PHÂN TÍCH CHUYÊN ĐỀ: CÁC THUYẾT TRONG TÂM LÝ HỌC
NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI BÁO CÁO:
GVHD:
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày …tháng …năm 20
1.1.
Tâm lý cấp thấp và chức năng của tâm lý cấp thấp
Tâm lý là khái niệm chung hàm chứa nhiều hiện tượng chủ quan được tâm lý học
nghiên cứu. Quan niệm duy vật biện chứng khẳng định tâm lý là thuộc tính của vật
chất sống có tổ chức cao tự điều khiển sự phát triển và tự nhận thức.
Tiêu chuẩn xác định sự nảy sinh tâm lý ở một cơ thể sống là khả năng đáp lại các
tác động của ngoại giới có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự tồn tại và phát
triển của cơ thể.
Các hiện tượng tâm lý là kết quả của quá trình tiến hóa sinh học lâu dài của vật
chất sống. Sau khi xuất hiện sự sống rất lâu tâm lý mới xuất hiện (sự sống xuất
hiện cách nay 2-3 tỷ năm).
Sự phát triển của tâm lý, giống như các hiện tượng khác trong tự nhiên và xã hội,
mang tính chất tăng tiến và có sự chuyển biến theo quy luật từ các hình thức đơn
giản, thấp hơn đến các hình thức cao hơn, phức tạp hơn, hoàn thiện hơn.
Ở các sinh vật sống đơn giản nhất người ta đã quan sát thấy khả năng phản ứng có
chọn lọc đối với các tác động khác nhau của mơi trường bên ngồi. Ví dụ, con
amíp – một tế bào sống chứa đầy chất nguyên sinh, đã có thể di chuyển rời xa một
số kích thích này để đến gần một số kích thích khác. Đó là hình thức thích nghi sơ
khai của các cơ thể đơn giản nhất đối với mơi trường bên ngồi. Hình thức thích
nghi này được gọi là “tính hướng”. Các động tác của con amíp có được nhờ tính
chịu kích thích mà nó có.
Trải qua nhiều thế kỷ, xuất hiện các cơ thể sống có tổ chức thần kinh-cơ phức tạp
hơn. Xuất hiện những hành vi thích nghi phức tạp hơn như vồ lấy thức ăn vừa
trông thấy (gọi là phản xạ thức ăn), quay thân về phía có kích thích đột ngột (phản
xạ định hướng)… Hành vi thích nghi này được gọi là phản xạ không điều kiện – là
những sự đáp lại trực tiếp có tính quy luật của sinh vật đối với những kích thích
bên ngồi nhờ các cơ chế của thần kinh-cơ được củng cố trong quá trình phát sinh
chủng loại. Ở giai đoạn này xuất hiện và dần hoàn thiện các cảm giác. Tâm lý xuất
hiện ngay khi các cảm giác còn ở dạng sơ khai.
Trong quá trình phát triển tiếp theo của sự sống, cùng với sự hoàn thiện hệ thần
kinh, các phản xạ khơng điều kiện đơn giản ngày càng được hồn thiện. Xuất hiện
khả năng đáp lại các kích thích phức tạp (tổng hợp) xuất phát từ mơi trường bên
ngồi cũng như môi trường bên trong bằng một chuỗi phản xạ không điều kiện có
tính dây chuyền – phản xạ khơng điều kiện phức tạp hay bản năng. Ở giai đoạn này
khả năng phản ánh thể hiện với chất lượng khá cao – sự phản ánh xuất hiện không
phải dưới dạng các cảm giác tách rời mà dưới dạng các thụ cảm hoàn chỉnh (tri
giác) cho phép cơ thể sống thay đổi các thao tác cho tương ứng với các đặc điểm
và tính chất của các vật thể. Ở đây cũng xuất hiện một hình thức phản ánh tâm lý
quan trọng khác - các cảm xúc liên quan đến bản năng.
Hình thức hành vi xuất hiện tiếp theo bản năng là phản xạ có điều kiện (hay kỹ
xảo) của động vật. Kỹ xảo là những phản xạ có điều kiện phức tạp bảo đảm sự
thích nghi có phân biệt của động vật đối với các điều kiện luôn thay đổi của mơi
trường và do đó thỏa mãn đầy đủ hơn các nhu cầu của động vật. Các kỹ xảo hình
thành và củng cố trong quá trình sinh sống của cá thể và giúp các cá thể thích nghi
tốt hơn với môi trường. Các kỹ xảo đạt đến mức độ phát triển cao ở các động vật
có bán cầu đại não. Sự phát triển tâm lý ở giai đoạn này đặc trưng bởi trình độ
phân biệt cao của cảm giác và tri giác. Các lồi động vật có khả năng phản ánh
khơng chỉ các vật thể và tính chất của các vật thể mà còn quan hệ giữa các vật thể.
Xuất hiện phản xạ về quan hệ. Nếu như ở giai đoạn bản năng hành vi của động vật
dựa trên cơ sở nhận thức trực tiếp thì ở giai đoạn kỹ xảo đã xuất hiện khả năng
thực hiện hành vi dựa trên các biểu tượng lưu giữ trong trí nhớ.
Bắt đầu phát triển từ khả năng tổng hợp các biểu tượng, các loài động vật thực
hiện việc chuyển các thao tác vận dụng trong một hành vi sang một hành vi khác
giống với hành vi đó. Điều này chuẩn bị cơ sở cho việc hình thành một hành vi
mới về chất – hành vi trí tuệ.
Ở các lồi động vật bậc cao (từ lồi có vú), khi gặp phải những tình huống khó
khăn bất thường mà bản năng và kỹ xảo không đủ để khắc phục, xuất hiện một loại
hành vi mới - hành vi trí tuệ. Hành vi trí tuệ là những hành vi mà trong đó, trên cơ
sở phản ánh các mối liên hệ và quan hệ tồn tại giữa các vật thể, con vật giải quyết
những nhiệm vụ mới mà nó chưa hề gặp trong kinh nghiệm trước đây. Đây là hình
thức thích nghi cao của động vật đối với môi trường xung quanh. Cơ sở của các
hành vi này là những mối liên hệ phản xạ có điều kiện phức tạp.
Trong q trình phát sinh chủng loại hành vi trí tuệ phát triển và phức tạp hóa dần
dần. Những hành vi trí tuệ đơn giản như đi đường vòng đã xuất hiện ở những động
vật có hệ thần kinh phát triển. Ở những động vật bậc cao như hắc tinh tinh các
hành vi này có hình thức của việc tìm những cách thức mới để giải quyết nhiệm vụ
bằng cách sử dụng các đồ vật khác nhau làm cơng cụ.
Hành vi trí tuệ ở động vật, tuy nhiên, vẫn mang tính ngun thủy, khơng vượt khỏi
giới hạn của một số nhiệm vụ do điều kiện sống tự nhiên của chúng tạo ra.
1.2. Tâm lý cấp cao và chức năng của tâm lý cấp cao
Sự phát triển tiếp theo của tâm lý ở trình độ con người, theo quan điểm duy vật
biện chứng, chủ yếu diễn ra nhờ vào sự phát triển trí nhớ, lời nói, tư duy và ý thức.
Các yếu tố quyết định sự phát triển tiếp theo này sự phức tạp hóa hoạt động, sự
hồn thiện cơng cụ lao động và việc sử dụng rộng rãi các hệ thống ký hiệu. Nhờ
các yếu tố này, ở người không chỉ có các mức độ tổ chức thấp của các quá trình
tâm lý, mà cịn xuất hiện các chức năng tâm lý cấp cao.
Ở loài người, sự phát triển vượt bậc về tâm lý được thúc đẩy bởi ba thành tựu cơ
bản của cả nhân loại: việc chế tạo công cụ lao động; sự sản xuất các đối tượng văn
hóa vật chất và tinh thần; sự xuất hiện ngôn ngữ và lời nói.
Nhờ có cơng cụ lao động con người có khả năng tác động lên thế giới tự nhiên và
hiểu tự nhiên sâu sắc hơn – khám phá được cả các thuộc tính trừu tượng của thế
giới (ví dụ độ cứng của đá, của gỗ…). Sự hồn thiện cơng cụ lao động và việc thực
hiện các thao tác lao động bằng công cụ làm cải tổ chức năng của bàn tay. Bàn tay
trở thành công cụ lao động tinh tế nhất, đồng thời cũng trở thành công cụ nhận
thức thế giới. Đôi mắt người học theo đôi tay và trở thành công cụ nhận thức thế
giới một cách tinh tế. Đôi tay và đôi mắt thúc đẩy sự phát triển của tư duy và tạo
nên những yếu tố cơ bản của đời sống tinh thần của con người.
Những đối tượng văn hóa vật chất và tinh thần được lồi người sáng tạo từ thế hệ
này qua thế hệ khác không mất đi mà được truyền lại, được tái tạo, được hoàn
thiện. Cơ chế truyền đạt các năng lực, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo được thay đổi – để
đạt đến một trình độ mới về phát triển tâm lý và hành vi đã không cần phải thay
đổi bộ mã di truyền, giải phẫu hay sinh lý các cơ quan cơ thể. Chỉ cần có một bộ
não mềm dẻo với bộ máy giải phẫu sinh lý phù hợp là con người có thể học được
cách sử dụng những đối tượng của nền văn hóa vật chất và tinh thần do các thế hệ
trước để lại. Con người đã bước ra khỏi ngưỡng của giới hạn sinh học và mở ra khả
năng hồn thiện bản thân vơ tận.
Nhờ sự sáng tạo, hồn thiện và sử dụng rộng rãi hệ thống ký hiệu, lồi người có
khả năng vơ cùng to lớn trong việc gìn giữ, tích lũy kinh nghiệm dưới dạng các văn
bản, sản phẩm lao động sáng tạo và truyền lại cho thế hệ sau. Thế hệ sau chỉ việc
tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo do thế hệ trước để lại và trở thành những
con người văn minh. Hơn thế nữa, do chỗ q trình “người hóa” diễn ra rất sớm,
ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc sống, từng người cịn đủ thời gian để đóng
góp phần của mình vào kho tàng của nhân loại, và bằng cách đó nhân lên gấp bội
nền văn hóa lồi người. Việc sáng tạo ra chữ viết đã tạo ra khả năng to lớn cho việc
ghi chép, gìn giữ và tái hiện thơng tin. Lồi người khơng cịn phải gìn giữ kinh
nghiệm trong đầu từng người, và do đó thốt khỏi nguy cơ đứt mạch thơng tin do
người giữ thơng tin mất tích hay chết.
Trong thế giới hiện nay, việc sáng tạo ra những phương thức ghi chép, gìn giữ và
tái hiện thơng tin mới như băng ghi âm, ghi hình, đĩa CD, mạng thơng tin internet
và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác đã đặt loài người trước ngưỡng cửa của
một cơ hội mới về chất cho sự phát triển tâm lý.
Các hệ thống ký hiệu, đặc biệt lời nói, đồng thời cũng trở thành phương tiện để
con người tác động lên chính bản thân mình, điều khiển chú ý, tri giác, trí nhớ, tư
duy và các quá trình tâm lý khác ở bản thân. Bên cạnh hệ thống tín hiệu thứ nhất
mà con người về cơ bản được thiên phú (1), con người cịn hình thành được hệ
thống tín hiệu thứ hai thể hiện ở từ ngữ. Từ ngữ với nghĩa nhất định thống nhất quy
ước thay thế cho sự vật, hiện tượng thực. Chúng tác động lên con người giống như
sự vật hiện tượng thực tác động. Hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở hình thành sự tự
điều khiển, tự điều chỉnh. Nhờ đó, tri giác trở nên có tính đối tượng, tính ổn định,
tính ý nghĩa, tính cấu trúc; chú ý trở nên có chủ định; trí nhớ trở thành logic, tư duy
– trừu tượng. Trên thực tế, nhờ ngơn ngữ, tất cả các q trình tâm lý vượt ra ngồi
khn khổ của sự giới hạn sinh học, hồn thiện vơ tận.
Câu 5: Các q trình tâm lý và sự thay đổi quá trình tâm lý
Quá trình tâm lý là những hoạt động có khởi đầu, có diễn biến, có kết thúc nhằm
biến những tác động bên ngồi thành hình ảnh tâm lý bên trong.
Quá trình tâm lý là nguồn gốc của đời sống tinh thần, xuất hiện như một yếu tố
điều chỉnh ban đầu với hành vi con người (có đặc điểm TL, có kinh nghiệm sống,
có kiến thức, có bản lĩnh...) gồm các q trình:
Q trình nhận thức: là quá trình phản ảnh bản thân hiện tượng khách quan (cảm
giác, tri giác, biểu tượng, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy,)
- Quá trình cảm xúc: là những rung cảm của chủ thể khi nhận thức thế giới bên
ngồi từ đó biểu thị thái độ đối với khách quan bên ngồi.
- Q trình ý chí: là q trình điều khiển, điều hành động của chủ thể nhằm cải
tạo thế giới, thỏa mãn yêu cầu cá nhân và xã hội (khơng khí điều khiển cá nhân mà
cả thế giới bên ngồi)
Đời sống tâm lý ln phải cân bằng có 3 quá trình trên đây
Nếu thiên về lý trí con người sẽ thiếu tình cảm, tâm hồn khơ khan. Nếu thiên về
tình cảm con người sẽ thiếu sáng suốt.
Thiếu ý chí thì tình cảm con người không thể biến thành hành động.
Câu 6: Sự khác nhau giữa thuyết kiến tạo và thuyết kết nối
Thuyết kiến tạo
Đặc trưng
Thuyết kiến tạo được xây dựng dựa
trên cơ sở nhận thức luận duy vật:
nhận thức là quá trình hoạt động thu
nhận tri thức; bản chất của ý thức là
tích cực, tự giác, sáng tạo theo nhu
cầu biến đổi khách thể.
Phương pháp a. Học trong hoạt động.
Học là một hoạt động đặc thù
của con người, trong đó người học
vừa là chủ thể, vừa là đối tượng tác
động. Cách học tốt nhất là học trong
hoạt động và thông qua hành động.
Việc học sẽ hiệu quả nhất khi
người học được nhập cuộc, được
tiếp xúc với thực tế công việc, được
chủ động làm ra những đồ vật hữu
hình trong thế giới thực. Giáo viên
cần tổ chức được các tình huống để
đưa người học vào hoạt động, qua
đó người học kiến tạo được kiến
thức, phát triển trí tuệ và nhân cách.
Chủ trương tăng cường các mơn học
thực hành, kết hợp hài hịa giữa các
tiết dạy lý thuyết và các tiết dạy
thực hành; hình thành các phân
xưởng chế tạo, các nhà máy sản xuất
trong trường học… là một trong
những cách tiếp cận với lý thuyết
kiến tạo trong dạy học.
b. Học là sự vượt qua khó
khăn.
Những khó khăn trong cuộc
sống, trong hành động tự bản chất
Thuyết kết nối
Là q trình nhận thức có
hệ thống. Các kiến thức
được kết nối một cách
chặt chẽ với nhau như
mạng lưới và được lưu
trữ trong bộ não.
Mỗi một thắt nút là một
đơn vị kiến thức. Nhiều
thắt nút liên kết lại với
nhau tạo thành mạng
lưới. Mạng lưới liên kết
với mạng lưới sẽ tạo
thành mạng lưới kiến
thức lớn hơn, và cứ thế.
Một khi kiến thức mới
được người học dị tìm có
liên quan đến những kiến
thức cũ, người học sẽ tiếp
thu, biến nó thành một
hay nhiều thắt nút và kết
nối với những thắt nút cũ
để mở rộng mạng lưới.
Thuyết kết nối nhấn
mạnh khả năng tư duy có
hệ thống của người học
như một quy luật tự nhiên để phát
triển và thăng tiến cuộc sống. Khó
khăn trong học tập địi hỏi người
học phải vượt qua để thể hiện sứ
mạng, trách nhiệm và bổn phận của
mình một cách tốt nhất có thể. Khó
khăn là yếu tố hình thành nhân cách,
là cơ hội làm lớn mạnh và là điều
kiện để tiến hóa tinh thần. Trong
quá trình tìm kiếm kiến thức, tư duy
người học sẽ được thúc giục.
Trong thực tế, khơng ít giáo
viên vì "thương" người học, "thơng
cảm" cho khó khăn của người học
mà bỏ qua khâu này khâu khác,
không dám tiếp cận với các nguyên
tắc mới trong dạy học, thậm chí đảo
lộn logic của một quy trình giảng
dạy…
c. Học trong sự tương tác.
Theo lý thuyết kiến tạo,
việc người học tiếp nhận được thông
tin không phải diễn ra nhờ q trình
chuyển thơng tin từ giáo viên đến bộ
não của người học; thông qua sự
tương tác trong quá trình học, người
học sẽ tự xác lập nên kiến thức của
mình. Tổ chức đàm thoại trong dạy
học là nền tảng cơ bản để giáo viên
xây dựng những bài giảng tích cực
theo lý thuyết này.
d. Học thơng qua hoạt động
giải quyết vấn đề.
Đặc trưng học thông qua hoạt
động giải quyết vấn đề nhấn mạnh
quan điểm cho rằng học sinh phải là
người tự lực, tích cực hành động tìm
tịi, khám phá đối tượng học tập để
hình thành cho mình các nguyên tắc,
các ý tưởng cơ bản từ các tình
huống học tập cụ thể. Dạy học thông
qua giải quyết vấn đề, giáo viên cần
cung cấp nhiều tình huống để người
học có thể đặt câu hỏi, khám phá và
thực nghiệm cho đến tìm ra được
các nguyên tắc, các ý tưởng, mối
liên hệ cơ bản trong cấu trúc môn
học.
Hoạt động
- Tạo khơng khí học tập. Mục đích
của người học và những vấn đề làm
người học thực sự hứng thú là ưu
tiên trước nhất của giáo viên. Kiến
thức là tùy biến, đột hiện, không
phải là sao chép hay phỏng theo
nguyên mẫu.
Nhờ vào hệ thống hóa
kiến thức, người học có
khả năng học được nhiều
kiến thức và trình bày
chúng một cách lơ-gích.
Do đó, để đẩy nhanh quá
trình nhận thức, kiến thức
cần phải được trình bày
- Tạo điều kiện để người học
một cách có hệ thống,
bộc lộ quan niệm riêng; tổ chức cho các thắt nút của vấn đề
người học tranh luận về những quan phải tương thích với
niệm của mình. Giáo viên và học
những thắt nút kiến thức
sinh cùng đàm luận, nhưng chỉ với ý có sẵn được tích lũy
tưởng và thao tác. Giáo viên chỉ
trong tri thức của người
xuất hiện khi người học kiến tạo tri học.
thức. Tri thức là quyền lực, vai trò
của giáo viên là trao đổi, thương
lượng, tương tác để xác lập quyền
lực ấy
- Trọng tài trong những
trường hợp ý kiến tranh luận khơng
ngã ngũ. Người học chỉ có thể và
phải làm việc hợp tác với nhau. Học
tập là tương tác, vận dụng kinh
nghiệm của nhau để thực hành
những trải nghiệm cá nhân.
- Tạo điều kiện và giúp người
học nhận ra các quan niệm sai lầm
của mình và tự giác khắc phục
chúng.
- Trình bày tính hiển nhiên
của các quan niệm khoa học.
- Tổ chức cho người học kiểm
tra và vận dụng kiến thức thu nhận.
7 . : Mối quan hệ giữa thuyết hoạt động và thuyết kiến tạo
Thuyết kiến tạo của J. Bruner là lý thuyết về sự nhận thức được bắt nguồn từ tư
tưởng của J.Piaget. Tư tưởng cốt lõi của thuyết kiến tạo là: tri thức được xuất hiện
thông qua việc chủ thể nhận thức tự cấu trúc vào hệ thống bên trong của mình, tri
thức mang tính chủ quan. Với việc nhấn mạnh vai trị chủ thể nhận thức trong việc
giải thích và kiến tạo tri thức, thuyết kiến tạo thuộc lý thuyết chủ thể. Cần tổ chức
sự tương tác giữa người học và đối tượng học tập, để giúp người học xây dựng
thơng tin mới vào cấu trúc tư duy của chính mình, đã được chủ thể điều chỉnh. Học
khơng chỉ là khám phá mà cịn là sự giải thích, cấu trúc mới tri thức
Theo J. Bruner, khơng có kiến thức khách quan tuyệt đối. Kiến thức là một quá
trình và là sản phẩm được kiến tạo theo từng cá nhân (tương tác giữa đối tượng học
tập và người học); Về mặt nội dung, dạy học phải định hướng theo những lĩnh vực
và vấn đề phức hợp, gần với cuộc sống và nghề nghiệp, được khảo sát một cách
tổng thể; Việc học tập chỉ có thể được thực hiện trong một quá trình tích cực, vì chỉ
từ những kinh nghiệm và kiến thức mới của bản thân thì mới có thể thay đổi và cá
nhân hóa những kiến thức và khả năng đã có; Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan
trọng góp phần cho người học tự điều chỉnh học tập của bản thân mình; Học qua
sai lầm là điều rất có ý nghĩa; các lĩnh vức học tập cần định hướng vào hứng thú
người học, vì có thể học hỏi dễ nhất từ những kinh nghiệm mà người ta thấy hứng
thú hoặc có tính thách thức;
TKT khơng chỉ giới hạn những khía cạnh nhận thức của việc dạy và học. Sự học
tập hợp tác địi hỏi và khuyến khích phát triển khơng chỉ có lý trí mà cịn phát triển
cả về mặt tình cảm, giao tiếp; Mục đích học tập là xây dựng kiến thức của bản thân
nên khi đánh giá các kết quả học tập không định hướng theo các sản phẩm học tập,
mà cần kiểm tra những tiến bộ trong quá trình học tập và trong những tình huống
học tập phức tạp.
Để học tập một cách có hiệu quả thì người học phải kết hợp với các hoạt động dạy
học của giáo viên để mang lại hiệu quả học tập. Theo quan điểm lý thuyết về hoạt
động, A.N.Leontiev cho rằng hoạt động “là một tổ hợp các quá trình con người tác
động vào đối tượng nhằm đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính
kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể”
Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo một chiến lược, chương trình
đã được thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới mục tiêu hình thành và
phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Giáo viên (GV) xây dựng, thiết kế
hoạt động dạy học một cách đầy đủ và cụ thể bao nhiêu thì cơng việc dạy học càng
hiệu quả bấy nhiêu. Vì hầu hết GV đều mong muốn đạt được thành cơng chóng
vánh trong các giờ dạy nên họ thường bỏ qua việc xây dựng chiến lược hoạt động
của thầy một cách lôgic, khoa học và có định hướng. Khi nói về hoạt động dạy của
GV, người ta dễ nghĩ đến sự hoàn chỉnh có tính đơn phương của nó. Từ đó, người
ta xây dựng những “quy tắc vàng” bắt buộc mỗi GV phải tuân thủ một cách đầy
đủ, nghiêm ngặt. Thực tế này dẫn đến tình trạng, nhiều giờ học trở nên nhàm chán,
sa vào truyền thụ tri thức một chiều, không đáp ứng được nhu cầu cá nhân người
học. Thực chất, vì hoạt động của GV là hoạt động lơi cuốn HS và hòa nhịp với
hoạt động của HS nên những “quy tắc vàng” phải đảm bảo tính tương tác. Ý kiến
của Davydov: “Các hoạt động dạy- học là các hoạt động cùng nhau của thầy và
trò” đã chỉ ra sự tương tác trong hoạt động dạy học mang tính đặc thù. Nói là đặc
thù vì, thứ nhất, hoạt động dạy học nằm trong chuỗi hoạt động của con người
nhưng là hoạt động nghề nghiệp, không phải là hoạt động của mọi người. Người
hoạt động dạy học phải có tiêu chuẩn và năng lực nghề nghiệp mới tham gia được
hoạt động này. Thứ hai, hoạt động dạy học là hoạt động tương tác. GV tác động
vào HS, HS phát triển, GV căn cứ vào sự thay đổi ở HS để điều chỉnh hoạt động
dạy. Như vậy, sự tương tác trong hoạt động dạy học không phải là sự tương tác
giữa các cá nhân hay nhóm xã hội với nhau như trong hoạt động kinh tế, chính trị,
hay các hoạt động xã hội khác (ở đó sự tương tác giữa các cá nhân hay nhóm xã
hội nhiều khi khơng cùng mục tiêu, thậm chí trái ngược nhau về lợi ích, v.v.).
Trong khi đó, hoạt động dạy học là “hoạt động cùng nhau của thầy và trò”. Thầy
và trò cùng hướng về một mục tiêu. Năng lực của hoạt động dạy của người thầy và
năng lực học của học sinh được thể hiện ở các mức độ đạt được của mục tiêu
chương trình giáo dục đề ra. Do vậy, hoạt động dạy có kết quả khi nó tác động
cùng hướng với hoạt động học. Hoạt động dạy học có tính tương tác ở chỗ, nó phải
bắt nhịp cùng người học, là người tham gia hoạt động học cả về trí tuệ và tình cảm.
Thứ ba, hoạt động dạy học nhìn từ phía hoạt động của người thầy trong tương tác
với họat động học của trò là hướng dẫn, tổ chức và điều khiển hoạt động học của
HS. Trong cuốn Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, các tác giả đã định
nghĩa hoạt động dạy học như sau: “Hoạt động dạy là hoạt động của người lớn tổ
chức điều khiển hoạt động của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa xã hội,
tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách của chúng”.
Câu 8: Các bước hình thành hành động trí tuệ
Các bước hình thành hành động trí tuệ Theo P.Ia Galpêrin, để hình thành hành
động trí tuệ phải trải qua năm bước sau:
Bước 1: Lập cơ sở định hướng của hành động
Bước 2: Hành động với đồ vật hay vật chất hoá
Bước 3: Hành động nói to khơng dùng đồ vật
Bước 4: Hành động với lời nói thầm
Bước 5: Hành động rút gọn với lời nói bên trong
Mỗi bước nêu trên có một chức năng xác định và có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Trong đó bước lập cơ sở định hướng cho hành động là nhiệm vụ chủ yếu và
là nội dung chính của cả q trình hành động, nó là phần quan trọng nhất trong cơ
chế tâm lý của hành động. Hành động với vật thật hay với dạng vật chất hố của nó
là nguồn gốc của mọi hành động trí tuệ trọn vẹn. Mục đích của nó là phân tích,
tách nội dung đích thực của hành động tâm lý nằm trong đối tượng vật thật (hay
vật chất hoá). Nội dung của bước này là chủ thể dùng tay để triển khai hành động,
luyện tập, khái quát và rút gọn nó.
Trong bước 3 (hành động nói to khơng dùng đồ vật), ngôn ngữ trở thành đối tượng
của hành động. Ở đây ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là hệ thống ký hiệu chứa
nghĩa theo các qui tắc thống nhất, mà cịn là thực tại chứa đựng tồn bộ hành động,
thao tác và vật liệu. Bước 4 (hành động với lời nói thầm) Bản chất của bước này
chính là cấu tạo lại ngơn ngữ, biến các “hình ảnh âm thanh của từ” thành biểu
tượng. Để thực hiện hành động nói thầm trước hết phải triển khai hành động xuất
phát, tức là hành động nói to. Sau đó, hành động này từng bước, từng bước được
tái diễn ở trong đầu. Vì vậy, dạng đầu tiên của hành động trí tuệ thực sự là ngơn
ngữ thầm được triển khai mạch lạc ra ngồi. Đặc điểm của ngôn ngữ thầm ở đây là
cấu trúc ngữ âm, nó là ngơn ngữ ngồi. Do đó khi cần, chủ thể có thể nhanh chóng
chuyển chúng sang dạng nói to, mạch lạc. Mặt khác, về phương diện nghĩa, nó bảo
tồn tồn bộ lơgic của hành động vật chất ban đầu, dưới hình thức âm khơng thành
tiếng, nó chính là điểm tựa vật chất cuối cùng của lôgic hành động ban đầu, dưới
hình thức âm khơng thành tiếng. Thành ra, hành động với lời nói thầm vừa có tính
vật chất, bên ngoài, vừa là hành động tinh thần, bên trong, hành động trên biểu
tượng tâm lý, được hình thành từ các hình ảnh âm thanh. Bước hành động rút gọn
với lời nói bên trong có đặc trưng là ngơn ngữ khơng cịn hướng ra ngồi. Vì vậy,
nó khơng cịn giữ ngun các qui tắc ngữ âm và ngữ pháp mà hồn tồn có tính cơ
động cao và được rút gọn. Trong hình thái này, nội dung vật chất của hành động
được biểu thị trong nghĩa của từ còn âm thanh của từ bị rút gọn tới mức tối đa.
Ngơn ngữ hồn tồn là ngôn ngữ bên trong với đầy đủ chức năng của nó. Như vậy,
theo P.Ia Galpêrin, về ngun tắc, việc hình thành hành động trí tuệ mới nhất thiết
phải trải qua các bước nêu trên, mặc dù trên thực tế, tuỳ đối tượng, một vài bước
đầu của q trình có thể được chủ thể tiếp nhận trước đó. Tuy nhiên, khi huấn
luyện một hành động trí tuệ trọn vẹn phải lưu ý đến sự có mặt của các bước đó
trong tiến trình chung. Điếu này sẽ giúp cho các thầy, cơ giáo và học sinh tránh
được sai lầm, cực đoan trong quá trình giúp đỡ học sinh hình thành khái niệm và
hành động trí tuệ cho mình. Những thao tác trí tuệ đã hình thành trước đây có thể
được “mang ra dùng” với tư cách là những năng lực tư duy vốn có để nắm lấy
hành động mới.
10. Thuyết kết nối là gì?
- Thuyết kết nối là lí thuyết học tập trong đó nhấn mạnh vai trị của bối cảnh văn
hố và xã hội.
-Thuyết Kết nối thường liên quan và đưa ra quan điểm giống với “Vùng cận phát
triển của Vygotsky”, ý tưởng sau hốn chuyển vào thuyết hoạt động của
Engestrưm (2001)
- Mối quan hệ giữa kinh nghiệm làm việc, học tập và kiến thức, được diễn đạt bằng
khái niệm “kết nối”, quyết định cho thuyết Kết nối, thúc đẩy hình thành tên của lí
thuyết này. Nó hơi giống với thuyết học tập xã hội của Bandura
đưa ra quan điểm mọi người học qua giao tiếp.
-Cụm từ "lí thuyết học tập cho thời đại kĩ thuật số" đã nhấn mạnh thuyết Kết nối
và ảnh hưởng của công nghệ đối với cách mọi người sống, truyền đạt và học. Lí
thuyết học tập Kết nối đã được giới thiệu vào năm 2005 bởi hai ấn phẩm:
Siemens: “Học như mạng sáng tạo” và Downes: “Giới thiệu về kiến thức liên kết”.
Câu 11. Hình thức trí tuệ bên trong là gì?
- Trí tuệ bên trong cũng như các hiện tượng tâm lý khác,có nhiều cách hiểu,
đó là phần suy nghĩ, tư duy của con người, bao gồm những khả năng tưởng
tượng, ghi nhớ, phê phán, lý luận, thu nhận tri thức... có thể tiến lên tới phát
minh khoa học, sáng tạo nghệ thuật.
Câu 12: Nút thắt ngành và chuyên ngành là gi?
- Nút thắt ngành: là tập hợp các ngành nghề khơng chỉ đối tượng nghề nghiệp,
có u cầu đối với người lao động khá giống nhau mà cịn có chung mục
đích hoạt động.
Ví dụ: Trong ngành y có nghề bác sĩ, nghề y tá,nghề hộ lý,.. những nghề này có
yêu cầu chung đối với người lao động là khỏe mạnh,giàu tình thương, giỏi quan
sát, tư duy logic, phán đốn,.. và đều hướng tới mục đích là phịng bệnh, chữa bệnh
và bảo vệ sức khỏe cho người dân.
- Nút thắt chuyên ngành: là chuyên về một công việc cụ thể người lao động
phải làm hằng ngày. Bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình tạo ra
những giá trị vật chất ( thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá
trị tinh thần ( sách báo, phim ảnh,âm nhạc, tranh vẽ..).
13. Đối tượng của thuyết hoạt động?
- Tính đối tượng: hoạt động bao giờ cũng nhắm đến một đối tượng nào đó nhằm
thay đổi nó, tiếp nhận nó, chuyển nó vào đầu óc mình tạo nên một hình ảnh tâm lý
mới, một năng lực mới.
- Đối tượng của thuyết hoạt động:
+ Tính chủ thể: tức tính tự giác, tích cực và sáng tạo
+ Tính mục đích: mục đích là biểu tượng của sản phẩm hoạt động có khả năng thỏa
mãn nhu cầu nào đó của chủ thể, nó điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con
người.
- Nguyên tắc gián tiếp trong hoạt động: con người sử dụng công cụ lao động,
ngơn ngữ, hình ảnh tâm lý trong đầu để tác động tới đối tượng.
- Các thành tố trong cấu trúc của hoạt động mang tính độc lập tương đối và có
sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các thành tố.
- Một hoạt động sau khi đã có được động cơ sẽ trở thành hành động cho hành
động khác.
- Để đạt được mục đích phải thực hiện một hành động. mục đích có thể phát
triển theo hai hướng:
+ Mục đích trở thành động cơ nếu nó có chức năng kích thích, thúc đẩy. lúc này
hành động biến thành hoạt động.
+ Mục đích trở thành phương tiện khi mục đích đã được thực hiện và hành động
kết thúc lúc này hành động trở thành thao tác và có thể tham gia vào hoạt động
khác.
14.Phương pháp “thử” và “sai”, trong nghiên cứu khoa học khi sai hậu quả ntn?
Trả lời:
Phương pháp :thử” và “sai” khi áp dụng vào khoa học không chỉ mang lại
hậu quả mà còn mang lại cơ hội.
Khơng ai có thể đảm bảo rằng những nhận định và lý luận của mình là hồn
tồn đúng. Nên họ cần sự thử nghiệm.
Vì vậy chúng ta có thể tìm được những cơ sở thí nghiệm, hoặc những điểm
thí điểm, ... đó là những minh chứng cho phương pháp “thử” và “sai”.
Những phát hiện sai trong quá trình thử nghiệm sẽ giúp nhận định được vấn
đề để sửa chửa.
Đôi lúc những cái “sai” so với nhận định này lại là điểm “đúng” cần tìm ở
nhận định khác.
15 . Tại sao lại nói thuyết kiến tạo đồng hóa hành vi và nhận thức?
Đồng hóa ở đây khơng là làm mất đi mà là sự tiếp nhận và đồng bộ góp phần
phát triển, cái sau sẽ tiến bộ hơn cái trước.
Vẫn tôn trọng cái tồn tại trước nó nhưng hiện diện ở dạng mới hơn trong cái
mới.
16.Vùng phát triển gần nhất, khơng có sự giúp đỡ của người khác thì khơng
làm được, nhận đình này đúng hay sai? Vì sao?
Nhận định trên là sai, vì vùng phát triển gần nhất là chỉ năng lực các em có
thể làm được.
Nhưng, khi có sự giúp đỡ của người khác thì các em nhận thức được nhanh
hơn và hồn thành nó tốt hơn là tự bản thân mình làm.
Khi các em tự làm, tự tìm tịi là q trình tự tư duy về cái mới, nên có khi sẽ
tư duy sai hay lệch hướng, vì vậy các em có thể cần người khác giúp đỡ các
em tư duy theo hướng đúng hơn.
17. Theo mơ hình của Leochev thì có nhất thiết phải làm theo tất cả các bước,
nếu như mất 1 hoặc hay bước thì có được hay khơng?
Khơng nhất thiết phải làm theo tất cả các bước, ta có thể giảm bớt hoặc có thể linh
động thay đổi các bước cho phù hợp với mục đích cần đạt.
18.
Hành động học là gì?
Có 2 dạng hành động học:
Hành động dạy học là hành động người lớn tổ chức và điều khiển hoạt động của trẻ
nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa – xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lí hình
thành nhân cách của trẻ.
Hành động học tập là hành động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục
đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xao mới, những hình thức hành
vi và những dạng hoạt động nhất định và những giá trị của nó.
19.
Thao tác học là gì?
Thao tác học là một quy trình thao tác, một hệ thống quy trình được tạo ra để
hướng dẫn và duy trì chất lượng học tập. Quy trình thao tác giúp tránh khỏi các sơ
sót, nó giúp người học và người dạy có thể phát huy và làm việc một cách khoa
học và hiệu quả hơn. Các mục đích thường gặp khi sử dụng quy trình thao tác học
là tiết kiệm thời gian, cải thiện hiệu suất học tập và rèn luyện. Ổn định chất lượng,
năng suất học tập.
Câu 20 Hành động trí tuệ là gì
- P.Ia Galpêrin là nhà tâm lý học thuộc dòng phái tâm lý học hoạt động. Trên
cơ sở lý luận và thực tiễn tâm lý học đã có, P.Ia Galpêrin đã đưa ra lý thuyết
hình thành hành động trí tuệ. Quan điểm của lý thuyết Galpêrin là : “Luận
điểm chủ yếu của giả thuyết này là coi hoạt động tâm lý là kết quả của việc
chuyển các hành động vật chất bên ngoài vào lĩnh vực phản ánh- vào lĩnh
vực tri giác, biểu tượng và khái niệm. Quá trình di chuyển ấy tiến hành theo
một số bước; ở mỗi bước có sự phản ánh mới, một lần tái hiện hành động và
sự cải tổ một cách có hệ thống hành động đó
Câu 21 . Ví dụ Trong dạy học, giáo viên chỉ ra các điểm tựa, các điều kiện để làm
đúng hành động, học sinh luyện tập và tự mình tái hiện lại chúng trên vật liệu đã
có. Nhờ đó, các em biết cách phân tích đến mức nhất định tài liệu theo góc độ hành
động sắp thực hiện.Tuy nhiên, nó có hạn chế là cách thức và điều kiện hành động
do giáo viên đưa ra đã có sẵn đối với học sinh, các em chỉ cần học thuộc và thực
hiện theo chỉ dẫn đó. Hơn nữa, các chỉ dẫn này chỉ ứng với một hành động cụ thể.
Khi chuyển sang hành động với vật liệu mới, giáo viên lại phải chỉ dẫn cho học
sinh các mốc và điều kiện mới.
Ví dụ về phương pháp Khái quát, đầy đủ, học sinh tự làm
Điều kiện định hướng - Cô viết lên bảng chữ O, rồi nói: các em xem đây này, nhìn
theo cơ, rồi chú ý viết cho thật trịn. - Học sinh vừa nhìn theo mẫu vừa viết. Kết
quả: Chữ đầu tiên viết 174 lần tập. Chữ thứ hai viết 163 lần tập Chữ thứ 20- 22 viết
17- 25 lần tập