Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Dịch vụ ngân hàng quốc tế – giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.09 KB, 103 trang )


68


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
-----------------------









KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài
:

DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ – GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
VÀ PHÁT TRIỂN TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM








Sinh viên : Hà Duy Tiến
Lớp : A2-CN9
Giáo viên hướng dẫn : Phan Anh Tuấn







Hà Nội năm 2003



69





Lời mở đầu

Trong thời đại toàn cầu hoá hoạt động kinh tế như hiện nay, yêu cầu
cấp bách được đặt ra là mọi lĩnh vực, ngành nghề kinh tế phải được cải tổ cho
phù hợp với đời sống kinh tế mới. Trong nền kinh tế phát triển, hoạt động và
dịch vụ ngân hàng thương mại đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh
tế và đời sống con người. Ngược lại, mộ

t nền kinh tế muốn phát triển thì phải
có một hệ thống ngân hàng mạnh. Chính vì vậy, ưu tiên hàng đầu là nghiên
cứu và phát triển các dịch vụ ngân hàng.
Trong những năm gần đây, các nền kinh tế trên thế giới thường phải
đối mặt với nhiều biến động trên thị trường tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế
nghiêm trọng. Các nhà kinh tế cũng như các nhà quản lý trên thế giới trên thế
giới đặc biệ
t quan tâm, nghiên cứu đến lĩnh vực tài chính nói chung và hệ
thống ngân hàng nói riêng.Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi
nền kinh tế tiến tới công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Đảng và nhà nước ta luôn
có chủ trương huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn
vốn ngoài nước là rất quan trọng, nguồn vố
n hỗ trơ phát triển ODA cần được
sự quan tâm đặc biệt. Đảng và nhà nước cũng chủ trương phát triển kinh tế
hướng vào xuất khẩu. Tất cả cho thấy mối quan hệ kinh tế với nước ngoài là
đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh ở nước ta. Mà mối quan hệ này
muốn tồn tại và phát triển thì phải nhờ vào các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Do
vậy việc nghiên cứu về d
ịch vụ ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng quốc
doanh ở Việt nam là rất cần thiết.
Khoá luận tốt nghiệp này tập trung vào hệ thống hoá vấn đề lý luận,
làm rõ bản chất vai trò và lợi ích của dịch vụ ngân hàng quốc tế. Từ lý luận
dẫn đến đánh giá khách quan hoạt động ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng
thương mại quốc doanh Việt nam. Khoá luận này không tập trung vào việc
mô tả qui trình nghiệp vụ
, mà chủ yếu phân tích dữ liệu nhằm mục đích giải

70
thích được vấn đề: Tại sao một số dịch vụ có tồn tại nhưng chưa phát triển,

một số khác có phát triển nhưng chưa đạt được trình độ quốc tế, từ đó đưa ra
những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động ngân hàng
quốc tế ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam.





Do hạn chế v
ề khả năng và giới hạn của một khoá luận tốt nghiệp nên
không thể nghiên cứu một cách tỉ mỉ tất cả các khía cạnh khác nhau của dịch
vụ ngân hàng quốc tế mà chỉ tập trung nghiên cứu những dịch vụ ngân hàng
quốc tế chủ yếu ở các ngân hàng thương mại quốc doanh qua nhưng năm gần
đây.



Đề tài:
Dịch vụ ngân hàng quốc tế – gi
ải pháp hoàn thiện và phát triển
trong hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam

Bố cục của khoá luận ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có ba chương
Chương I: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ ngân hàng quốc tế
Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương
mại quốc doanh Việt nam
Chương III: Những giải pháp hoàn thiện và phát tri
ển dịch vụ ngân hàng quốc
tế của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam.



71




CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

I . TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
1. Đôi nét về lịch sử ngân hàng và dịch vụ ngân hàng
Thuật ngữ "ngân hàng" đã có từ lâu. Tại thành Athène (Hylạp), các
nhà đổi tiền được gọi Trapezita - bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "Trapeza"có
nghĩa là cái bàn. Hoạt động mua bán, trao đổi, vay tiền được tiến hành trên
các ghế dài gọi là Banca. Đây cũng là nguồn gốc tạo các từ Banque (Pháp),
Bank (Anh, Mỹ, Đức), Banco (Italia)…. có nghĩa là ngân hàng sau này.
Ngân hàng liên tục phát triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệ
p
vụ ngân hàng đơn giản đã xuất hiện từ thời thượng cổ. Dưới thời Trung cổ,
các hoạt động ngân hàng được mở rộng tại khắp các nước Châu Âu, Trung
đông, Trung Hoa. Tuy hoạt động ngân hàng xuất hiện từ lâu, nhưng mãi đến
đầu thế kỷ XV (1401), mới có một cơ quan trên thế giới được xem là một
ngân hàng thực sự, đó là Banca di Barcelone ở Tây ban nha. Và sau đó ít năm,
ngân hàng Banca di Valencia cũng đựơc thành lậ
p ở Tây ban nha. Hai ngân
hàng này được coi là hai ngân hàng đầu tiên trên thế giới đã thực hiện phần
lớn các nghiệp vụ của ngân hàng hiện nay tuy qui mô và mức độ có khác
nhau. Trước thế kỷ 17 hoạt động ngân hàng chỉ là buôn tiền, cho vay nặng lãi
là chủ yếu và khách hàng chính là vua chúa và tầng lớp quí tộc giàu sang.

Năm 1557 vua chúa các nước Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nhất loạt
tuyên bố không trả nợ làm cho hàng loạt ngân hàng phá sản
Do không chịu mức lãi suất cao quá mức, các nhà tư bản nông, công,
thương nghiệp hùn vốn với nhau lập ra các ngân hàng, hội tín dụng để cho
vay vốn với mức lãi suất có thể chấp nhận được. Loại ngân hàng này xuất
hiện ở Vienise (Italia) năm 1589, Milan (Italia) năm 1593, Asmterdam (Hà

72
lan) năm 1600. Cuối thế kỷ 17 xuất hiện ngân hàng lớn nhất thế giới, ngân
hàng Anh ở Luân đôn. Ngân hàng Anh là một công ty cổ phần lớn kinh doanh
tín dụng tư bản với mức lãi suất thấp 6% năm và điều này buộc các ngân hàng
cho vay nặng lãi phải hạ lãi suất theo và kinh doanh giống các ngân hàng tư
bản. Trong suốt thế kỷ 18, các ngân hàng tư bản khác ở châu Âu lục địa, Bắc
Mỹ lần lượt ra đờ
i. Từ giữa thế kỷ 19 trở đi, các nước đế quốc mới thành lập
các ngân hàng trên các nước phong kiến, thuộc địa, nửa thuộc địa như ngân
hàng Đông Dương của Pháp thành lập năm 1875 tại Sài gòn (Việt nam).
Trong thời đại hiện nay, việc kinh doanh tiền tệ không còn là độc quyền của
các ngân hàng. Cùng với ngân hàng, các tổ chức tài chính khác như công ty
bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ tín dụng, hội tín dụng cho vay. Tuy nhiên khi
nghiên c
ứu lịch sử dịch vụ ngân hàng cho thấy rằng có dịch vụ ngân hàng vẫn
là của riêng ngân hàng.
Dịch vụ Ngân hàng Quốc tế đã trải qua các giai đoạn phát triển sau:
Giai đoạn sơ khai, ngân hàng nhận bảo quản, giữ hộ tiền, gửi tiền và
cho vay tiền và hoạt động này diễn ra trên chiếc bàn dài (tiếng Lating là
Bancus). Hoạt động này là nghiệp vụ ngân hàng đầu tiên, tồn tại lâu đời nhất.
Theo thờ
i gian, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội các nghiệp vụ ngân
hàng ngày càng đa dạng, phát triển không ngừng.

Giai đoạn phát triển thứ hai Trong vòng năm thế kỷ - từ thế kỷ thứ V
đến thế kỷ thứ X, nhiều hoạt động mới được áp dụng và đạt được những bước
tiến mới về nghiệp vụ ngân hàng như:
♦ Ngân hàng bắt đầu ghi chép và theo dõi hoạt động c
ủa thân chủ qua
số hiệu tài khoản.
♦ Ngân hàng áp dụng phương pháp bù trừ. Những chủ nợ của cùng
một loại tiền hay tài sản thì được thanh toán chuyển nhượng lẫn nhau trong
mua bán giữa họ ở cùng một ngân hàng và kể cả đối tác ở ngân hàng khác, và
nợ đáo hạn được bù trừ.

73
♦ Nghiệp vụ chuyển ngân, tức là chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác
cũng được áp dụng.
♦ Ngân hàng cũng làm nghiệp vụ bảo lãnh, là biểu hiện ban đầu của
hình thức chấp nhận các thương phiếu trong nghiệp vụ ngân hàng hiện đại
♦ Ngân hàng đã áp dụng chiết khấu thương phiếu.
Giai đoạn thứ ba: Ngân hàng đánh dấu sự phát triển vào giai đoạn th

ba với việc mạnh dạn cho vay tiền, tạo ra các khoản tiền mới trong lưu thông.
Ngân hàng từ lâu đã phát hành các chứng thư (như séc ngày nay) khi có người
gửi vào ngân hàng bằng tiền vàng hoặc tiền đúc - 100 tiền ngân hàng thay cho
100 tiền vàng đúc. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XVII khi chứng thư được chấp
nhận rộng rãi và nhu cầu tăng đột ngột, một số ngân hàng đã phát hành các
chứng thư tự do (không có tiền vàng bảo đả
m) và tiền ngân hàng ra đời. Tuy
nhiên tiền ngân hàng (Bank notes) chỉ được lưu hành rộng rãi từ đầu thế kỷ
XX sau khi nhà nước độc quyền phát hành giấy bạc pháp định. Ngày nay do
sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là khoa học công nghệ, dịch vụ ngân hàng đã
phát triển về mọi mặt và ra đời những loại sử dụng công nghệ cao như thanh

toán bằng thẻ điện tử, ứng dụng mạng SWIFT…..
Do s
ự đa dạng của dịch vụ ngân hàng nên không thể có định nghĩa cụ
thể, thống nhất về dịch vụ ngân hàng. Hiểu nôm na dịch vụ ngân hàng nói
chung là tất cả những việc mà ngân hàng thường làm trong khuôn khổ nghề
nghiệp của họ.
2. Lịch sử phát triển của dịch vụ ngân hàng quốc tế
Trong lịch sử phát triển lâu dài của hoạt động ngân hàng như nêu ở
phần trên, có xuất hi
ện mầm mống hoạt động ngân hàng quốc tế tại các nước
ở châu Âu vào thế kỷ 13. Vào thế kỷ 19, các nước thực dân đã mở rộng vùng
thuộc địa của mình, tìm kiếm thị trường ngoài lãnh thổ của mình. Các ngân
hàng thương mại của Anh và Pháp đã thiết lập nhiều chi nhánh ở nước ngoài.
Mạng lưới chi nhánh của họ bao trùm trên lãnh thổ châu Âu và các vùng lãnh

74
thổ thuộc địa. Ngân hàng Đông Phương của Anh thành lập tại Trung Quốc,
ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập ở Việt Nam.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các nước châu Âu rất cần tiền để tái
thiết nền kinh tế bị huỷ hoại nặng nề bởi chiến tranh và Mỹ là nhà tài trợ
chính. Ngoài ra sự tăng trưởng chưa từng có về đầu tư và thương mại qu
ốc tế
trên thế giới sau chiến tranh thế giới thứ II đã dẫn đến sự phát triển không
ngừng các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại. Với
các hiệp định “Land Bank”, “Marshall”, các ngân hàng Hoa kỳ đã cho nước
ngoài vay hàng chục tỷ USD. Rất nhiều ngân hàng thương mại Hoa kỳ, trong
thập niên 60, tăng lên nhanh chóng về quy mô đã đưa đến chủ trương mở rộng
nghiệp vụ ngân hàng ra nước ngoài (c
ả các nước công nghiệp phát triển và
các nước đang phát triển), đó là phản ứng tự nhiên của việc phát triển nghiệp

vụ ngân hàng trong nước và đáp nhu cầu tham gia vào thị trường tài chính
quốc tế và những đổi mới trong lĩnh vực này đã tạo ra rất nhiều nghiệp vụ
ngân hàng mới. Lịch sử phát triển ngân hàng gọi đây là làn sóng phát triển
dịch vụ ngân hàng quốc tế thứ nhất.

 Một vài thập kỷ sau thế chiến thứ II kết thúc, bên cạnh sự phát
triển kinh tế vượt bậc của Mỹ, các quốc gia châu Âu như Anh, Pháp, Đức...
các nước tư bản khác như Canada và đặc biệt là Nhật cũng giành được những
thành tựu kinh tế quan trọng. Lẽ tất yếu khi kinh tế phát triển kéo theo việc
các ngân hàng của các quốc gia công nghiệp hoá, đặc biệt là ngân hàng các
nước Canada, Nhật bản, Đức, Anh, Pháp c
ũng theo gương của các Ngân hàng
Hoa kỳ ra sức mở rộng nghiệp vụ của mình ra nước ngoài trong thập kỷ 70.
Lịch sử ngân hàng gọi đây là làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế
thứ hai.
Bên cạnh làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng ồ ạt của các nước tư
bản, có một làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng thứ ba của các nước đang
phát triển diễn ra bình lặng vào cuối thậ
p kỷ 70.
Làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng thứ tư bắt đầu bằng sự kiện ra

75
đời đạo luật nhất thể hoá châu Âu ban hành vào năm 1986; trong đó Cộng
đồng Châu Âu xoá bỏ mọi rào chắn đối với luồng vốn quốc tế. Điều này tạo
điều kiện cho dịch vụ ngân hàng quốc tế phát triển mạnh mẽ về chất lượng và
số lượng và vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế mang tính toàn cầu hoá.

76
3. Bản chất dịch vụ ngân hàng quốc tế
3.1. Định nghĩa dịch vụ ngân hàng quốc tế

Phần trên đã cho thấy một bức tranh tổng quát về dịch vụ ngân hàng và
dịch vụ ngân hàng quốc tế nói chung, nhưng để xây dựng định nghĩa dịch vụ
ngân hàng quốc tế cần:
♦ Căn cứ phân biệt nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và nghiệp vụ ngân
hàng trong nước là lo
ại hoạt động kinh doanh mà ngân hàng cung cấp cho
khách hàng của họ có tính quốc tế hay không. Điều này được giải thích bởi ba
lý do sau
♦ Thứ nhất, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là loại hoạt động trợ giúp cho
hoạt động xuất nhập khẩu của khách hàng thông qua hoạt động tài trợ thương
mại quốc tế. Điều này có nghĩa là nghiệp vụ ngân hàng trong trường hợp này
gắn bó chặt chẽ v
ới thương mại quốc tế.
♦ Thứ hai, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là loại hoạt động đáp ứng nhu
cầu trao đổi ngoại tệ của khách hàng nhằm thực hiện các giao dịch thương
mại và đầu tư qua biên giới quốc gia.
♦ Thứ ba, vì các ngân hàng hoạt động kinh doanh quốc tế có điều kiện
thuận lợi kinh doanh ngoại tệ, họ cũng thường kinh doanh ngoại tệ cho chính
số tiền của họ.
♦ Một căn cứ nữa để phân biệt nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và
nghiệp vụ ngân hàng trong nước của ngân hàng thương mại là nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia; còn nghiệp vụ ngân hàng
trong nước chỉ diễn ra trong nội bộ quốc gia và đối tượng khách hàng là
pháp nhân, thể nhân của quốc gia đó.
Như vậy ta có thể
đưa ra định nghĩa dịch vụ ngân ngân hàng quốc tế:
Dịch vụ ngân hàng quốc tế là các giao dịch ngân hàng liên quan tới
một hoặc nhiều bên đối tác ở ngoài biên giới nước có trụ sở chính của
ngân hàng cung cấp dịch vụ


77
Trên phương diện phân loại nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là một dạng
hoạt động kinh doanh quốc tế thì nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của ngân
hàng thương mại có thể được coi là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình hoạt động đầu tư và cung ứng dịch vụ tiền tệ và
tài chính quốc tế trên thị trườ
ng trong nước và quốc tế nhằm mục đích sinh
lời.
Việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, các ngân hàng
thương mại tổ chức bằng hai phương thức sau:
 Tiến hành các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại nước ngoài bằng
cách thiết lập các chi nhánh, công ty con, văn phòng đại diện. v.v ở nước
ngoài.
 Tổ chức một bộ phận kinh doanh quốc tế được chuyên môn hoá
tại trụ sở chính để thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế.
3.2. Đặc điểm nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
Mặc dù ngày nay dịch vụ ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương mại
phát triển đa dạng về hình thức cũng như nội dung, tuy nhiên sau khi nghiên
cứu về học thuật cũng như quá trình vận động phát triển của nó, chúng ta rút
ra những đặc điểm chung như
sau:
 Xu thế gia tăng nhanh hơn mức tăng tiềm lực sản xuất: Như đã
trình bày trong phần lịch sử phát triển, ngày nay xu thế quốc tế hoá hoạt động
ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ. Trong lĩnh vực kinh doanh và sản xuất
hàng hoá cũng diễn ra xu thế toàn cầu hoá nhưng thực tế cho thấy mức độ
thấp hơn của thị trường tài chính. Hàng ngày, lượng tiền tệ
lưu chuyển trên thị
trường tài chính thế giới cao gấp 30 lần khối lượng hàng hoá lưu chuyển trên
phạm vi toàn cầu. Đối với các nước đang phát triển, chỉ trong 8 năm (1990-
1997), dòng vốn đầu tư tư nhân đổ vào tăng hơn 5 lần. Trong khi mậu dịch

quốc tế của giai đoạn này chỉ tăng 5%/năm thì dòng vốn tư nhân lưu chuyển
tăng 30%/ năm.

78
 Dịch vụ ngân hàng quốc tế đề cao nhân tố con người: Đặc điểm
này do đặc điểm kinh doanh quốc tế hiện nay tạo ra. Ngày nay, do sự phát
triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ và kinh tế cũng như sự phức tạp của
bối cảnh toàn cầu hoá, kinh doanh dịch vụ ngân hàng quốc tế đòi hỏi các nhà
hoạt động ngân hàng phải:
- Hiểu bi
ết sâu sắc về hoạt động kinh doanh, cả kinh doanh trong nước
lẫn khinh doanh đối ngoại, có kiến thức rộng và thường xuyên cập nhật về thị
trường trong nước và quốc tế, ngoài ra phải có kiến thức sâu rộng về tài chính
quốc tế.
- Hiểu biết và áp dụng thành thạo các ứng dụng của khoa học công
nghệ. Ngày nay, hầu hết các ngân hàng kinh doanh quốc tế đều sử dụng mạng
toàn cầ
u Swift, mạng giao dịch kinh doanh toàn cầu Reuter, và ứng dụng công
nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh. Do vậy việc sử dụng thành thạo
các tiện ích ngân hàng, máy tính và công nghệ thông tin là bắt buộc
- Phải hiểu biết thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, tiếng Anh là bắt
buộc. Do là kinh doanh quốc tế nếu không thông thạo ngoại ngữ thì không
làm việc được
- Do bối cảnh hoạt động kinh doanh đòi hỏi rất nhiều về trình độ c
ủa
nguồn nhân lực, nên việc tập trung vào phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân
lực là điều tất yếu
 Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có tính rủi ro cao: Do sự phức tạp
của kinh doanh quốc tế nên thường xảy ra việc tăng, giảm đột ngột về ngoại
tệ, lãi suất, trục trặc trong thanh toán quốc tế, biến động chính trị….Vì vậy

nghiệp v
ụ ngân hàng quốc tế có mức độ rủi ro cao hơn nghiệp vụ ngân hàng
ở trong nước. Tuy nhiên, rủi ro càng cao lợi nhuận càng lớn nên các ngân
hàng vẫn phát triển hoạt động kinh doanh quốc tế để có cơ hội và tiềm năng
phát triển lâu dài.
 Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế chịu ảnh hưởng nhiều bởi luật
pháp quốc tế và thông lệ quốc tế: Đặc điểm này do tính quốc tế
của dịch vụ

79
ngân hàng quốc tế quyết định. Do sự phức tạp trong môi trường hoạt động
kinh doanh quốc tế, do sự không thống nhất về luật pháp giữa các quốc gia,
do trình độ phát triển không đồng đều mà đòi hỏi phải có luật pháp quốc tế,
thông lệ quốc tế tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho các ngân hàng thực
hiện dịch vụ ngân hàng quốc tế.
3.3 Động cơ tiế
n hành dịch vụ ngân hàng quốc tế
 Động cơ dễ hiểu nhất là mong muốn theo đuổi các khách hàng
khi các khách hàng của họ thực hiện hoạt động ra nước ngoài. Đây là một
nguyên lý Marketing truyền thống “theo chân khách hàng”. Các công ty của
Mỹ những năm 60, 70 của Nhật và châu Âu trong thập niên 70 hăng hái mở
rộng hoạt động ra nước ngoài thì các ngân hàng của họ cũng theo sau. Động
cơ này có phần mang tính phòng vệ, bởi vì các ngân hàng muốn duy trì và
củng c
ố các mối quan hệ với các khách hàng và muốn chứng tỏ một điều là họ
có kiến thức và chất lượng phục vụ cao hơn các ngân hàng địa phương.
 Động cơ khác thúc đẩy các ngân hàng mở rộng ra quốc tế là
nhằm đa dạng hoá cơ sở kinh doanh của họ. Các ngân hàng đầu tư vào các
khoản cho vay có đặc tính khác với các khoản vay nội địa. Loại nhu cầu về
các khoản vay nước ngoài có thể

bù đắp các biến động về nhu cầu khoản vay
nội địa vì vậy có tác dụng làm bình ổn thu nhập của ngân hàng. Hơn thế nữa
nhờ đa dạng hoá kinh doanh mà làm thu nhập ngân hàng tăng, khả năng cạnh
tranh mạnh, phân tán được rủi ro, thiết lập nhiều quan hệ kinh doanh tạo tiền
đề thực hiện đầu tư kinh doanh sau này.
4. Các hình thức tổ chức nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và vai trò của các
trung tâm tài chính quốc tế

4.1. Các hình thức tổ chức nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
Như chúng ta đã biết, nét đặc trưng để phân biệt dịch vụ ngân hàng
quốc tế với dịch vụ ngân hàng trong nước đó là tính quốc tế. Xét về mặt
không gian thì khoảng cách địa lý giữa các đối tác là lớn, vượt ngoài phạm vi

80
biên giới quốc gia. Chính vì vậy ngân hàng thương mại ngoài trụ sở chính còn
phải sử dụng nhiều hình thức khác như :
Văn phòng đại diện: là đơn vị dịch vụ nhỏ do ngân hàng mẹ thành lập
ở nước ngoài nhằm trợ giúp cho các công ty trong nước kinh doanh ở nước
ngoài, là đối tác nước ngoài của ngân hàng mẹ, trong việc quan hệ với các
ngân hàng đại lý. Các văn phòng này thường có ít nhân viên, không nhận tiền
gửi, và chủ yếu thự
c hiện các công việc chuẩn bị cơ bản cho các khoản vay
đối với người đi vay từ trụ sở chính, phát triển hoạt động kinh doanh…
Việc thiết lập văn phòng đại diện ở nước ngoài thường là bước đầu tiên
trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh ở nước ngoài.
Chi nhánh ngân vỏ bọc: là các văn phòng nước ngoài được thiết lập
nhằm tham gia vào các thị trường tiền tệ châu Âu để dành các khoản n
ợ đồng
đô la châu Âu hay thực hiện các khoản vay ngân hàng nước ngoài. Chúng
nằm chủ yếu ở những nơi có nền tài chính chủ yếu, như Bahamas, nơi chúng

hoạt động mà không phải chịu thuế; họ không quan tâm đến công việc kinh
doanh ở địa phương. Loại hình này xuất hiện nhiều ở Mỹ.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện dịch vụ trọn gói: Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện trọn gói là sự mở rộ
ng của ngân hàng
chính, hoạt động như các ngân hàng tại nước đó nhưng về mặt pháp lý chi
nhánh ngân hàng tại nước ngoài lại là một bộ phận của ngân hàng mẹ. Các
chi nhánh thực hiện kinh donh nghiệp vụ ngân hàng bán sỉ dựa chủ yếu vào
các khoản tiền gửi mua từ hệ thống ngân hàng quốc tế được biết đến như là
thị trường liên ngân hàng. Họ không thể phát triển một cơ sở tiền g
ửi địa
phương. Chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài vừa chịu sự điều chỉnh của luật
ngân hàng trong nước vừa chịu sự điều chỉnh của luật ngân hàng nước ngoài
mà nó mở chi nhánh.

một số quốc gia, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị
cấm, ở một số quốc gia khác người ta không muốn lập chi nhánh vì có rủi ro
sung công. Chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài thường được mở tại các trung
tâm tài chính và thương mại của thế giới.

81
Ngân hàng con ở nước ngoài: Ngân hàng con ở nước ngoài là một
định chế độc lập do ngân hàng mẹ sở hữu hoàn toàn hoặc gần như sở hữu
hoàn toàn để phù hợp với luật pháp của nước ngoài. Ngân hàng con ở nước
ngoài hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động kinh doanh của mình.
Ngoài ra còn hình thức Ngân hàng con ở nước ngoài nhưng ngân hàng
mẹ không kiểm soát chúng (ngân hàng m
ẹ chỉ đóng góp một phần vốn tối
thiểu, không đủ giành quyền kiểm soát). Nói chung, ngân hàng con ở nước

ngoài chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước sở tại và hầu như không chịu
ảnh hưởng của luật pháp tại nước mà ngân hàng mẹ đặt trụ sở chính.
Trong thời gian gân đây, các ngân hàng kinh doanh quốc tế có xu
hướng mua các ngân hàng con thay vì lập chi nhánh ở nước ngoài. Việc sở
hữu một ngân hàng con, trách nhi
ệm của ngân hàng mẹ chỉ giới hạn trong số
vốn đầu tư vào ngân hàng con thấp hơn giới hạn trách nhiệm của ngân hàng
mẹ đối với chi nhánh mới thành lập. Ngoài ra việc lập chi nhánh cũng rất tốn
kém cả về chi phí thành lập lẫn chi phí quản lý.
Ngân hàng liên doanh: Đây là hình thức ngân hàng góp vốn để kinh
doanh giữa một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài với một hoặc nhiều ngân
hàng địa phương hoạt
động theo khuôn khổ của pháp luật địa phương. Cũng
giống như ngân hàng con ở nước ngoài, ngân hàng liên doanh định chế độc
lập đối với ngân hàng mẹ, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh. Nhược điểm lớn nhất của ngân hàng liên doanh là sự khó khăn
trong quản lý.
Liên minh ngân hàng: Đây là hình thức liên minh tạm thời giữa các
ngân hàng. Các ngân hàng của các quốc gia khác nhau cùng nhau tham gia
hoạt động cho vay quốc t
ế. Nét đặc trưng chính của liên minh là cùng nhau
thực hiện các nghiệp vụ đặc biệt và phân chia thị trường theo vùng địa lý.
Trên thực tế, liên minh thường hoạt động tại các trung tâm tài chính và hoạt
động của họ chủ yếu diễn ra trên thị trường tài chính và tiền tệ quốc tế.

82
Các câu lạc bộ ngân hàng: Đây là một hình thức hợp tác ngân hàng
lâu dài có nguồn gốc từ việc cùng tham gia vào một liên kết nào đó. Thành
viên của câu lạc bộ là các ngân hàng của các nước khác nhau cùng nhau góp
vốn kinh doanh mà không có bất cứ một thủ tục pháp lý sáp nhập nào. Các

hình thức của câu lạc bộ ngân hàng được phát triển mạnh mẽ vào đầu thập
niên 1970.
Cơ chế ngân hàng hải ngoại (International Banking Facilities -IBF):
Vào tháng 12 năm 1981, các IBF được cục dự trữ liên bang M
ỹ uỷ quyền cấp
phép cho các ngân hàng và các tổ chức tiền gửi khác thực hiện hoạt động
ngân hàng quốc tế trong nước Mỹ trên cơ sở giống như các chi nhánh và các
ngân hàng trực thuộc nước ngoài của các ngân hàng Mỹ. Khi cấp phép cho
các IBF, ý đồ chính của Fed là nhằm thu họat động này trở lại Mỹ. IBF tạo ra
cho các ngân hàng môi trường tương đối tự do giống như môi trường các chi
nhánh và ngân hàng trực thuộc của họ đã gặ
p ở nước ngoài. Không có các quy
định dự trữ hay các hạn chế lãi suất nào đối với tiền gửi của người nước
ngoài, không phải bảo hiểm cho các khoản tiền gửi và tránh được những đánh
giá liên quan đến bảo hiểm. Phần lớn các tài sản của IBF bao gồm các khoản
cho vay đối với các doanh nghiệp, chính phủ và ngân hàng trung ương nước
ngoài với mục đích sử dụng ngoài nước Mỹ. Nguồn vốn c
ủa họ là từ các
khoản vay liên ngân hàng của các tổ chức quốc tế , các chính phủ và các cơ
quan nước ngoài
4.2. Vai trò của các trung tâm tài chính quốc tế
4.2.1. Đặc điểm và các loại hình trung tâm tài chính quốc tế
Trung tâm tài chính quốc tế là địa điểm có mật độ cao các trụ sở của
các ngân hàng hoạt động kinh doanh quốc tế, bất kể ngân hàng đó thuộc sở
hữu của quốc gia nào. Các trung tâm tài chính có 3 đặc điểm quan trọng sau :
 Tại các trung tâm tài chính quốc tế, các ngân hàng quốc tế giao
dịch với nhau bằng đồng tiền nước ngoài chứ không phải bằng đồng tiền của

83
nước chủ nhà. Bởi vậy các giao dịch tài chính ở trung tâm tài chính không

liên quan trực tiếp tới hệ thống ngân hàng nội địa.
 Các ngân hàng quốc tế hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc
tế nói chung được miễn thuế và không chịu sự quản lý ngoại hối như đối với
các thị trường tài chính nội địa.
 Hoạt động tài chính tại các trung tâm tài chính quốc tế chủ yếu
diễn ra giữa các khách hàng là ng
ười không cư trú (mặc dù không phải là độc
quyền).
Các trung tâm tài chính quốc tế chủ yếu khác nhau về chức năng
và cơ cấu. Sự khác nhau bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu là đặc trưng
của nền kinh tế cũng như môi trường pháp lý của nước sở tại. Nói chung,
chúng ta có thể nhận dạng bốn loại trung tâm tài chính quốc tế nhờ vào phân
loại nguồn vốn và sử dụng vố
n trên thị trường.
Các trung tâm tài chính chủ chốt (các trung tâm tài chính quốc tế)
Các trung tâm tài chính chủ chốt như London, New york... phục vụ các
khách hàng toàn cầu. Nhờ chiếm ưu thế về nguồn vốn cũng như sử dụng vốn
trong các nước công nghiệp hoá phát triển mà các trung tâm tài chính chủ
chốt huy động và cho vay lại trong các nước công nghiệp phát triển. Nhờ
chiếm ưu thế vai trò trung gian, các trung tâm tài chính chủ chốt được coi
như trục bánh xe tại các khu vự
c thị trường tài chính và ngân hàng, cung cấp
các dịch vụ tài chính quốc tế như kinh doanh ngoại tệ, tiếp thị tài chính quốc
tế, cho vay hợp vốn, bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh phát hành trái phiếu. Cơ sở
hạ tầng của trung tâm tài chính chủ chốt rất hiện đại. Vì lý do này mà người
ta còn gọi chúng là các trung tâm tài chính quốc tế.
Trung tâm kế toán (ví dụ như đảo Nassau và Cayman)
Các Ngân hàng quốc tế mở các chi nhánh và công ty con tại Trung tâm
kế toán và thường sử dụng trung tâm kế
toán (nhờ môi trường pháp lý và các

quy định về kế toán dễ dàng) để kế toán các khoản cho vay và tiền gửi quốc
tế. Các chi nhánh ngân hàng và công ty con này hoạt động như văn phòng lưu

84
giữ sổ sách, văn phòng kế toán cho các giao dịch tài chính được thực hiện ở
nước ngoài. Các trung tâm kế toán này chủ yếu phục vụ khách hàng quốc tế.
Trong trường hợp này, trung tâm kế toán đóng vai trò kế toán cho thị trường
tài chính quốc tế.
Trung tâm quỹ (như Singapore, Hongkong)
Trung tâm quỹ đóng vai trò như trung gian tài chính hướng nội, đóng
vai trò như kênh dẫn vốn từ bên ngoài vào trong nước hay khu vực. Ngày nay
Singapore và Hongkong đã phát triển thành trung tâm tài chính phát triển có
thể
đua tranh với các trung tâm tài chính chủ chốt như London, New York, và
Tokyo.
Trung tâm tập hợp tài chính (như Bahrain)
Trung tâm tập hợp tài chính chủ yếu liên quan đến trung gian tài chính
hướng ngoại. Các quốc gia ở khu vực gần Trung tâm tập hợp tài chính huy
động được nhiều vốn nhưng năng lực sử dụng vốn kém. Nguồn tài chính
thặng dư được tích luỹ ở trung tâm tập hợp tài chính sẽ được các tổ chức tài
chính quốc tế đầu tư vào các khu v
ực khác trên thế giới.
Trung tâm tài chính quốc tế ở các nước đang phát triển
Từ thập niên 70, nhiều trung tâm tài chính nước ngoài đã được thiết lập
ở các quốc gia đang phát triển như Singapore, Hongkong, Philippines,
Bahrain, Egyp, Panama... Trong những năm gần đây, các trung tâm tài chính
quốc tế đã được xây dựng tại các nước công nghiệp hóa mới nổi như Malaysia
và Thái Lan.
• 4.2.2. Vai trò của các trung tâm tài chính quốc tế
Trung tâm tài chính quốc tế đóng vai trò quan trọng trong hoạt động

ngân hàng và tài chính quốc tế. Sau đây là một số vai trò của trung tâm tài
chính quốc tế:
1.
Đa dạng hoá mạng lưới ngân hàng quốc tế: Hiện nay các trung tâm
tài chính quốc tế là tụ điểm các giao dịch kinh doanh của các ngân hàng quốc
tế. Trong các trung tâm này, các ngân hàng quốc tế chủ chốt hiện diện dưới

85
các hình thức khác nhau. Với các ngân hàng không có mạng lưới ở nước
ngoài thì việc chúng có mặt tại trung tâm tài chính quốc tế sẽ làm đa dạng
hoá mạng lưới ngân hàng quốc tế.
2.
Tạo ra cơ sở hạ tầng tốt: Các tổ chức ngân hàng quốc tế đã phát triển
các trung tâm tài chính quốc tế để có cơ hội thu lợi nhuận do việc chiếm lợi
thế kinh doanh trong các giao dịch quốc tế. Các trung tâm tài chính quốc tế
đòi hỏi các cơ sở hạ tầng đắt tiền và tinh vi để trợ giúp chúng như viễn thông,
hàng không, kế toán, môi trường pháp lý và những dịch vụ khác. Những chi
phí này sẽ không có hiệ
u quả nếu được đầu tư vào các thị trường của các
nước. Nhờ đóng ở vị trí trung tâm, các Trung tâm tài chính quốc tế sẽ trang
trải các chi phí thông qua các dịch vụ phục vụ khách hàng của các nước.
3.
Đóng góp cho nền kinh tế địa phương: Số lượng các tổ chức ngân
hàng và tài chính quốc tế có mặt tại trung tâm tài chính quốc tế phải ở mức
phù hợp để cung cấp hiệu quả dịch vụ cho khách hàng quốc tế. Các nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế đòi hỏi kỹ năng tài chính phức tạp và cập nhật thông tin
thị trường. Các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cần phải đổi m
ới thường xuyên
và trao đổi thông tin giữa các ngân hàng và các chuyên gia tài chính khác
nhau.

Ngoài ra, những yêu cầu của ngân hàng quốc tế hiện đại đòi hỏi các
nhóm ngân hàng thực hiện các khoản cho vay hợp vốn và các giao dịch tín
dụng. Với khối lượng tiền giao dịch lớn thì không một ngân hàng nào tự
mình thực hiện giao dịch có hiệu quả. Các giao dịch ngân hàng quốc tế đòi
hỏi mối quan hệ thân thiện giữa các ngân hàng bằng cách gắn với nhau bằng
l
ợi ích của mỗi ngân hàng và cùng hoạt động với nhau.
Ngoài việc cùng cho vay hợp vốn và chia sẻ rủi ro, cộng đồng tài chính
ngân hàng quốc tế cùng ở trên một vị trí sẽ có ích cho việc cung ứng tiền và
đầu tư. Sự tồn tại thị trường liên ngân hàng dẫn đến kênh tài chính hiệu quả.
Một số ngân hàng đầu tư nguồn tiền thặng dư của họ vào thị trường liên ngân
hàng, trong khi những ngân hàng khác sử dụng nguồ
n tiền thặng dư để tài trợ

86
hoạt động tín dụng quốc tế. Trung tâm tài chính quốc tế là môi trường thuận
lợi cho người vay và người đầu tư trong vùng gặp nhau.
4.
Tạo ra môi trường pháp lý dễ chịu: Nhà cầm quyền tại các trung tâm
tài chính đã cho phép các ngân hàng quốc tế không chịu các gánh nặng về
thuế, những đòi hỏi về tỷ lệ vốn khả dụng cũng như dự trữ bắt buộc. Các
ngân hàng quốc tế cũng được phép huy động và sử dụng nguồn vốn quốc tế
tạm thời nhàn rỗi để đầu tư mà không bị kiể
m soát về ngoại hối cũng như về
tiền tệ. Thị trường liên ngân hàng cung cấp cho họ cơ hội đầu tư nguồn vốn
thặng dư một cách dễ dàng và với rủi ro thấp nhất.
Trung tâm tài chính quốc tế không chỉ thuận lợi cho các hoạt động ngân
hàng mà còn thuận lợi cho các các hoạt động khác nhờ những ưu điểm hiển
nhiên của nó. Trung tâm tài chính là nơi đóng trụ sở
của các công ty con của

các công ty đa quốc gia. Các công ty con này có được môi trường pháp lý
thuận lợi hơn so với môi trường pháp lý tại chính trụ sở chính của công ty
mẹ.
II. MỘT SỐ NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngoài việc thành lập các tổ chức ngân hàng ở nước ngoài nhằm thực
hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, các ngân hàng hoạt động kinh doanh
quốc tế còn tổ chức tại trụ sở chính hoặc các chi nhánh trong nước các đơn vị
chuyên biệt tiến hành các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Các nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế này có thể khái quát thành 3 nhóm như sau:



Cung ứng dịch vụ ngân hàng quốc tế để thu phí



Tiến hành kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, tức là hoạt
động bỏ vốn ra thông qua nghiệp vụ ngân hàng để thu lãi



Hợp tác kinh doanh ngân hàng quốc tế.
1. Cung ứng các dịch vụ ngân hàng quốc tế để thu phí
Đặc điểm của các dịch vụ loại này là ngân hàng tham gia với vai trò
môi giới trung gian để thu phí, do đó chịu rủi ro ít nhất
1.1. Dịch vụ tài khoản Nostro và tài khoản Vostro

87
Nét đặc trưng của nghiệp vụ ngân hàng hiện đại là giữa các ngân
hàng với nhau có mối quan hệ mật thiết trong việc tiến hành các giao dịch. Để

tiền gửi ngân hàng được dùng làm phương tiện thanh toán, thì cần phải có sự
hợp tác giữa các ngân hàng trong việc thiết lập hệ thống thanh toán bù trừ và
quyết toán nhằm giảm tối đa chi phí thanh toán và tăng khả năng chấp nhận
thanh toán. Muốn vậy, ngân hàng cần phả
i duy trì mối quan hệ tài khoản với
ngân hàng đại lý.
Tài khoản Nostro (tiếng Latinh có nghĩa là tài khoản của chúng tôi) là
tài khoản tiền tệ được mở dưới tên một ngân hàng trong sổ sách các ngân
hàng ở nước ngoài. Ví dụ ngân hàng Vietcombank của Việt nam có tài khoản
bằng đô la ở ngân hàng Mỹ Bank of America thì đây là tài khoản Nostro của
Vietcombank.
Tài khoản Vostro (tiếng Latinh có nghĩa là tài khoản của các bạn) là tài
khoản của một ngân hàng nước ngoài gửi ở ngân hàng đị
a phương bằng tiền
nước ngân hàng địa phương. Ví dụ ngân hàng Bank of America có tài khoản
VND tại ngân hàng Vietcombank thì đó là tài khoản Vostro.
Mục đích của hai loại tài khoản này là thực hiện thanh toán bù trừ và
chuyển tiền quốc tế.

1.2. Ngân hàng đại lý
Hai ngân hàng được coi là ngân hàng đại lý của nhau nếu hai ngân hàng
cùng duy trì tài khoản ngân hàng đại lý với nhau.
Các ngân hàng trở thành các ngân hàng đại lý của nhau khi phát sinh
nhu cầu thanh toán cho khách hàng của ngân hàng tại nơi mà ngân hàng của
họ không có chi nhánh. Các khách hàng của ngân hàng thường yêu cầu ngân
hàng cung cấp các d
ịch vụ tài chính tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Trên lý
thuyết thì điều này có thể thực hiện được qua ngân hàng chi nhánh. Tuy
nhiên, trên thực tế là không thể vì rất tốn kém và gặp khó khăn về chính trị
văn hoá …ở nhiều nước. Mối quan hệ ngân hàng đại lý đem lại lợi ích rất lớn


88
cho ngân hàng bởi vì ngân hàng có thể phục vụ các công ty với chi phí rất
thấp và không cần đội ngũ nhân sự cũng như cơ sở vật chất ở nước ngoài, do
vậy có thể phục vụ khách hàng ở rất nhiều nơi trên thế giới. Điều bất lợi đối
với các khách hàng, các công ty, là họ không nhận được chất lượng dịch vụ
thông qua các ngân hàng đại lý như họ đã nhận
được từ chính ngân hàng của
họ.
Tuy nhiên, không phải tất cả các loại giao dịch liên ngân hàng nào
cũng là dịch vụ ngân hàng đại lý. Nhiều nghiệp vụ giữa các ngân hàng không
được coi là dịch vụ ngân hàng đại lý bởi vì nó không đòi hỏi mối quan hệ liên
tục giữa các ngân hàng. Ví dụ như các nghiệp vụ giao dịch ngoại tệ giữa các
ngân hàng và nghiệp vụ cho vay hợp vốn trong đó một nhóm ngân hàng hợp
tác với nhau để cho vay một khách hàng. Dịch v
ụ ngân hàng đại lý thường có
đặc trưng nổi bật là mối quan hệ giao dịch liên tục và nhân tố chủ chốt để
biết hai ngân hàng có quan hệ đại lý với nhau hay không là tồn tại mối quan
hệ tài khoản nhằm cung cấp dịch vụ thanh toán cho khách hàng để thu phí.
1.3 . Dịch vụ bảo quản và lưu ký
1.3.1 Dịch vụ bảo quản
Bảo quản an toàn vật có giá là một trong những dịch vụ lâu đời nhất
đượ
c các ngân hàng thương mại thực hiện, và nay được thực hiện với cả
người nước ngoài. Những ngân hàng thương mại thực hiện dịch vụ bảo quản
an toàn vật có giá là những ngân hàng có những hầm kho kiên cố, có các
phương tiện hiện đại để bảo vệ tuyệt đối an toàn vật có giá. Công việc bảo
quản vật có giá được phân chia thành hai bộ phận khác nhau trong một ngân
hàng:
Bảo quản ký thác: Khách hàng có thể thuê két sắ

t để bảo quản những
tài sản có giá như: chứng khoán, các chứng thư, các hợp đồng bảo hiểm,
những tài liệu cá nhân, hoặc có khi chỉ là những tài sản tinh thần như bản thảo
của một tác phẩm văn học, một chiếc nhẫn cưới

89
Bảo quản an toàn các giấy tờ có giá: có nhiệm vụ trông nom quản lý
giấy tờ có giá và các chứng từ khác liên quan như là một đại lý đối với khách
hàng.
1.3.2 Dịch vụ lưu ký
Dịch vụ lưu ký của ngân hàng là dịch vụ giữ chứng khoán theo hợp
đồng cho các khách hàng và thực hiện mua hoặc bán chứng khoán khi được
ký thác. Dịch vụ lưu ký bao gồm việc xuất, nhập chứng khoán, chuyển giao
chứng khoán, bảo qu
ản chứng khoán trong kho, kế toán chứng khoán, giúp
khách hàng nhận cổ tức và thực hiện quyền cổ đông. Các ngân hàng thực hiện
nghiệp vụ lưu ký tại các quốc gia khác nhau gọi là ngân hàng siêu lưu ký, các
ngân hàng này cũng mua, bán, phân phối chứng khoán khi được khách hàng
tín thác.
Vai trò cơ bản của dịch vụ lưu ký là giảm thiểu rủi ro thanh toán và rủi
ro hoạt động mà các nhà đầu tư phải đối mặt trong tất cả các loại chứng
khoán. Dịch v
ụ lưu ký có thể đạt được bằng cách thực hiện thanh toán giao
dịch chứng khoán nhanh chóng, chính xác và vì vậy giảm thiểu khả năng rủi
ro trong giao dịch. Ngoài ra các ngân hàng làm dịch vụ lưu ký còn thu nhận
cổ tức nhân danh nhà đầu tư, thực hiện các yêu cầu hoàn lại tiền thuế cũng
như các hoạt động khác. Dịch vụ lưu ký còn phục vụ các nhu cầu thông tin
thị trường cho các khách hàng.
Các dịch vụ lưu ký đã là mộ
t trong những sản phẩm ngân hàng quốc tế

phát triển trong thời gian gần đây. Dịch vụ này đã phát triển cùng với việc
mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong thập kỷ vừa qua, người ta đã
ước tính rằng vào những năm đầu thập niên 90, giá trị chứng khoán nằm trong
tay các tổ chức thực hiện dịch vụ lưu ký toàn cầu xấp xỉ khoảng 600 tỷ USD
đế
n 800 tỷ USD. Dịch vụ lưu ký là một nghiệp vụ phổ biến của ngân hàng
bởi vì đó là dịch vụ thu phí, khách hàng ổn định và cần ít vốn. Tuy nhiên dịch
vụ lưu ký hiện nay là một lĩnh vực cạnh tranh hết sức gay gắt.
1.4. Dịch vụ séc du lịch

90
Với sự phát triển mạnh mẽ của du lịch quốc tế, các ngân hàng thương
mại theo chân khách hàng qua việc phát hành séc du lịch. Séc du lịch là loại
séc đích danh. Nhờ loại séc này mà người du lịch có thể không thể không cần
tiền mặt mang đi vì séc du lịch có thể được thanh toán một cách chắc chắn ở
khắp mọi nơi. Séc du lịch được phát hành bằng loại giấy đặc biệt (tương tự
như giấ
y bạc), khó giả mạo và bôi sửa. Việc phát hành séc tạo mối liên quan
pháp lý giữa ba bên: ngân hàng phát hành séc, người thụ hưởng và ngân hàng
thanh toán.
Có hai đặc điểm phân biệt giữa séc du lịch và séc thông thường
khác của ngân hàng:
1. Séc có mệnh giá được in trên mặt séc.
2. Séc du lịch chỉ được đưa vào lưu thông khi ngân hàng thanh
toán đã nhận được số tiền tương ứng của séc. Nhờ đó séc du lịch được coi như
một phương tiện thanh toán thuận tiện và chắc ch
ắn như tiền mặt.
Séc du lịch chỉ có thể thanh toán bởi người hưởng séc. Người
hưởng séc ký trên mỗi tờ séc vào chỗ qui định khi được phát hành và ký lại
(countersign) khi xuất trình để nhận tiền trước mặt nhân viên ngân hàng.

Việc xuất trình chứng thư là không cần thiết, tuy nhiên ngân hàng có quyền
yêu cầu như là một bảo đảm khi thanh toán. Khi người hưởng xuất trình séc
tại khách sạn hoặc bất cứ nơi nào để thanh toán thì người nhậ
n séc phải có
trách nhiệm kiểm tra chữ ký. Người nhận séc gửi séc đến ngân hàng đại lý
tiếp theo ngân hàng đại lý sẽ chuyển tiếp séc tới ngân hàng thanh toán qua
hình thức nhờ thu.
1.5. Dịch vụ thẻ tín dụng
1.5.1 Bản chất của thẻ thanh toán quốc tế
Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán hiện đại cho phép chủ thẻ
sử dụng thẻ để thanh toán cho các hàng hoá dịch vụ với hạn mức chi tiêu
nhấ
t định, trả tiền sau mà ngân hàng cho phép căn cứ vào khả năng tài chính,

91
số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp của chủ thẻ. Như vậy, về bản chất kinh tế,
thẻ tín dụng chính là sự vay mượn tiền của chủ thẻ đối với ngân hàng với một
số điều kiện đảm bảo của ngân hàng như: tài khoản của chủ thẻ (nếu có), hợp
đồng sử dụng thẻ, tài sản thế ch
ấp...Tuy nhiên chủ thẻ chỉ sử dụng được thẻ
tại những nơi nhất định (đại lý chấp nhận thẻ, ngân hàng đại lý).
Việc cung cấp các dịch vụ thẻ tín dụng cho khách hàng, ngân hàng có
hai cách lựa chọn như sau:
- Ngân hàng có thể trở thành một thành viên với một nhóm các ngân
hàng cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng hoặc đóng vai trò như một đại lý;
- Ngân hàng cũng có thể phát hành thẻ của riêng ngân hàng nhưng họ

phải thu hút được đủ những người cung cấp hàng hoá và dịch vụ, và phải có
nhóm người giữ thẻ đủ lớn để những người cung cấp hàng hoá và dịch vụ
quen thuộc với phương thức đó. Dịch vụ thẻ tín dụng đòi hỏi phải có khối

lượng khách hàng đủ lớn, nếu ngân hàng muốn thu được lợi nhuận.
1.5.2. Các loại thẻ thanh toán quốc tế tiêu biểu hiện nay
Th
ẻ Diners Club là loại thẻ du lịch và giải trí do tổ chức thẻ tự phát
hành năm 1949 tại Mỹ. Vào năm 1960 nó là loại thẻ trước tiên có ở Nhật
Thẻ American Express (thẻ Amex) do Tổ chức thẻ American Express
phát hành lần đầu dưới tên Green Amex, không hạn mức tín dụng, chủ thẻ
được chi xài và có trách nhiệm trả một lần vào cuối tháng. Năm 1987 Amex
cho ra đời thêm 3 loại thẻ mới Amex Gold, Platium và Optima có hạn mức tín
dụng tuần hoàn. Hiện nay
đây là tổ chức thẻ du lịch và giải trí lớn nhất thế
giới, tổ chức này tự phát hành và quản lý chủ thẻ, không cấp giấy phép thành
viên cho các ngân hàng.
Thẻ VISA. Năm 1960, ngân hàng Mỹ Bank of American phát hành thẻ
Bank Americard. Năm 1977 thẻ Bank Americard trở thành thẻ VISA. Tổ
chức VISA quốc tế cũng chính thức hình thành và phát triển cho đến nay có
thể nói rằng thẻ VISA là loại thẻ có qui mô phát triển nhất thế giới. Tổ chức
Visa không phát hành trực tiế
p mà giao cho các thành viên

92
Thẻ JCB xuất phát từ Nhật vào năm 1961 bởi ngân hàng Sanwa. Năm
1981 bắt đầu phát triển thành tổ chức thẻ quốc tế, mục tiêu chủ yếu hướng
vào thị trường giải trí và du lịch.
Thẻ MasterCard. Năm 1967, bốn ngân hàng California đổi tên thành
Western States Bank Card Association chính thức phát hành thẻ Master
Charge. Năm 1979 MasterCharge đổi tên thành MasterCard và trở thành tổ
chức thẻ thanh toán quốc tế lớn thứ hai sau Tổ chức Visa.
1.5.3. Các chủ thể chính tham gia thị tr
ường

Tổ chức thẻ thanh toán quốc tế là tổ chức đứng ra liên kết các thành
viên, đặt ra các quy định bắt buộc các thành viên phải áp dụng và tuân theo
thống nhất toàn cầu.
Ngân hàng phát hành thẻ là thành viên chính thức của Tổ chức thẻ
thanh toán quốc tế. Ngân hàng phát hành thẻ có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ
xin cấp thẻ, xử lý và phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản thẻ, chịu trách
nhiệm thanh toán thẻ đó.
Ngân hàng thanh toán thẻ
hay còn gọi là ngân hàng đại lý là thanh viên
tổ chức thẻ thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ theo hợp đồng. Ngân hàng thanh
toán thẻ trực tiếp ký hợp đồng với các cơ sở chấp nhận thẻ để tiếp nhận và xử
lý các giao dịch về thẻ tại cơ sở chấp nhận thẻ
Chủ thẻ Là người có tên trên thẻ do Ngân hàng phát hành thẻ cấp và
được quyền sử dụng thẻ. Ch
ỉ có chủ thẻ mới sử dụng thẻ của mình mà thôi.
Chủ thẻ có thể yêu cầu cấp thêm cho người thân thẻ phụ.
Cơ sở chấp nhận thẻ là các đơn vị bán hàng hoá, dịch vụ như cửa
hàng, khách sạn, nhà hàng…. Có kí hợp đồng với ngân hàng thanh toán thẻ để
chấp nhận thanh toán.
1.6. Dịch vụ thanh toán quốc tế
1.6.1. Dịch vụ chuyển tiền (Remittance)
Chuyển tiền là phương th
ức thanh toán trong đó một khách hàng của
ngân hàng yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho

×