Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Hoàn Thiện Quy Trình Đánh Giá Trọng Yếu Và Rủi Ro Kiểm Toán Trong Kiểm Toán Bctc Do Công Ty Cổ Phần Kiểm Toán Và Tư Vấn Thực Hiện.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.97 KB, 95 trang )

Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

Lời nói ®Çu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuẩn bị cho nền kinh tế hội nhập và phát triển, các Công ty kiểm toán
phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ mình cung cấp. Lập kế hoạch
một cách khoa học, hiệu quả là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất
lượng cũng như hiệu quả cuộc kiểm toán. Hiện nay các công ty kiểm toán trên
hàng đầu thế giới hầu hết đã xây dựng cho mình một quy trình chuẩn và các
hướng dẫn cụ thể đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
BCTC, giúp các KTV thực hiện kiểm toán một cách hiệu quả, tránh được
những rủi ro không mong muốn và giảm chi phí kiểm toán mà vẫn đạt được
hiệu quả về mặt chất lượng. Còn ở Việt Nam, việc đánh giá trọng yếu và rủi ro
kiểm toán chưa thực sự được các KTV quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, việc
tìm hiểu và hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán BCTC là một vấn đề cần được quan tâm hiện nay của các Bộ, ban,
ngành, các tổ chức cũng như các KTV. Đó chính là lí do em chọn đề tài “Hoàn
thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
BCTC do Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn thực hiện” làm Luận văn tốt
nghiệp Đại học của mình.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lí thuyết kiểm toán đặc
biệt là đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC vận dụng
vào phân tích thực tiễn công tác kiểm toán của Công ty, từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá
trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC do A&C thực hiện.

3. Nội dung của đề tài


Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về đánh giá trọng yếu và rủi ro
kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Chương II: Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán do Công
ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn A&C thực hiện

KiĨm to¸n 42A

1


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

Chng III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình đánh giá
trọng yếu và rủi ro kiểm toán do Công ty cổ phần kiểm toán và Tư vấn thực
hiện

4. Phương pháp nghiên cứu
Với những kiến thức được học và tự tích lũy, em đã thực hiện Luận văn
tốt nghiệp Đại học của mình bằng lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
bằng các phương pháp của toán học, của nghiệp vụ kế toán và kiểm toán. Luận
văn sẽ được trình bày theo phương pháp kết hợp giữa tổng hợp và phân tích,
giữa diễn giải và quy nạp cũng như sự kết hợp giữa phương pháp trình bày
bằng văn nói với sơ đồ, bảng biểu.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về thời gian nên Luận văn mới chỉ đi sâu nghiên cứu việc
đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch đối với

kiểm toán độc lập mà chưa đi sâu nghiên cứu được việc vận dụng trọng yếu
trong quá trình thực hiện kiểm toán và quá trình đánh giá và vận dụng trọng
yếu và rủi ro kiểm toán đối với các lĩnh vực kiểm toán khác.

6. Những đóng góp
Qua Luận văn này, em đã cố gắng tìm hiểu về lí luận chung quy trình
đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC, mô tả và phân
tích quá trình thực hiện tại Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn. Tuy nhiên,
do thời gian nghiên cứu và viết bài hạn hẹp, trình độ và kinh nghiệm còn chưa
tích lũy được nhiều nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
thầy giáo, các cô chú, anh chị trong Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn góp
ý để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh, cùng các cô chú, anh chị trong Công ty cổ phần Kiểm toán và Tư vấn
đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua.
Sinh viên thực hiện
Đặng Thị Quỳnh Trang

KiĨm to¸n 42A

2


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

CHNG I

Những vấn đề lí luận chung về đánh giá trọng yếu

và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài
chính
1.1. Bản chất, vai trò của trọng yếu và rủi ro và mối quan hệ
giữa trọng yếu với rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC
1.1.1. Bản chất của trọng yếu trong kiểm toán BCTC
Theo Từ điển Tiếng Việt, “trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng
thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh được đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng” (6,777) nghĩa là nó có ảnh hưởng lớn tới những vấn đề liên
quan.
Trong kế toán, nguyên tắc trọng yếu yêu cầu chú trọng đến những vấn đề
mang tính chất cốt yếu, quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện
kinh tế phát sinh. Trong kiểm toán, trọng yếu là một khái niệm thường xuyên
được nhắc đến, đặc biệt là trong kiểm toán BCTC. Hiện đã có rất nhiều tài liệu
có định nghĩa về trọng yếu trong kiểm toán BCTC. Có thể trích dẫn từ một số
nguồn sau:
Theo ISA số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán”, trọng yếu được định
nghĩa như sau: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông
tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính
trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót
được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế,
tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông tin
hữu ích cần phải có” (9,102).
Theo IAG số 25 do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công
bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót)
thông tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu
dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra
kết luận sai lầm”(2,2).
VSA số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” định nghĩa: “Thông tin
được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính
xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng

KiÓm to¸n 42A

3


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

BCTC. Mc trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin
hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một
ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải
có. Tính trọng yếu của thông tin phải xem xét cả trên phương diện định lượng
và định tính”(12,18)
Theo Giáo trình Lí thuyết kiểm tốn “Trọng yếu, xét trong quan hệ với
nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần
nội dung cơ bản của kiểm tốn có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận
thức, đánh giá đối tượng kiểm tốn và và việc sử dụng thơng tin đã đánh giá đó
để ra quyết định quản lí”(7,86).
Từ các định nghĩa trên ta thấy, dù ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam,
trọng yếu đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan
trọng của một thông tin hoặc một số liệu trong BCTC mà nếu thiếu nó hoặc
thiếu tính chính xác của thông tin đó thì sẽ ảnh hưởng đến người sử dụng
BCTC về nhận thức, từ đó ảnh hưởng đến việc đánh giá các thông tin trên
BCTC và ra quyết định quản lí. Trên góc độ của người sử dụng thông tin, nói
một cách đơn giản, một thông tin quan trọng và cần phải được trình bày nếu nó
có khả năng ảnh hưởng tới các quyết định của người sử dụng.
Đồng thời, trong các khái niệm “trọng yếu” cũng bao hàm hai mặt liên
quan đến nhận thức đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và vị trí hay
tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.

Thứ nhất: Quy mô của khoản mục, nghiệp vụ
Thông thường, xem xét vấn đề về quy mơ của đối tượng kiểm tốn cần
quan tâm tới quy mô tương đối. Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan
giữa đối tượng cần đánh gia với một số gốc. Chẳng hạn, với BCKQHĐKD, số
gốc có thể là Doanh thu thuần; với BCĐKT, số gốc có thể là tổng tài sản hoặc
tài sản lưu động…Nhưng cũng có khi KTV sử dụng con số tuyệt đối để đánh
giá tính trọng yếu. Một con số tuyệt đối là số thể hiện mức quan trọng mà
không cần nhắc thêm bất cứ một yếu tố nào khác. Chắng hạn, một vài KTV cho
rằng “một triệu USD hoặc một con số lớn hơn thì ln là con số trọng yếu,
không cần quan tâm đến vấn đề nào khác”(7,87).
Xét trong mối quan hệ giữa BCTC với mức độ ảnh hưởng của các khoản
mục, nghiệp vụ đến kết luận kiểm toán, có 2 mức độ khác nhau về quy mô của
khoản mục, nghiệp vụ ảnh hưởng đến việc đánh giá trọng ́u.
KiĨm to¸n 42A

4


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

Mụt la, quy mô nhỏ - không trọng yếu: Một khoản mục, nghiệp vụ, sai
phạm với quy mô nhỏ trong BCTC hay trong kết quả chung của hoạt động
kiểm toán thì thường được coi là không trọng yếu. Bởi vì việc phản ánh đúng
hay sai khoản mục, nghiệp vụ này không ảnh hưởng đến quy mô chung trên
BCTC, từ đó không ảnh hưởng đến nhận thức về bản chất đối tượng kiểm toán
cũng như người sử dụng thông tin không đi đến quyết định sai lầm.
Xét trên phương diện quy mô của nghiệp vụ, khoản mục để đánh giá
trọng yếu cần phải liên hệ với quy mô và loại hình doanh nghiệp. Ví dụ: Khoản

mục vật liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất dầu nhờn nhưng lại
trọng yếu trong sản xuất thủy tinh, gốm sứ…Một khoản mục có giá trị là
4.000.000VND trong khi tổng tài sản là 4.000.000.000VND sẽ được đánh giá
là không trọng yếu, nhưng nếu tổng tài sản là 10.000.000VND thì sẽ được đánh
giá là trọng yếu. Vì vậy, trong kiểm toán cần phải xem xét cả định tính và định
lượng (nếu có).
Hai là, quy mô lớn: Thông thường, một khoản mục có quy mô lớn sẽ ảnh
hưởng đến nhận thức đúng thực trạng hoạt động tài chính và từ đó ảnh hưởng
đến kết luận kiểm toán cũng như quyết định quản lí kinh tế. Khoản mục có quy
mô lớn được xác định trong tương quan với BCTC, cụ thể hơn trong tương
quan với khoản mục, nghiệp vụ có quy mô nhỏ thường được đánh giá là trọng
yếu. Ví dụ: khoản mục tài sản cố định hay nghiệp vụ xây lắp, khấu hao tài sản
cố định thường có quy mô lớn trên BCĐKT, cũng như trong tương quan với
các khoản mục dụng cụ nhỏ, các nghiệp vụ phân bổ chi phí dụng cụ, do đó
chúng được đánh giá là trọng yếu.
Quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy mô bằng
con số tuyệt đối mà phải xét trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm toán.
Về định lượng, đó là những tỉ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với một cơ
sở để tính toán như: Tổng tài sản, doanh thu, lợi nhuận trước thuế… Ngoài ra
còn phải xem xét đến đối tượng cụ thể cũng như mục tiêu của cuộc kiểm toán.
Đối với những khoản mục có quy mô lớn nhưng chưa đủ mức quyết định nhận
thức đối tượng có thể sẽ không được coi là trọng yếu.
Ngoài ra, khi xem xét về quy mô của tính trọng yếu, KTV cần phải chú ý
không chỉ quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối mà còn phải cân nhắc cả sự
ảnh hưởng lũy kế của đối tượng xem xét. Đoạn 17, VSA số 240 “Gian lận và
sai sót” cũng quy định: “KTV không được cho rằng các gian lận và sai sót xảy
KiĨm to¸n 42A

5



Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

ra la đơn lẻ và biệt lập, trừ khi đã xác định rõ ràng”(11,6). Chẳng hạn, có nhiều
sai phạm khi xem xét chúng một cách cơ lập thì chúng khơng đủ trọng yếu do
quy mô nhỏ, song nếu KTV cộng dồn tất cả những sai phạm sẽ phát hiện thấy
sự liên quan và tính hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu
của chúng.
Đoạn 07, VSA sớ 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán”: “KTV cần xét
tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có ảnh
hưởng trọng yếu đến BCTC, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối
tháng có thể trở thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ
tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng” (12,19).Như vậy, các nghiệp vụ, khoản mục có sai
sót lặp lại nhiều lần tổng sai sót sẽ lớn và ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài
chính thì được coi là trọng yếu. KTV phải đề nghị khách hàng điều chỉnh nhằm
tránh trường hợp các sai sót sẽ lặp lại.
Đặc biệt, quy mơ trọng yếu cịn tùy thuộc và từng cuộc kiểm tốn có đối
tượng và mục tiêu khác nhau, chẳng hạn, kiểm tốn tài chính hay kiểm toán
hiệu quả với chức năng xác minh hay tư vấn…
Thứ hai: Bản chất của nghiệp vụ, khoản mục trong mối quan hệ với
trọng yếu
Trong kiểm toán BCTC, KTV đánh giá tính trọng yếu cần tùy thuộc vào
loại hình, quy mô doanh nghiệp, hệ thống tổ chức và quản lí của doanh nghiệp.
Đồng thời cần có sự am hiểu các quy định về tài chính kế toán, các quy định
pháp luật đối với doanh nghiệp và dựa vào kinh nghiệm nghề nghiệp của KTV.
Các khoản mục, nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và cac
khoan muc, nghiờp vu co sai sot hờ trong.


Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa
đựng khả năng gian lận:
+ Cac nghiờp vu õu thõu, giao thõu và giao dịch không hợp pháp;
+ Các nghiệp vụ thanh lí tài sản;
+ Các nghiệp vụ về tiền mặt: Các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên,
tiền mặt lại có đặc điểm là gọn nhẹ, dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận);

KiĨm to¸n 42A

6


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

+ Cac nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: Doanh nghiệp và khách hàng
hoặc nhà cung cấp có thể móc ngoặc với nhau để báo cáo sai về thực trạng hoạt
động của mình);
+ Các nghiệp vụ bất thường: Các nghiệp vụ này ít xảy ra nhưng nó lại
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
+ Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: Các nghiệp vụ liên quan đến quyền
lợi bao giờ cũng chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng
muốn thu lợi cho bản thân mình;
+ Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách;
+ Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kì quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ
mới phát sinh. Thông thường, vào cuối kì quyết toán, để kết quả hoạt động kinh
doanh được như kế hoạch đã đề ra hoặc để điều chỉnh một số chênh lệch thừa,
thiều, kế toán thường đưa thêm một số bút toán hạch toán. Do đó các nghiệp vụ

xảy ra vào cuối kì quyết toán thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới phát
sinh thì KTV cần tự đặt ra câu hỏi tại sao những nghiệp vụ đó từ trước đến giờ
mới phát sinh, liệu kế toán đã xử lí đúng chưa và từ đó đi tìm bằng chứng để
chứng minh;
+ Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa;
+ Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lí nói chung: Có
ảnh hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
cũng như các ca nhõn co liờn quan.

Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sãt (kh«ng cè ý)
hƯ träng:
Các nghiệp vụ này xảy ra thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính
thiếu cẩn trọng của kế toán.
+ Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch
lớn với các kì trước hoặc giữa các nguồn thông tin liên quan;
+ Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý tuy nhiên
có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin;
+ Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kì sau;
+ Các sai sót có ảnh hưởng đến lợi nhuận thường được coi là trọng yếu
như một khoản lỗ được báo cáo như là môt khoản lãi hoặc ngược lại cũng là
một vấn đề cần được quan tâm;
KiĨm to¸n 42A

7


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang


+ Cac khoản mục, nghiệp vụ có sai sót sẽ gây ra hậu quả liên quan đến
nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC;
+ Sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chính sách kế toán của
doanh nghiệp làm cho người sử dụng BCTC sẽ hiểu sai về bản chất của thông
tin.
Các tiêu chuẩn về mặt định tính sẽ cung cấp bổ sung những thông tin
nhờ đó giúp KTV đánh giá toàn diện về các sự kiện. Tất cả các khoản mục,
nghiệp vụ thuộc về bản chất của đối tượng kiểm toán đều liên quan trực tiếp
đến nhận thức đúng đối tượng và đưa ra ý kiến kiểm toán. Vì vậy, khái niệm về
trọng yếu đã đặt ra yêu cầu không được bỏ sót các khoản mục, nghiệp vụ có
quy mô lớn và có tính hệ trọng, phản ánh bản chất của đối tượng kiểm toán. Vi
phạm nguyên tắc này cũng có nghĩa là tạo ra rủi ro kiểm toán.
1.1.2. Bản chất của rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Theo Từ điển Tiếng Việt, “rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy
ra”(6,549). Như vậy, rủi ro là điều mà không ai mong muốn. Mỗi lĩnh vực khác
nhau thì lại có các loại hình rủi ro đặc trưng riêng.
Theo IAG 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” do Liên đoàn kế toán
Quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì rủi ro kiểm toán được định nghĩa
như sau: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc phải khi đưa ra
nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và nó là sai sót nghiêm
trọng. Ví dụ KTV có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một BCTC mà
không biết rằng các Báo cáo này có những sai sót nghiêm trọng”(2,15).
ISA số 400 và VSA số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”, quy
định: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến
nhận xét không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán còn có những sai sót
trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và rủi ro phát hiện” (11,27).
“Rủi ro kiểm toán được hiểu là những rủi ro mà KTV có thể mắc phải khi
đưa ra những ý kiến nhận xét khơng thích hợp về các thơng tin và Báo cáo tài
chính của đơn vị”(5,104).

Như vậy, bản chất của rủi ro kiểm tốn là mức đợ mà KTV sẵn sàng
chấp nhận là các BCTC có thể có sai sót trọng yếu sau khi cuộc kiểm toán hoàn
thành và đã đi đến một nhận xét chấp nhận toàn phần. Trong thực tiễn, rủi ro
KiĨm to¸n 42A

8


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

kim toỏn thường xảy ra do giới hạn về quản lí, về kiểm tốn mà trực tiếp là chi
phí kiểm tốn (do đó giới hạn lượng bằng chứng thu được) và ngay cả khi bằng
chứng có khả năng đủ. Trong mối quan hệ này, rủi ro kiểm tốn và chi phí
kiểm tốn có quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau và được thể hiện qua sơ đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1. Quan hệ giữa rủi ro kiểm tốn với chi phí kiểm tốn
(Bằng chứng kiểm toán)(7,90)
Mức rủi ro kiểm toán

Rủi ro đạt tới

Rủi ro mong muốn

0
Bằng chứng kiểm tốn (chi phí)

Mức đợ rủi ro kiểm toán cao hay thấp quyết định khối lượng công việc
kiểm toán phải tiến hành. Vì vậy, cần phải tiến hành phân loại rủi ro, xem xét
mối quan hệ tác động giữa các loại rủi ro đến khối lượng công việc kiểm toán

cần phải tiến hành cũng như đến các trình tự và phương pháp kiểm toán thích
hợp để thực hiện kế hoạch kiểm toán. Nó cho phép KTV đánh giá rủi ro kiểm
toán tổng thể (overall audit risk)
risk trong kiểm toán tài chính trên phương diện
xem xét sự tác động qua lại lẫn nhau của các yếu tố, qua đó ảnh hưởng đến rủi
ro kiểm toán.
Do đối tượng kiểm tốn là những thơng tin được kiểm tốn qua nhiều
giai đoạn bằng các bộ máy kiểm toán khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng
được xác định tương ứng với đối tượng kiểm toán từng loại: rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Thứ nhất: Rủi ro tiềm tàng (Inherent Risk-IR)
Việc đưa rủi ro tiềm tàng vào mô hình rủi ro kiểm toán là một trong
những khái niệm quan trọng nhất của kiểm toán. Nó ngụ ý là KTV phải cố
gắng dự đoán nơi nào trên các BCTC mà có khả năng sai sót nhiều nhất và có ít
khả năng sai sót nhất. Luôn luôn có một số rủi ro là KTV đã phạm sai lầm riêng
KiĨm to¸n 42A

9


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

le hoc kết hợp và đủ để làm cho các BCTC bị sai. Những sai lầm có thể do vô
ý hoặc do cố ý, và chúng có thể ảnh hưởng đến số dư trong các tài khoản.
Theo IAG số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” thì: “Rủi ro tiềm tàng
là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một loại nghiệp vụ đối với
những sai sót có thể là nghiêm trọng, những sai sót này có thể là đơn lẻ hoặc
có thể kết hợp với sai sót ở các số dư và các nghiệp vụ khác (ở đây giả định

rằng không có quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm
trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường
kinh doanh cũng như nằm trong bản chất của các số dư tài khoản hoặc các loại
nghiệp vụ”(2,19).
VSA số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” quy định “Rủi ro tiềm
tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục
trong BCTC chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp
mặc dù có hay không có BCKQHĐKD”(11,26).
Như vậy, về bản chất, rủi ro tiềm tàng là mức độ mà KTV ước tính là có
một sai số cao hơn mức có thể chấp nhận trong một bộ phận trước khi xét đến
tính hiệu quả của các quá trình kiểm soát nội bộ về kế toán. Mức độ rủi ro tiềm
tàng phụ thuộc và đặc điểm tình hình kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại
hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. KTV không
tạo ra và cũng không kiểm soát được rủi ro tiềm tàng. Họ chỉ có thể đánh giá
chúng.
Rủi ro tiềm tàng có quan hệ tỉ lệ thuận với số lượng bằng chứng kiểm
toán cần thu thập có nghĩa là nếu rủi ro tiềm tàng càng cao thì số lượng bằng
chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều và ngược lại.
Thứ hai: Rủi ro kiểm soát (Control Risk-CR)
Theo IAG 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “Rủi ro kiểm soát là rủi
ro do phát hiện sai, có thể xảy ra với một số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp
vụ và có thể sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra đơn lẻ hoặc có thể
kết hợp sai sót của các số dư, các nghiệp vụ khác mà BCKQHĐKD đã không
ngăn chặn hoặc không phát hiện kịp thời”(2,21.
VSA số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro kiểm soát là
rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong

KiĨm to¸n 42A

1

0


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và BCKQHĐKD
không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chửa kịp thời”(11,27).
Rủi ro kiểm soát là mức độ mà KTV ước tính là có sai số cao hơn mức
có thể chấp nhận trong một bộ phận mà cơ cấu kiểm soát nội bộ của khách
hàng có thể không ngăn chặn được.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của
HTKSNB. Cơ cấu kiểm soát nội bộ của khách hàng càng hiệu quả thì rủi ro
kiểm soát càng thấp và ngược lại. KTV không tạo ra rủi ro kiểm soát và cũng
không kiểm soát chúng. Họ chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm soát của đơn vị
được kiểm toán và từ đó dưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến. Chính vì vậy,
KTV cần có sự hiểu biết đầy đủ về HTKSNB của đơn vị, đánh giá chính xác
mức độ rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch và xây dựng chương trình kiểm toán
thích hợp.
Rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỉ lệ thuận với số lượng bằng chứng cần
thu thập và quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro phát hiện.
Thứ ba: Rủi ro phát hiện (Detection Risk-DR)
Theo IAG số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “Rủi ro phát hiện là
những rủi ro mà KTV không phát hiện ra các sai sót hiện có trong các số dư tài
khoản hoặc các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy
ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong số dư, các loại nghiệp vụ
khác. Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán
của KTV” (2,26).
VSA số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro phát hiện là

rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong
BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và
công ty kiểm toán không phát hiện được”(11,27).
Rủi ro phát hiện là mức độ mà KTV sẵn sàng chấp nhận là bằng chứng
kiểm toán phải thu thập cho một bộ phận sẽ không phát hiện ra các sai số cao
hơn có thể chấp nhận, nếu những sai sót đó tồn tại. Mức độ rủi ro phát hiện có
quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của KTV. Một số rủi ro phát hiện
vấn thường xảy ra cho dù kiêm tra 100% số dư tài khoản hoặc loại nghiệp vụ vì
KTV có thể đã lựa chọn và áp dụng các phương pháp kiểm toán khơng phù

KiĨm to¸n 42A

1
1


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

hp, ap dụng sai các phương pháp kiểm toán thích hợp hoặc giải thích sai các
kết quả kiểm toán.
Như vậy, rủi ro phát hiện là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không
phát hiện được các sai phạm trọng yếu và ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát, KTV phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng
chứng kiểm toán nhằm quản lí và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.
1.1.3. Mối quan hệ giữa các loại rủi ro và giữa trọng yếu với rủi ro
kiểm toán ảnh hưởng tới phương pháp kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Qua nghiên cứu các loại rủi ro, chúng ta thấy rằng rủi ro tiềm tàng, rủi ro
kiểm soát, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau. Tuy nhiên, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro phát hiện
và rủi ro kiểm toán ở chỗ các loại rủi ro này tồn tại độc lập, khách quan với các
thông tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm trong chức năng
hoạt động kinh doanh và môi trường quản lí của doanh nghiệp cũng như trong
bản chất của số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ cho dù có hay không có công
việc kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nên KTV thường kết hợp cùng lúc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát.
Việc đánh giá và xác định rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán lại phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của KTV. KTV thường xác định rủi ro kiểm toán
ngay từ đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Còn rủi ro phát hiện được xác
định cuối cùng sau khi đã xác định rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dựa trên
việc thiết kế các thủ tục kiểm toán để đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức mong
muốn.
Rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao thì rủi ro
phát hiện có thể được đánh giá ở mức thấp để giảm rủi ro kiểm toán ở mức thấp
nhất có thể chấp nhận được và qua đó KTV thiết kế các phương pháp thu thập
bằng chứng kiểm phù hợp với các mức rủi ro đã được đánh giá. Với trường hợp
rủi ro kiểm soát được đánh giá ở mức cao thì KTV sử dụng nhiều các thử
nghiệm cơ bản hay trắc nghiệm phân tích và trắc nghiệm trực tiếp số dư để đảm
bảo mức rủi ro phát hiện là thấp. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát được đánh giá là thấp thì có thể chấp nhận mức rủi ro phát hiện cao hơn
nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán x́ng thấp ở mức có thể chấp nhận được.
KiĨm to¸n 42A
1
2


Luận văn tốt nghiệp Đại học


Đặng Thị Quỳnh Trang

S biờn động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của KTV về rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng 1.1.
Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa rủi ro phát hiện với rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát (11,37).
Đánh giá của KTV về rủi ro kỉểm soát
Đánh giá của
KTV về rủi ro
tiềm tàng

Cao

Trung bình

Thấp

Cao

Thấp nhất

Thấp

Trung bình

Trung bình

Thấp


Trung bình

Cao

Thấp

Trung bình

Cao

Cao nhất

Trong đó:
+ Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành 3
mức: cao, thấp, trung bình, cao.
+ Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
+ Loại rủi ro phát hiện được chia thành 5 mức: cao nhất, cao, trung
bình, thấp và thấp nhất.
Mức độ rủi ro phát hiện tỉ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát. Ví dụ: Trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được KTV đánh giá là
cao và mức độ rủi ro kiểm soát được KTV đánh giá là thấp thì mức độ rủi ro
phát hiện có thể đánh giá là trung bình nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp
đến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro tiềm tàng là thấp
và rủi ro kiểm soát được đánh giá là trung bình thì có thể xác định mức độ rủi
ro phát hiện là cao nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán là thấp có thể chấp
nhận được.
Sơ đồ 1.2: Quan hệ giữa IR-CR-DR trong kiểm toán BCTC(3,65)
IR

Có bất cứ sai lầm cụ thể nào

không?

CR

Phát hiện bằng các thủ tục
kiểm soát khơng?
Khơng

KiĨm to¸n 42A

1
3


Luận văn tốt nghiệp Đại học
DR

Đặng Thị Quỳnh Trang
Phat hiờn bằng các phương
pháp kiểm toán không?
Không
ý kiến sai

Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối
quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau, nghĩa là mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm
toán càng thấp và ngược lại. KTV phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác
định nội dung, lịch trình và phạm vị của các thủ tục kiểm toán một cách thích
hợp.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu KTV xác định mức trọng yếu có thể
chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Trường hợp này KTV

có thể:
+ Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng
hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro
kiểm soát; hoặc
+ Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và
phạm vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Nếu rủi ro kiểm soát ở mức quá cao thì KTV có thể bỏ qua không tiến
hành các thử nghiệm kiểm soát mà thực hiện luôn các thử nghiệm cơ bản. Khi
KTV xác định rằng không thể giảm rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn
liệu của BCTC, đến số dư tài khoản hoặc nghiệp vụ trọng yếu đến mức có thể
chấp nhận được thì KTV phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến từ
chối.
Sau khi lập xong kế hoạch kiểm toán cụ thể, nếu KTV phát hiện ra
rằng mức trọng yếu có thể chấp nhận được phải thấp hơn, do đó rủi ro kiểm
toán sẽ tăng lên thì KTV phải tăng cường phạm vi kiểm toán, lựa chọn các
phương pháp kiểm toán hữu hiệu hơn (tăng cường thử nghiệm cơ bản) để giảm
rủi ro phát hiện xuống mức có thể chấp nhận được và từ đó đưa mức rủi ro
kiểm toán về đúng mức kế hoạch ban đầu đã dự kiến.
Khi thực hiện kiểm toán, nếu tổng hợp các sai sót đã phát hiện nhưng
chưa sửa chữa xấp xỉ với mức trọng yếu đã được ấn định thì KTV phải xem xét
khả năng có những sai sót chưa được phát hiện kết hợp với những sai sót đã
phát hiện nhưng chưa sửa chữa có thể tạo thành sai sót trọng yếu. Trong trường
hợp đó, KTV cần giảm bớt rủi ro kiểm toán bằng cách bở sung các thủ tục kiểm
KiĨm to¸n 42A

1
4


Luận văn tốt nghiệp Đại học


Đặng Thị Quỳnh Trang

toan cõn thiết hoặc yêu cầu Ban Giám đốc điều chỉnh lại BCTC để sửa chữa
những sai sót đã được phát hiện.
Xác định trọng yếu và rủi ro là thủ tục phức tạp đỏi hỏi trình độ cũng
như phán đoán của KTV. Do đó công việc này thường chỉ được thực hiện bởi
các KTV cao cấp, có nhiều kinh nghiệm.

1.1.4. Vai trò của trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
BCTC
Rõ ràng là thực trạng hoạt động tài chính cũng như hiệu quả nghiệp vụ là
vấn đề rất rộng và trên thực tế không thể kiểm toán được tất cả thông tin đã thu
được và chưa thu được của hoạt động tài chính và nghiệp vụ phải kiểm toán.
Hơn nữa, người sử dụng thông tin cũng chỉ quan tâm tới bản chất của thực
trạng tài chính và hiệu quả hoạt động. Điều đó dẫn tới tính tất yếu phải lựa
chọn nội dung kiểm toán tối ưu, vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng
kiểm toán, vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với giá phí kiểm
toán thấp trên cơ sở thực hiện tốt chức năng kiểm toán.
Vấn đề này chỉ có thể giải quyết trên cơ sở lựa chọn đúng và đủ những
điều cốt yếu, cơ bản…phản ánh bản chất của đối tượng kiểm toán. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc có thể lược bỏ những vấn đề không cơ bản, không
bản chất và từ đó không ảnh hưởng tới việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn đối
tượng kiểm toán. Ngược lại, nếu bỏ qua những điểm cốt yếu trong khi hướng
chú ý nhiều vào những điểm không có vị trí xứng đáng và không thuộc bản
chất của đối tượng sẽ có những nhận thức sai đối tượng và từ đó có quyết định
sai trong quản lí. Điều đó có nghĩa là KTV cần lựa chọn các đối tượng trọng
yếu để kiểm toán trong cuộc kiểm toán, cân nhắc trong mối quan hệ với phí
kiểm toán.
Vai trò của việc xác định trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong quá trình

lập kế hoạch cũng được thấy rất rõ qua VSA số 300 “Lập kế hoạch kiểm toán”
như sau: “Kế hoạch kiểm toán phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm
bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian
lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo cuộc kiểm toán được hoàn
thành đúng thời hạn” và “khi xây dựng chương trình kiểm toán, KTV phải xem
xét các đánh giá về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, cũng như mức độ đảm
bảo phải đạt được thơng qua thử nghiệm cơ bản”(11,12).
KiĨm to¸n 42A

1
5


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

ISA sụ 320 cũng quy định: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm
toán phải cân nhắc xem những nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót
trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của chuyên gia kiểm toán về mức độ trọng
yếu, liên quan đến các số dư tài khoản cụ thể và các loại nghiệp vụ giúp họ xác
định được khoản mục nào cần kiểm tra và nên sử dụng phương pháp chọn mẫu
hay áp dụng các thủ tục phân tích. Điều này giúp chuyên gia kiểm toán lựa
chọn những thủ tục kiểm toán; kết hợp những thủ tục kiểm toán đó lại với nhau
có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán tới một mức có thể chấp nhận được”(9,102).
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, mức trọng yếu được KTV dùng
làm cơ sở nhằm xác định mức độ trung thực, hợp lí của các thông tin trên
BCTC và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đến BCTC để đưa ra ý kiến, kết
luận cho phù hợp, đồng thời dựa vào đó để xác định cỡ mẫu chọn cho từng
khoản mục.

VSA số 530 “Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác” quy định
về cỡ mẫu như sau: “KTV phải đảm bảo rủi ro kiểm toán do áp dụng phương
pháp lấy mẫu giảm xuống mức có thể chấp nhận được khi xác định cỡ mẫu. Cỡ
mẫu chịu ảnh hưởng bởi mức rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểm toán có thể chấp
nhận được càng thấp, thì cỡ mẫu cần thiết sẽ càng lớn”(11,46). Như vậy, rủi ro
kiểm toán có ảnh hưởng một cách trực tiếp đến cỡ mẫu đồng thời ảnh hưởng tới
quá trình thu thập bằng chứng, cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của
cuộc kiểm toán. Trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán, KTV phải sử
dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp để đánh giá rủi ro kiểm toán xuống thấp
đến mức có thể chấp nhận được.
VSA số 240 “Gian lận và sai sót” cũng quy định: “Khi lập kế hoạch và
khi thực hiện kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro về
những gian lận và sai sót có thể có, làm ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC và
phải trao đổi với Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị về mọi gian lận hoặc
sai sót quan trọng phát hiện được”(11,4).
Qua đó ta thấy tính trọng yếu và rủi ro kiểm toán được đề cập đến trong
suốt cuộc kiểm toán, cho thấy tầm quan trọng và mức ảnh hưởng của nó tới
công việc kiểm toán BCTC. Chính vì vậy mà công việc đánh giá mức độ trọng
yếu và rủi ro kiểm toán là rất quan trọng và cần được thực hiện bởi những KTV
có trình đợ cao.
KiĨm to¸n 42A

1
6


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang


1.2. anh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán BCTC
1.2.1. Đánh giá trọng yếu
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải đánh giá mức độ
trọng yếu để ước tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác
định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên
BCTC để từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi thực hiện các khảo sát
(thử nghiệm) kiểm toán. KTV cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC
và phân bổ mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên BCTC.
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, mức trọng yếu sẽ được dùng làm
căn cứ để đánh giá sự tác động của các sai phạm lên BCTC và từ đó đưa ra kết
luận về sai phạm. Tuy nhiên, trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, mức trọng
yếu có thể thay đổi khi các tình huống quan trọng theo dự kiến của KTV thay
đổi.
Quá trình xác định và vận dụng mức trọng yếu được thức hiện trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. Quá trình này có thể được
khái quát qua 5 bước sau:
Sơ đồ 1.3: Các bước xác định và vận dụng trọng yếu (1,176)
Bước 1

Ước lượng ban đầu về trọng yếu

Bước 2

Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục

Bước 3

Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục


Bước 4

Ước tính sai số kết hợp

Bước 5

So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về

KiĨm to¸n 42A

1
7


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

trong yờu (hoặc ước lượng xét lại)

Trong 5 bước trên, hai bước đầu được thực hiện trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán, ba bước sau được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm
toán. Trong phạm vi Luận văn tốt nghiệp em chỉ xin nghiên cứu chủ yếu 2
bước đầu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.

Bước 1: Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin
rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các
quyết định của người sử dụng thông tin tài chính.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho KTV lập kế hoạch

thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Cụ thể, “nếu các KTV ước lượng
mức trọng yếu càng thấp, nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC
càng cao, thì số lượng bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại”
(8,112)
.
Đây là một trong những quyết định quan trọng nhất mà KTV phải làm,
nó địi hỏi trình đợ chuyên môn cao và KTV phải dựa vào các nhân tố ảnh
hưởng đến tính trọng yếu để đưa ra ước tính ban đầu về mức trọng yếu đối với
toàn bộ BCTC
Vì đây là công việc mang tính xét đoán nghề nghiệp nên ước lượng ban
đầu về tính trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm
toán nếu KTV thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc
một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban đầu về tính trọng
yếu bị thay đổi. Điều này cũng được quy định trong các ISA số 320 và VSA số
320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán’: “Kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi
ro kiểm toán của KTV ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác
với kết quả đánh giá ở các thời điểm khác nhau trong quá trình kiểm toán”
(12,20)
. Ví dụ: Trường hợp lập kế hoạch kiểm toán trước khi kết thúc năm tài
chính, KTV đã đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán căn cứ trên dự tính
trước kết quả hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu tình hình
tài chính thực tế và kết quả hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng
kể so với dự tính, thì việc đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán sẽ có
thay đổi. Hơn nữa, trong khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV thường ấn định mức
trọng yếu có thể chấp nhận được thấp hơn so với mức sử dụng để đánh giá kết
KiÓm to¸n 42A

1
8



Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

qua kiờm toán nhằm tăng khả năng phát hiện sai sót và cung cấp cho KTV một
khoảng an toàn khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót được phát hiện trong
quá trình kiểm toán. Mức trọng yếu được xác định này được gọi là mức trọng
yếu tổng thể.
Mặc dù ước lượng ban đầu tính trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp
mang tính chủ quan của KTV song trên thực tế, các công ty kiểm toán thường
đề ra những đường lối chỉ đạo để hỗ trợ cho các KTV của mình trong việc ước
lượng ban đầu về tính trọng yếu qua việc hướng dẫn các chỉ tiêu được chọn làm
gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỉ lệ tính mức trọng yếu đối với từng chỉ tiêu.
Các chỉ tiêu được sử dụng làm gốc để xác định ước lượng ban đầu về
tính trọng yếu phải là các chỉ tiêu có tính ổn định qua các năm. Ước lượng ban
đầu về tính trọng yếu thường được áp dụng tại các công ty kiểm toán quốc tế
như sau:
- Lợi nhuận trước thuế: 5% - 10%
- Doanh thu: 0,5% - 1%
- Tài sản lưu động: 2% - 4% hoặc 3%- 6%
- Nợ ngắn hạn: 2% - 4% hoặc 3%- 6%
- Tổng tài sản: 1% - 2% hoặc 2% - 4%
- Tổng giá trị tài sản khi tính đến việc thanh lí, phá sản doanh nghiệp:
0,25% - 0,5%.

Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản
mục trên BCTC
Sau khi có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ BCTC,
KTV cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên BCTC. Đó

cũng chính là mức sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục.
Do hầu hết các thủ tục kiểm toán tập trung vào các tài khoản trên
BCĐKT nên KTV thường phân bổ mức ước lượng cho các tài khoản trên
BCĐKT thay vì cho các tài khoản trên BCKQHĐKD. Việc phân bổ ước lượng
được thực hiện theo cả hai hướng mà các sai phạm có thể xảy ra đó là tình
trạng khai khống (số liệu trên sổ sách lớn hơn số thực tế – Overstatement) và
tình trạng khai thiếu (số liệu trên sở sách nhỏ hơn sớ thực tế –
Understatement).
KiĨm to¸n 42A

1
9


Luận văn tốt nghiệp Đại học

Đặng Thị Quỳnh Trang

C s để tiến hành phân bổ là: bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá sơ bộ đối với các khoản mục, kinh
nghiệm của KTV và chi phí kiểm toán đối với từng khoản mục.
Nếu sai sót có thể chấp nhận đối với tiền mặt cao hơn thì sai số có thể
chấp nhận đối với các khoản phải thu hoặc tồn kho sẽ phải thấp hơn. Mà chi
phí đối với hai tài khoản này cao hơn so với tài khoản tiền mặt nên KTV sẽ
không phân bổ mức sai sót cho tài khoản tiền mặt cao hơn. Do chi phí thu thập
bằng chứng cho tồn kho cao nên sai số có thể chấp nhận đối với tồn kho sẽ cao
hơn so với các khoản phải thu, cho dù các số đã được ghi sổ bằng nhau.
Tóm lại, phân bổ mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các bộ
phận là cần thiết vì bằng chứng thường được thu thập theo các bộ phận hơn là
theo toàn bộ BCTC nói chung. Việc phân bổ này sẽ giúp KTV xác định được

số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục
ở mức chi phí thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC
không vượt quá mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.

Bước 3: Ước tính tổng số sai sót trong từng khoản mục
VSA số 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” quy định: “KTV cần xem
xét tính trọng yếu trên cả phương diện mức độ sai sót tổng thể của BCTC trong
mối quan hệ với mức độ sai sót chi tiết của số dư các tài khoản, của các giao
dịch và các thông tin trình bày trên BCTC”(12,19).
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, bằng các thủ tục kiểm toán được áp
dụng, KTV phát hiện ra các sai sót trong mẫu đối với từng khoản mục. Dựa vào
các sai sót này, KTV sẽ ước tính tổng số các sai sót đối với từng khoản mục.
Sai sót này được gọi là sai sót dự kiến và được dùng để so sánh với sai sót có
thể chấp nhận được nhằm quyết định có thể chấp nhận hay không khoản mục
đó hoặc phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán thích hợp.
Khi ước tính tổng số sai sót trong từng khoản mục cần lưu ý tính trọng
yếu cũng có thể chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như các quy định pháp lí
hoặc các vấn đề liên quan đến các khoản mục khác nhau của BCTC và mối liên
hệ giữa các khoản mục đó. Quá trình xem xét có thể phát hiện ra nhiều mức
trọng yếu khác nhau tùy theo tính chất của các vấn đề được đặt ra trong BCTC
được kiểm toán.

Bước 4: Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được
KiĨm to¸n 42A

2
0




×