Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hoạt động của các công ty chứng khoán tại việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.34 KB, 93 trang )

Tr-ờng Đại Học Ngoại Th-ơng
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Chuyên ngành kinh tế ngoại th-ơng
o0o






Khóa luận tốt nghiệp

Đề tài:

Hoạt động của các công ty chứng khoán tại
việt nam: thực trạng và giảI pháp


Họ và tên sinh viên : đặng thị minh châu
Lớp : Nhật 2
Khoá : K42 G
Giáo viên h-ớng dẫn : tS. Từ thúy anh





Hà Nội, tháng 11/2007
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
1


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá diễn
ra sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam đã và đang đứng trước nhiều cơ hội cũng
như thách thức. Trong bối cảnh, sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt
Nam ( tháng 7/2000) đã đánh dấu một bước phát triển trong quá trình đổi mới
kinh tế và hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam. Với chức năng huy
động và phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp và nền kinh tế
thị trường chứng khoán chính là một công cụ tài chính quan trọng trong việc
huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là
nguyên tắc trung gian, theo đó trên thị trường chứng khoán, các giao dịch
được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Các
công ty chứng khoán là nhà tạo lập thị trường quan trọng trên thị trường
chứng khoán, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển và hoạt
động hiệu quả.
Cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (7/11/2006) thị trường chứng
khoán Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, theo đó, từ 14 công ty chứng khoán
cuối năm 2006, đến nay (tháng 7/2007) theo thống kê của uỷ ban chứng
khoán Nhà nước đã có 60 công ty chứng khoán và khoảng 50 hồ sơ xin cấp
phép thành lập công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán Việt Nam đã có những đóng góp thúc đẩy sự
phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, giúp Nhà nước thực hiện
chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp ( đến nay đã có khoảng hơn 196 công ty
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán ), huy động nguồn vốn dài hạn cho
các doanh nghiệp sản xuất và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, do thị trường
chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm và bất ổn, các công ty
chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là những công ty chứng khoán thành lập sau
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
2

cũng gặp phải không ít khó khăn. Để khắc phục những khó khăn thách thức,
tạo điều kiện cho công ty chứng khoán, Nhà nước và Uỷ ban chứng khoán
Nhà nước cần có những chính sách phù hợp để quản lý và thúc đẩy các công
ty chứng khoán phát triển lành mạnh, ổn định. Đồng thời, bản thân các công
ty chứng khoán cần phải không ngừng hoàn thiện, nỗ lực vượt qua được
những khó khăn, thách thức.
Là một sinh viên kinh tế chuyên ngành kinh tế ngoại thương, nhận thức
được tầm quan trọng của các công ty chứng khoán đối với thị trường chứng
khoán Việt Nam, em xin chọn viết đề tài : “Hoạt động của các công ty chứng
khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp “ với mong muốn được tìm hiểu
sâu hơn về thực trạng hoạt động của các công ty chứng khoán và xin đưa ra
một số giải pháp nhằm giúp các công ty chứng khoán hoạt động tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Tiến sĩ Từ Thuý Anh và
các thầy cô trong khoa đã tạo điều kiện và giúp đỡ em rất nhiều trong quá
trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Do trình độ hiểu biết và kinh nghiệm
thực tiễn còn hạn chế, trong luận văn em tự thấy còn nhiều thiếu sót, kính
mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn của các thầy cô để luận văn tốt nghiệp
của em được hoàn thiện hơn.








Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
3
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG

KHOÁN VÀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

I. Khái quát về thị trƣờng chứng khoán:
1. Bản chất và chức năng của thị trƣờng chứng khoán:
1.1 Bản chất:
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được
quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng
khoán trung và dài hạn.
Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn
tiết kiệm cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà
người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh
lời từ các dự án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh
doanh.
TTCK là một định chế tài chính trực tiếp : cả chủ thể cung và cầu vốn
đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp.
TTCK thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ. Các chứng
khoán mua bán trên TTCK có thể đem lại thu nhập cho người nắm giữ nó sau
một thời gian nhất định và được lưu thông trên TTCK theo giá cả thị trường,
do đó bề ngoài nó được coi là tư bản hàng hóa.
Có thể nói,TTCK là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư bản, là hình
thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá.
1.2 Chức năng:
1.2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
4
công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền

kinh tế quốc dân.
1.2.2 Cung cấp môi trƣờng đầu tƣ cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh
với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất
khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể
lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của
mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc
gia.
1.2.3 Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ
sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng
tạo tính thanh khoản ( khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong
những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố
cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng
động và hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các
chứng khoán giao dịch trên thị trường.
1.2.4 Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của doanh nghiệp được phản ánh
một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra môi
trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích
áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản xuất.
1.2.5 Tạo môi trƣờng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách
nhạy bén và chính xác.Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở
rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại, giá chứng khoán giảm cho thấy
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
5
các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế.Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu

của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các
chính sách vĩ mô. Thông qua TTCK Chính phủ có thể mua hoặc bán trái
phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý
lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp
tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho
sự phát triển cân đối.của nền kinh tế.
2. Các chủ thể tham gia trên thị trƣờng chứng khoán:
2.1 Nhà phát hành:
Nhà phát hành là các chủ thể tham gia huy động vốn thông qua TTCK.
Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hoá của TTCK. Có
thể là :
 Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái
phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương
 Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
 Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như
các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của
họ.
2.2 Nhà đầu tƣ
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên
TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại : nhà đầu tư cá nhân và các
nhà đầu tư có tổ chức.
 Các nhà đầu tƣ cá nhân : Nhà đầu tư cá nhân là những người có
vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục
đích kiếm lợi nhuận.
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
6
 Các nhà đầu tƣ có tổ chức : Cá nhà đầu tư có tổ chức hay còn
gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán
với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các

bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để
nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Một số
nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là
các công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ lương hưu và
các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu
tư có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và
các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh
nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài
chính. Các công ty tài chính được phép kinh doanh chứng khoán,
có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán
nhằm mục đích thu lợi.
Bên cạnh đó, các CTCK, các NHTM cũng có thể trở thành nhà
đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho chính mình.
2.3 Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
- Công ty chứng khoán : Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực
chứng khoán, có tể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là:
 Bảo lãnh phát hành
 .Môi giới
 Tự doanh
 Quản lý quỹ đầu tư
 Tư vấn đầu tư chứng khoán
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
7
Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các CTCK phải đảm bảo được một
số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
Các ngân hàng thương mại: Tại một số nước, các NHTM có thể sử
dụng vốn tự có để tăng và đa dạng hoá lợi nhuận thông qua đầu tư vào chứng
khoán.Tuy nhiên các ngân hàng chỉ được đầu tư chứng khoán trong giới hạnh

hất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán.
Một số nước cho phép NHTM thành lập công ty con độc lập để kinh doanh
chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
2.4 Các tổ chức có liên quan đến TTCK
 Cơ quan quản lý Nhà nƣớc
Đầu tiên, thị trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự
xuất hiện của cổ phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng
nhận thấy cần có sự bảo vệ lội ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt
động bình thường, ổn định của thị trường chứng khoán, bản thân các nhàkinh
doanh chứng khoán và các quốc gia có thị trường chứng khoán hoạt động cho
rằng cần phải có cơ quan quản lý va giám sát về hoạt động phát hành và kinh
doanh chứng khoán. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý, giám sát thị trường
chứng khoán đã ra đời.
 Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán thực hiện việc vận hành thị trường thông qua
bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên
sở giao dịch. Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh
các hoạt động giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của
Luật pháp và Uỷ ban chứng khoán.
 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán (KDCK )
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
8
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức của các CTCK và
một số thành viên khác hoạt động trong ngành CK, được thành lập với mục
đích bảo vệlợi ích cho các công ty thành viên nói trên và cho toàn ngành
chứng khoán nói chung.
Hiệp hội các nhà KDCK thường là một tổ chức tự quản, thực hiện một
số chức năng chính như sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh CK.

- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy
định pháp luật về CK.
- Điều tra và igải quyết các tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành CK.
- Hợp tác với Chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề
có tácđộng đến hoạt động kinh doanh CK.
 Tổ chức lƣu kí và thanh toán bù trừ CK
Là tổ chức nhận lưu giữ các CK và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán
bù trừ cho các giao dịch CK
Một số tổ chức khác như:
 Các công ty dịch vụ máy tính CK
 Các tổ chức tài trợ CK
 Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK
3.1 Nguyên tắc công khai
Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp
đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
9
hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được được tiến hành khi phát hành
lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các CTCK và các tổ chức có
liên quan.
3.2 Nguyên tắc trung gian
Nguyên tắc trung gian : trên thị trường chứng khoán, các giao dịch
được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên
thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát
hành mà mua từ nhà bảo lãnh phát hành.Trên thị trường thứ cấp, thông qua
các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các CTCK mua và bán CK giúp khách

hàng, hoặc kết nối khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua
bán CK trên TK của mình.
3.3 Nguyên tắc đấu giá:
Mọi việc mua bán CK trên TTCK đều hoạt động trên nguyên tắc đấu
giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết
định.
 Căn cứ vào các hình thức đấu giá, có các loại đấu giá:
- Đấu giá trực tiếp : Là hình thức đấu giá trong đó các nhà môi giới
chứng khoán trực tiếp gặp nhau thông qua người trung gian (một chuyên gia
chứng khoán ) tại quầy giao dịch để thương lượng giá.
- Đấu giá gián tiếp : Là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới CK
không trực tiếp gặp nhau, mà việc thương lượng giá được thực hiện gián tiếp
thông qua hệ thống điện thoại và mạng máy tính.
- Đấu giá tự động : Là hình thức đấu giá qua hệ thống mạng máy tính
nối giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của các CTCK thành
viên.Các lệnh mua, bán được truyền đến máy chủ, máy chủ tự động khớp
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
10
các lệnh mua- bán có giá phù hợp và thông báo kết quả cho những công ty
CK có các lệnh đặt hàng được thực hiện.
 Căn cứ phương thức đấu giá có hình thức đấu giá định kỳ và đấu
giá liên tục :
- Đấu giá định kỳ : Là hệ thống trong đó các giao dịch CK
được tiến hành tại một mức giá duy nhất bằng cách tập hợp tất cả các đơn
đặt hàng mua và bán trong một khoảng thời gian nhất định. Đấu giá định kỳ
là phương thức xác định mức giá cân bằng giữa cung và cầu. Phương thức
đấu giá này rất có hiệu quả trong việc hạn chế biến động giá quá mức phát
sinh từ việc phối hợp những đơn đặt hàng được chuyển tới thị trường một
cách bất thường như trong trường hợp đấu giá liên tục. Tuy nhiên, phương

thức này không phản ánh kịp thời những thông tin về thị trường và hạn chế
tính cấp thời của các giao dịch. Do vậy, hình thức này chỉ thích hợp với
giai đoạn đầu của TTCK khi số lượng khách hàng và khối lượng giao dịch
nhỏ không sôi động.
- Đấu giá liên tục : Là hệ thống trong đó việc mua bán CK
được tiến hành liên tục bằng cách phối hợp các đơn đặt hàng của khách
hàng ngay khi có các đơn đặt hàng có thể phối hợp được.Đặc điểm của
đấu giá liên tục là giá cả được xác định qua sự phản ứng tức thời của
thông tin và các nhà đầu tư có thể nhanh chóng phản ứng lại trước những
thay đổi trên thị trường. Hình thức đấu giá này thích hợp với những thị
trường có khối lượng giao dịch lớn và nhiều đơn đặt hàng.
Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá, bao giờ cũng tuân thủ theo các thứ tự
ưu tiên về giá (giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất), về thời
gian, về khách hàng (ưu tiên các nhà đầu tư cá nhân trước ), về quy mô
lệnh ( cùng một mức giá, ưu tiên các lệnh có khối lượng lớn hơn).
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
11
II. Tổng quan về công ty chứng khoán
1. Khái niệm CTCK
CTCK là một chủ thể kinh doanh trên TTCK, với nhiệm vụ chuyên
môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện được
vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành CK, tư vấn đầu tư và thực hiện
một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành.
Các CTCK là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà các CP và TP
được lưu thông, buôn bán tấp nập trên TTCK, qua đó, một lượng vốn khổng
lồ được đưa vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn vốn lẻ tẻ trong công
chúng.
2. Chức năng của CTCK

CTCK có 3 chức năng chủ yếu trên thị trường tài chính:
 Tạo ra cơ chế huy động vốn bằng cách nối những người có
tiền ( nhà ĐT) với những người muốn huy động vốn ( người PHCK, ví dụ
như các CTCP, Chính phủ. …)
 Cung cấp một cơ chế giá cả cho giá trị của các khoản ĐT
 Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho các nhà ĐT
Khi thực hiện các chức năng của mình, các CTCK cũng tạo ra sản
phẩm, vì các công ty này hoạt động với tư cách đại lý hay công ty ủy thác
trong quá trình mua bán CK được niêm yết và không được niêm yết, đồng
thời cung cấp dịch vụ tư vấn ĐT cho các cá nhân ĐT, các công ty cổ phần và
cả Chính phủ.
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
12
3. Vai trò của CTCK đối với nền kinh tế
3. 1 Vai trò huy động vốn
Các NH, các CTCK và các QĐT đều là các TGTC với vai trò huy động
vốn. Nói một cách dơn giản, các tổ chức này có vai trò làm chiếc cầu nối và
đồng thời là các kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó
của nền kinh tế có dư thừa vốn đến các bộ phận khác của nền kinh tế, đến nơi
thiếu vốn. Các CTCK thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động bảo
lãnh phát hành ( BLPH) và môi giới chứng khoán ( MGCK).
3.2 Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả
Ngành công nghiệp CK nói chung và CTCK nói riêng, thông qua các
sở giao dịch CK và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả
nhằm giúp nhà ĐT có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị
khoản đầu tư của mình. Các sở GDCK niêm yết giá cổ phiếu của các công ty
từng ngày một trên các báo tài chính. Ngoài ra, CK của nhiều công ty lớn
không được niêm yết ở cở giao dịch cũng có thể được công bố trên các tờ báo
tài chính.

CTCK còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường,
góp phần điều tiết giá CK. Theo quy định của các nước, CTCK bắt buộc phải
dành ra 1 tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua CK vào khi giá CK trên
thị trường đang giảm và bán ra khi giá CK cao.
3.3 Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt
Các nhà ĐT luôn muốn có khả năng chuyển tiền mặt thành CK có giá
và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các CTCK đảm nhận được
chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà ĐT phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến
hành đầu tư. Chẳng hạn, trong hầu hết các nghiệp vụ đầu tư ở sở GDCK và thị
trường OTC ngày nay, một nhà ĐT có thể hàng ngày chuyển đổi tiền mặt
thành CK và ngược lại mà không phải chịu thiệt hại đáng kể đối với giá trị
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
13
khoản ĐT của mình ( ít nhất thì cũng không phải chịu thiệt hại do cơ chế
GDCK gây nên ). Nói cách khác,có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh
hưởng đến giá trị ĐT, chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền
kinh tế, nhưng giá trị khoản đầu tư nói chung không giảm đi do cơ chế mua
bán.
3.4 Thực hiện tƣ vấn đầu tƣ:
Các CTCK với đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh của
khách hàng, mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua
việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và cá
nhân ĐT.
3.5 Giảm chi phí giao dịch
TTCK là thị trường của những sản phẩm tài chính bậc cao, để thẩm
định chất lượng và xác định giá cả của chúng thường phải chi phí rất lớn để
phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo cho nhân viên kỹ năng
phân tích và thực hiện quy trình giao dịch trên một thị trường tập trung.
Những chi phí đó chỉ có CTCK hoạt động chuyên nghiệp mới có khả năng

trang trải do hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô lớn. Như vậy, nhờ lợi thế của 1
tổ chức trung gian, chuyên môn hoá cao làm cầu nối cho các bên mua bán gặp
nhau, các CTCK giúp cho nhà ĐT tiết kiệm được chi phí trong giao dịch cũng
như tổng thể thị trường, giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường.
3.6 Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trƣờng
Ngoài các loại CK truyền thống là cổ phiếu ( thường và ưu đãi) và
trái phiếu, các CTCK hiện nay còn bán trái phiếu Chính phủ ( trung ương và
địa phương), chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng
quyền lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi
trên thị trường và môi trường kinh tế.
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
14
Trong những thị trường mới nổi, hàng hoá và dịch vụ còn nghèo nàn,
đơn điệu, nếu được tổ chức phát triển tốt, các CTCK còn có thể góp phần cải
thiện được môi trường đầu tư này.Một môi trường đầu tư tốt đa dạng về sản
phẩm, với chi phí thực hiện thấp và có lợi nhuận thoả đáng sẽ thu hút được
nguồn vốn nhàn rỗi cho tăng trưởng kinh tế.
4. Mô hình công ty chứng khoán
4.1 Mô hình CTCK
Hoạt động của các CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các
doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì CTCK là một loại
hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh
doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mô hình tổ chức
kinh doanh của CTCK ở mỗi nước đều có đặc điểm của hệ thống tài chính và
sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý Nhà nước. Tuy
nhiên có thể khái quát thành 2 mô hình cơ bản :
4.1.1 Mô hình đa năng kinh doanh CK và tiền tệ
Theo mô hình này, các NHTM hoạt động với tư cách là chủ thể kinh
doanh CK, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. mô hình này chia làm 2 loại:

- Loại đa năng 1 phần : Các NH muốn kinh doanh CK, kinh doanh
bảo hiểm, phải lập công ty độc lập hoạt động tách rời. Mô hình này được áp
dụng tại 1 số nước : Anh, Canada, úc …
 Đặc điểm: của mô hình này là kinh doanh CK và kinh doanh tín
dụng được tách ra độc lập trong hạch toán kinh doanh. Nghĩa là các
CTCK có tư cách pháp nhân riêng và chịu trách nhiệm bằng vốn sở hữu
riêng của CTCK.
 Ƣu điểm : - Hoạt động của CTCK không ảnh hưởng gì tới hoạt
động ngân hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ, do đó, nó không gây
ra rủi ro cho các ngân hàng hay tổ chức tài chính là công ty mẹ.
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
15
Thích hợp với các nền kinh tế đang phát triển. Do trình độ quản lý của
các nền kinh tế đang phát triển còn thấp nên sử dụng mô hình này an toàn hơn
và có điều kiện thực hiện hơn. Nếu thành lập một CTCK mới sẽ có ít nhà đầu
tư mạo hiểm nào muốn đứng ra bỏ vốn kinh doanh vì có thể họ không am
hiểu gì về kinh doanh trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy, nếu để cho các tổ chức
tài chính đang hoạt động, có vốn lớn, có thị trường lớn, đứng ra thành lập
công ty con thì tính khả thi sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ như ở Việt Nam, các
CTCK thành lập từ những ngày đầu là các công ty con của các NHTM, am
hiểu sâu sắc các công ty phát hành và niêm yết trên TTCK nhờ vào sự hoạt
động lâu năm của các công ty mẹ trên TTCK.
 Nhƣợc điểm : - Quy mô thường nhỏ, lệ thuộc vào vốn của công
ty mẹ cấp cho. Hội đồng quản trị của CTCK thường là người của công ty
mẹ nên nó càng bị lệ thuộc vào chiến lược kinh doanh của công ty mẹ. Ví
dụ : Khi công ty mẹ muốn mở rộng thị trường tín dụng thì thị trường phát
hành CK bị thu hẹp lại, do các doanh nghiệp thay vì phát hành CK để vay
nợ trên thị trường tài chính thì họ lại đi vay ngân hàng để thoả mãn nhu
cầu vốn. Khi Ngân hàng mẹ ra sức thu hút tiền gửi tiết kiệm thì tiền được

đầu tư vào TTCK sẽ giảm và ngược lại.
Nó không có quyền tự huy động vốn để kinh doanh, không hoạt động
tín dụng, bị lệ thuộc vào công ty mẹ.
- Loại đa năng hoàn toàn:
Các ngân hàng được kinh doanh CK, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh
kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được áp dụng ở Đức, Hà Lan,Thụy Sỹ, áo
 Ƣu điểm :
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
16
Ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt
rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến
động của TTCK.
Tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh CK. Ví dụ
: Khi thành lập 1 CTCK độc lập, ta phải có HĐQT, ban điều hành riêng, có
trụ sở, phương tiện hoạt động riêng. Trong khi nếu hoạt động đa năng hơn thì
HĐQT, ban điều hành không phải riêng biệt …nên chi phí quản trị giảm rất
nhiều.
Khi nguồn vốn của NH, tổ chức tài chính là công ty mẹ chưa sử dụng
đợc sẽ đưa vào dự trữ CK, điều đó tăng khả năng sinh lợi cho tài sản kinh
doanh. Ví dụ : Công ty bảo hiểm khi thu hút được phí bảo hiểm sẽ có điều
kiện dự trữ CK ngay nên khả năng sinh lời rất cao.
 Hạn chế:
Không phát triển được thị trường cổ phiếu vì các NH có xu hướng bảo
thủ và thích hoạt động cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, TP.
Dễ gây lũng đoạn thị trường và các biến động trên TTCK, nếu có, sẽ
ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của NH này.
Khi CTCK đi vào kinh doanh, các sản phẩm phát sinh như hợp đồng
quyền chọn ( Options), hợp đồng tương lai ( Future)… có thể mang lại lợi ích
lớn nhưng cũng có thể mang lại rủi ro rất cao.

Khi HĐQT có khuynh hướng gì sẽ ảnh hưởng lớn đến chiến lược
chung của tổ chức tài chính. Do đó, nếu HĐQT có khuynh hướng xem cho
vay là nghiệp vụ kinh doanh có tính chiến lược thì hoạt động KDCK sẽ yếu
đi. Ngược lại thì hoạt dộng KDCK sẽ bành trương mau lẹ và có thể bị rủi ro.
Sự không tách bạch giữa các nghiệp vụ kinh doanh CK với nghiệp vụ
cho vay còn làm cho quá trình quản lý khá phức tạp, nhất là sự quản lý của bộ
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
17
phận quản lý cao nhất như HĐQT và ban điều hành. Và điều này có thể
không kiểm soát được hết mọi hoạt động của tài chính tín dụng và có thể bị
các nhân viên bên dưới lợi dụng hoặc kinh doanh sai lệch định hướng chung
của tổ chức tín dụng, hoặc kinh doanh thiếu hiệu quả mà không thể được chấn
chỉnh kịp thời.
4.1.2 Mô hình chuyên doanh chứng khoán
Hoạt động chuyên doanh CK sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn
hoá trong lĩnh vực CK đảm nhận, các NH, tổ chức tài chính, công ty bảo hiểm
không được tham gia kinh doanh CK. Mô hình này được áp dụng ở nhiều
nước, trong đó đáng chú ý là Mỹ, Nhật, Hàn…
Sở dĩ người ta không cho phép các tổ chức tài chính khác kinh doanh
CK vì sợ rằng những hoạt động của CTCK khi được thực hiện đồng thời với
các hoạt động như cho vay, thanh toán, sẽ làm hoạt động kinh doanh CK và
hoạt động cho vay gặp nhiều rủi ro hơn.
 Ưu điểm:
Hạn chế rủi ro cho hệ thống NH và các tổ chức tài chính khác
Tạo điều kiện cho TTCK phát triển mang tính chuyên môn hoá cao

 Nhược điểm:
Không thích hợp với thị trường các nước đã phát triển và trong thời
gian gần đây, các nước này đã có xu hướng giảm dần các hạn chế về kinh

doanh CK với NHTM và từng bước mở rộng quyền của các NHTM, công ty
tài chính, bảo hiểm tham gia vào hoạt động kinh doanh trên TTCK.
4.2 Hình thức pháp lý của các CTCK
4.2.1 Công ty hợp danh:
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
18
Công ty hợp danh là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở
lên. Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý được gọi là
thành viên hợp danh.Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn,
tưc là phải chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp danh bằng
toàn bộ tài sản của mình.
4.2.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đây là công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới hạn trong
số vốn mà họ đóng góp. Vì thế, điều này gây tâm lý nhẹ nhàng hơn đối với
nhà đầu tư. Mặt khác, về phương diện huy động vốn cũng đơn giản và linh
hoạt hơn. so với công ty hợp danh.
4.2.3 Công ty cổ phần
Là một pháp nhân thành lập với các chủ sở hữu là các cổ đông.
ĐHCCD có quyền bầu HĐQT. Hội đồng này sẽ quy định ra các chính sách
của công ty.và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều
hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra. CTCP
5. Các nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của công ty chứng khoán
5.1 Nghiệp vụ môi giới CK
Môi giới CK là 1 hoạt động kinh doanh CK trong đó môt CTCK đại
diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế GD tại SGDCK
hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm với hậu quả
kinh tế của việc giao dịch đó.
5.1.1 Chức năng của hoạt động MGCK
CTCK cung cấp dịch vụ môi giới với 2 tư cách:

 Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư : cung cấp
cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư.
 Nối liền những người bán và những người mua : đem đến cho
khác hàngtất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
19
 Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết :
Trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra
những lời động viện kịp thời.
 Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức ( điển hình là sợ hãi và
tham lam).
 Để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo.
5.1.2 Những đặc trƣng của nghề MGCK
 Lao động cật lực, thù lao xứng đáng.
 Những phẩm chất cần có : kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và
ứng xử.
 Nỗ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ
trợ của công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân
tích cũng như việc thực hiện các lệnh của khách hàng.
5.2 Nghiệp vụ tự doanh CK
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán các CK cho
chính mình.
Hoạt đông tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị
trường giao dịch tập trung ( thị trường giao dịch CK, SGDCK ) hoặc trên thị
trường OTC…Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các
CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của
khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện
trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng
thông tin. Tại một số nước, hoạt động tự doanh của CTCK còn được thực hiện

thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Trong hoạt động này, CTCK đóng vai
trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại CK
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
20
và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh
lệch giá
Mục đích của hoạt động tự doanh của các CTCK nhằm thu lợi cho
chính mình. tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị
trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các CTCK khi thực hiên nghiệp dụ tự
doanh phải đáp ứng một số yêu cầu.
5.3 Nghiệp vụ bảo lãnh PHCK.
Bảo lãnh PH là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức PH thực hiện các thủ
tục trước khi chào bán CK và giúp bình ổn giá CK trong giai đoạn đầu sau khi
phát hành.Như vậy, bảo lãnh PH bao gồm cả việc tư vấn tài chính và phân
phối CK.
Việc bảo lãnh PH thường được thực hiện theo một trong các phươg
thức sau:
 Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà
theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số CK phát hành cho dù có
phân phối được hết CK hay không.Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo
cam kết chắcn chắn, một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp
để mua CK của tổ chức PH với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công
chúng ( POP) và bán lại CK đó ra công chúng theo giá POP.
 Bảo lãnh theo phƣơng thức dự phòng: Là việc tổ chức bảo
lãnh cam kết sẽ mua nốt số CK còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức
PH và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức
bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh PH
dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất.
 Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: Là phương thức bảo lãnh mà

theo đó tổ chứcbảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
21
chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số CK mà cam kết sẽ cố gắng hết
sức để bán CK ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết thì sẽ trả lại
cho tổ chức phát hành số CK còn lại.
 Bảo lãnh theo phƣơng thức bán tất cả hoặc không: theo
phương thức này, tổ chức phát hành sẽ yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số
CK nhất định, nếu không phân phốiđược hết sẽ huỷ toàn bộ đợt PH
 Bảo lãnh theo phƣơng thức tối thiểu- tối đa: là phương thức
trung gian giữa bảo lãnh với cố gắng cao nhất và bảo lãnh theo phương thức
bán tất cả hoặc không. theo phương thức này tổ chức phát hành yêu cầu tổ
chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ CK nhất định (mức sàn). Vượt trên
mức ấy tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán CK đến mức tối đa quy định
(mức trần). Nếu lượng CK bán được đạt tỷ lệ thấp hơn yêu cầu (mức sàn) thì
toàn bộ đợt phát hành bị huỷ.
5.4 Nghiệp vụ tƣ vấn đầu tƣ:
Nội dung của hoạt động tư vấn là đưa ra những lời khuyên, phân tích
các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách
hàng.
Do giá cả CK thường luôn biến động nên việc tư vấn về giá trị CK rất
khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là với
hoạt động này, các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về giá
trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán-việc này có thể do khả năng
của họ hoặc họ cố tình gây hiểu lầm để kiếm lợi. Do vâỵ, đây là một hoạt
động nghiệp vụ cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn
nhất định trong khi thực hiện công việc.
Nghiệp vụ tư vấn đầu tư được phân loại theo 3 tiêu chí:
 Theo hình thức của hoạt động tƣ vấn

Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
22
- Tư vấn trực tiếp: tức là khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với nhà tư
vấn hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax, … để hỏi
ý kiến.
- Tư vấn gián tiếp: là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hoặc đưa
thông tin lên những phương tiện truyền thông như Internet để bất kỳ khách
hàng nào cũng có thể tiếp cậnh được nếu muốn.
 Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động tƣ vấn
- Tư vấn gợi ý: ở mức độ này, người tư vấn chí có quyền nêu ý kiến của
mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những
phương pháp cách thức xử lý nhưng quyền quyết định vẫn là của khách hàng.
- Tư vấn uỷ quyền: Với nghiệp vụ này nhà tư vấn tư vấn và quyết định
hộ khách hàng theo mức độ uỷ quyền của khách hàng.
 Theo đối tƣợng của hoạt động tƣ vấn
- Tư vấn cho người phát hành: hoạt động tư vấn cho người phát hành
tương đối đa dạng , từ việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị
của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành hay giúp công ty
phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp nhập với công ty khác.
- Tư vấn đầu tư: là hoạt động tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua
bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị trường.
Các cách phân loại hoạt động tư vấn như vậy đan xen vào nhau và làm
nên tính phong phú của hoạt động này. Muốn đi sâu vào từng hoạt động một
ta có thể đi theo cách phân loại thứ ba, từ đó có cái nhìn tổng quan hơn với
toàn bộ hoạt động.
Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
23
5.5 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tƣ

Bản chất của quản lý danh mục đầu tư CK là định lượng mối quan hệ
qiữa rủi ro và lợi tức thu được.
Đặc điểm của hoạt động này:
 Theo hình thứ quản lý, hoạt động quan lý danh mục đầu tư có hai
hình thức: tự mình ra quyết định đầu tư cho chính danh mục đầu tư của
mình và nhờ người khác quản lý cho mình trên nguyên tắc thoả thuận
trước.
 Việc thuê người khác quản lý danh mục đầu tư: đây là nguyên
tắc quản lý dựa trên cơ sở pháp lí tách bạch quyền sở hữu thành ba quyền
là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt và thực hiện dựa
trên quan hệ uỷ thác, quản lý tài sản. quản lý đầu tư bằng việc tài sản uỷ
thác đầu tư được giao cho một bên thứ ba, độc lập về lợi ích, chịu trách
nhiệm giám sát, quản lý tài sản uỷ thác.
 Có nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động quản lý quỹ, quản lý
danh mục đầu tư và quan hệ giữa các chủ thể này rất phức tạp nhưng tạo
thành một tổng thể thống nhất, mỗi chủ thể có quyền và nghĩa vụ riêng và
luôn luôn tồn tại xung đột lợi ích giữa các chủ thể.
 Các nhà đầu tư tham gia thị trường bằng cách mua các loại
chứng khoán do các tổ chức phát hành. Do vậy, nhà đầu tư là người gánh
chịu những rủi ro, chấp nhận lãi, lỗ dựa trên sự tăng giá hay giảm giá của
các loại CK đó và khoản thu nhập do tổ chức phát hành chia.


Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam : Thực trạng và giải pháp
Đặng Thị Minh Châu – N2-KTNT K42
24
6. Quy định về vốn điều lệ của CTCK
Nếu như năm 2006, để thành lập một CTCK, người ta cần mức vốn
pháp định là 43 tỷ đồng , thì từ ngày 1/1/2007 con số này sẽ là 300 tỷ nếu
thực hiện cả 4 nghiệp vụ môi giới, bảo lãnh, tư vắn và tự doanh CK. Căn cứ

theo thông báo của UBCKNN, những đơn vị nộp hồ sơ sau thời gian
31/10/2006 sẽ phải thực hiện theo các quy định khắt khe hơn, đặc biệt là yêu
cầu về quy mô vốn điều lệ. Hồ sơ xin thành lập CTCK hay công ty quản lý
quỹ đầu tư CK nộp sau ngày 31/10 sẽ được thẩm định theo các quy định mới
của Luật CK. Theo điều 18 chương 5 của nghị định “Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Chứng khoán” số 14/2007/NĐ-CP của Chính phủ
quy định như sau:
 Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, CTCK
có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh CTCK nước ngoài tại Việt Nam là :
a) Môi giới chứng khoán : 25 tỷ đồng Việt Nam.
b) Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam.
c) Bảo lãnh phát hành chứng khoán : 165 tỷ đồng Việt Nam.
d) Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam
Trường hợp tổ chức đề nghị cấp giấy phép cho nhiều nghiệp vụ kinh doanh,
vốn pháp định là tổng số vốn pháp định tương ứng với từng nghiệp vụ xin cấp
phép.
 Mức vốn pháp định của công ty quản lý quỹ, công ty quản lý quỹ
cóvốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt
Nam tối thiểu là 25 tỷ đồng Việt Nam. Bộ Tài chính quy định cụ thể mức vốn
pháp định của công ty quản lý quỹ dựa trên quy mô vốn được uỷ thác quản
lý.

×