thế chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc tăng khá chóng
mặt của các các cổ phiếu n ày trong giai đoạn trước đó. Một trong những đề
tài nóng hổi và được báo giới chú ý trong những
tháng cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng tiền mặt, với tỷ lệ khá
cao của các công ty niêm yết.
Nguồn vốn FII vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy nhiên,
kể từ cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói

chung, TTCK Việt Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những
dấu hiệu về khả năng nhà đ ầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường
chứng khoán cũng bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua việc bán ròng của khối
ngoại trong những tháng cuối năm.Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế
nhưng lại có sự lo ngại về giảm phát do chỉ số CPI tăng trưởng âm trong
những thángcuốinăm.
Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23% trong tháng 10 và tăng lên thành
0,81% trong tháng 12 (so từng tháng). Tính cả năm 2008 , tỷ lệ lạm phát là
19,89% (so với tháng 12/2007) v à xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007)
Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực
hiện thông qua việc điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kíchcầu sản xuất
tiêu dùng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ
dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại.
2.5. Quý 1 năm 2009:
TTCK Việt Nam là thị trường tăng trưởng tệ nhất châu Á tính từ đầu năm
2009 đến nay. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm tới 30%. Tuy nhiên
một số công ty vẫn có kết quả kinh doanh tốt và giá cổ phiếu của những
công ty này hiện vẫn ở trong mức rất hấp dẫn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009.
Chỉ số Vn-Index từ đầu năm đến nay hạ 22%, mức hạ tệ nhất so với các thị
trường châu Á khác. Giá trị giao dịch cổ phiếu trung bình trong ngày tháng
2/2009 tại Sàn giao dịch chứng khoán TPHCM và Sở giao dịch chứng khoán
Hà Nội chỉ là 13 triệu USD. Tổng giá trị vốn hoá thị trường rơi xuống mức
khoảng 10 tỷ USD, không một cổ phiếu niêm yết nào có giá trị vốn hoá thị
trường lớn hơn 1 tỷ USD và chỉ có 4 cổ phiếu có giá trị vốn hoá hơn 500
triệu USD.
Nhà đầu tư nước ngoài đã giảm bán, sau khi bán ra số cổ phiếu với tổng giá
trị 127 triệu USD trong khoảng thời gian từ tháng 9/2008 đến hết tháng
12/2008, nhà đầu tư nước ngoài chỉ bán ra lượng cổ phiếu có giá trị khoảng
2 triệu USD từ đầu năm đến nay. Nguyên nhân chính cho điều này là phần

lớn tiền đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, nếu không tính đến những quỹ
đóng, đã rút hết khỏi thị trường Việt Nam (Quỹ đầu tư chứng khoán PXP
Vietnam Emerging Equity Fund mới đây cho phép nhà đầu tư rút cổ phiếu ra
và sau đó họ có thể bán số cổ phiếu này).
Chưa hết thông tin về lợi nhuận các công ty không mấy tích cực. Tăng
trưởng doanh số khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận
hoạt động chỉ tăng 8%. Thua lỗ ở các khoản đầu tư địa ốc và chứng khoán
đẩy lợi nhuận ròng giảm 25%. Trong số 329 công ty niêm yết, 23 công ty
thua lỗ, trong đó có cả một số công ty trước đây từng được nhà đầu tư nước
ngoài hết sức ưa chuộng như Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE), Công ty
cổ phần Gemadept (GMD) và Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông
(SAM).
Tuy nhiên cũng có một số công ty công bố lợi nhuận ấn tượng, đây là những
công ty có hoạt động kinh doanh đi theo hướng thế mạnh và không đầu tư
vào thị trường bất động sản và ngân hàng.Một số nhà đầu tư mạo hiểm có
thể tiếp tục tham gia vào thị trường với mục tiêu dài hạn, họ có thể mua một
số cổ phiếu của các công ty tốt. Tuy nhiên theo đánh giá của HSBC thị
trường chứng khoán Việt Nam năm nay sẽ vẫn khó khăn.
Suốt 2 tháng đầu năm 2009, thị trường chứng khoán luôn trong tình trạng
ảm đạm, èo uột. Cảnh vắng lặng tại sàn giao dịch cho thấy thị trường chứng
khoán đã không còn sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong thời điểm này. Bởi
trong suốt năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục chuỗi ngày suy giảm với mức
độ ngày càng trầm trọng hơn. Nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường, các
ngân hàng bán cổ phiếu giải chấp… tất cả những yếu tố này đã làm thị
trường giảm sâu. Tính chung cho cả tháng 2/2009 VN Index đã mất 57,47
điểm (18,95%) so với phiên cuối tháng 1.
Bất ngờ, sáng (11/3) thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam trở nên
rất sôi động, mở đầu cho một loạt các phiên tăng điểm của thị trường chứng
khoán. Các
nhà đầu tư đã chứng kiến một tháng 3 tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng

11/2008. VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch
cũng tăng mạnh trong hai tuần cuối tháng, mức tăng kỷ lục trong nửa năm
qua.
Kết thúc tháng 3, VN-Index đã tăng lên 280,67 điểm, tăng 14%. Chỉ số
HASTC tăng 17% lên 98,37.
2.6. Giai đoạn giữa 2009 đến nay
Từ giữa năm 2009 kinh tê Việt Nam dần hồi phục trở lại và tăng trưởng
mạnh vào cuối 2009 và đầu 2010
Thị trường được sức sống của nền kinh tế ủng hộ nên tăng mạnh trở lại.
Cuối 2010 đến nay tình hình TTCK Việt Nam có nhiều biến động mạnh mẽ,
bên cạnh tình hình tế ngày một lạm phát cao, thì TTCK Việt Nam còn bị bóp
méo nhất là VN-INDEX bỏi sự bất cân xứng thông tin trên thị trường. Sự
làm giá của các nhóm nhà đầu tư lớn. Mặc dù có điểm số tăng nhưng chủ
yếu chỉ tăng các mã có vốn hóa lớn-Bluechip, còn hầu hết toàn thị trường
đều bị giảm điểm.
III Thực trạng TTCK Việt Nam giai đoạn hiện nay
3. 1 Cơ cấu ngành
Hiên nay, cơ cấu theo ngày trên TTCK cũng thể hiện rõ:
Tỷ trọng của Bất động sản và Ngân hàng vẫn là chủ lực. Điều này cần phải
xem xét: vì đối với mỗi quốc gia sản xuất –kinh doanh mới làm kinh tế ổn
định và bền vững.
3.2 Thực trạng

×