Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Chữa ung thư tử cung theo y học cổ truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.21 KB, 8 trang )

Y học cổ truyền trong điều trị ung thư
Ung thư theo Y học cổ truyền còn được gọi là chứng nan. Theo y học cổ
truyền cơ chế bệnh ung thư phát sinh là do khí trệ, huyết ứ, đàm kết, tà độc,
kinh lạc bế tắc, công năng tạng phủ mất điều hịa và khí huyết hư tổn.
Y học thường căn cứ vào triệu chứng các chứng trạng và nguyên nhân bệnh
hoặc vào vị trí bệnh mà gọi tên. Chẳng hạn Y học hiện đại gọi ung thư lưỡi,
thì Y học cổ truyền gọi là thiệt khuẩn, ung thư môi – kén thần, ung thư vòm
họng – hầu bạch diệp, ung thư tuyến giáp – thạch anh, ung thư môn vị, hang
vị – phản vị…
Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh là do ngoại nhân và nội nhân. Nội nhân chỉ
chính khí suy nhược, âm dương rối loạn, khí huyết vận hành bất thường, cơng
năng tạng phủ suy yếu. Ngồi ra nguyên nhân ăn uống cũng gây nên sự uất
đọng trong kinh lạc và tạng phủ. Y học cổ truyền nhấn mạnh do yếu tố bên
trong gây ra các chứng lựu, chính khí suy nhược, ngoại tà thừa cơ xâm nhập
vào kinh lạc và tạng phủ ảnh hưởng đến tà khí và lưu thơng khí huyết, điều
hịa âm dương mà gây ra khí trệ, huyết ứ, đàm ngưng. Độc tích lâu ngày hình
thành u cục. Bên cạnh đó tình trạng tinh thần căng thẳng kéo dài, thói quen
ăn uống khơng điều độ đều là những yếu tố thuận lợi, phối hợp với nhau gây
nên bệnh lý u bướu. Chính khí hư tổn là yếu tố chính phát sinh ra u cục: sự
xâm nhập của ngoại tà là điều kiện để u cục phát triển. Bệnh lý u cục biểu
hiện tại chỗ khiến người ta chú ý, tại đó có các triệu chứng thuộc nhóm thực
chứng. Cịn biểu hiện tồn thân là sự suy yếu của chính khí. Vì thế ngun
tắc điều trị bệnh u bướu thường đề cập tới hai mặt: phù chính (bổ khí, huyết,
tư âm, ơn dương) và Khứ tà (giải độc tức là hành khí, hoạt huyết, hóa ứ, hóa
đàm, thanh nhiệt, giải độc, nhuyễn kiên làm mềm và tan biến các u cục).
NGUYÊN TẮC CHỮA BỆNH
Từ nguyên nhân và biện chứng người ta đi tới mấy nguyên tắc chữa bệnh
ung thư như sau:
Kiên dã tiêu chí: khối rắn phải làm mất đi.
Kết dã tan chi: những kết tụ phải làm tan đi.
Lựu dã công chi: khối u phải dùng phép cơng để chữa.


Tổn dã ích chi: các tổn thương hư kém phải dùng phép bổ để chữa.
PHƯƠNG PHÁP CHỮA BỆNH
Từ nguyên tắc chữa bệnh trên, người ta đề ra phương pháp chữa bệnh như
sau: nhuyễn kiên, tán kết, công hạ, bổ hư.
1


NHUYỄN KIÊN
Phương pháp tiêu đàm tích tụ, gồm các thuốc như: mẫu lệ, bối mẫu, côn bố,
tạo giác…
Phương pháp phá huyết tiêu ứ, gồm các thuốc như: tam lăng, nga truật, uất
kim, đào nhân, hồng hoa…
TÁN KẾT
Dùng các phương pháp phá khí như: hậu phác, chỉ xác, thanh bì, chỉ thực…
CÔNG HẠ
Dùng phép tả hạ với các thuốc hàn hạ như: đại hồng, mang tiêu, lơ hội; hay
với các thuốc nhiệt hạ như: ba đậu.
Trục thủy hạ như: cam toại, đại kích, nguyên hoa…
Thanh nhiệt giải độc tả hỏa, với các thuốc như: hạ khô thảo, thất diệp nhất
chi hoa…
Ung thư ở thượng tiêu hay dùng hoàng cầm, ở trung tiêu hay dùng hoàng
liên, ở hạ tiêu dùng hoàng bá, ở gan mật dùng hạ khô thảo, để chữa ung thư
bị bội nhiễm.
BỔ HƯ
Dùng các phương pháp bổ khí, bổ huyết, tư âm, bổ dương.
Bổ khí dùng các thuốc: nhân sâm, đảng sâm, hoài sơn…
Bổ huyết dùng các thuốc: đương quy, xuyên khung, a giao; như táo bón dùng
đương quy, hà thủ ô; giảm đau dùng bạch thược; ung thư vòm họng dùng
xuyên khung; ung thư máu dùng kê huyết đằng; ung thư dạ dày dùng a giao;
ung thư có viêm nhiễm dùng sinh địa.

Tư âm dùng các thuốc như: sa sâm, mạch môn, sinh địa, bách hợp…
Bổ dương dùng các vị thuốc như: phụ tử chế, phá cố chỉ, ba kích, nhục quế,
nhục thung dung…
* Như vậy, các phương pháp chữa bệnh ung thư của YHCT là phương pháp
bổ, phù hợp với việc tăng cường khả năng miễn giảm ung thư của cơ thể, kết
hợp với phương pháp nhuyễn kiên, tán kết, công hạ hạn chế sự phát triển
của ung thư.
Tuy nhiên với nguyên tắc phải phát huy tác dụng của phương pháp chữa
bệnh bằng YHCT còn là một phương pháp chữa bệnh chậm.
2


Để hạn chế sự phát triển của khối u cần phối hợp các phương pháp của YHHĐ
như cắt bỏ khối u, dùng xạ trị hay hóa trị giúp cho các thuốc đơng y có thời
gian phát huy tác dụng.
--

ĐIỀU TRỊ CỔ TỬ CUNG NHAM (UNG THƯ CỔ TỬ
CUNG )
Là một loại thũng lưu ác tính ở cơ quan sinh dục nữ giới. Đặc điểm lâm
sàng ,thời kỳ đầu thường triệu chứng nghèo nàn, bệnh nhân thường khơng có
cảm giác gì đặc biệt, chỉ khi thũng nham phát triển đến mức độ nhất định thì
triệu chứng mới rõ, chủ yếu là bài xuất dịch ở âm đạo, sau kỳ kinh thấy âm
đạo xuất huyết.
Thời kỳ đầu xuất huyết là do tiếp xúc, hoặc xuất huyết không theo qui tắc
nào. Khi lượng máu mất nhiều, đau dữ dội, âm đạo ra máu liên tục là diễn
biến nặng.
Hiện nay, theo YHHĐ điều trị bệnh này chủ yếu là dùng xạ trị hoặc hóa học
trị liệu, thủ thuật trị liệu, hoặc là điều trị tổng hợp. Tuy nhiên, tất cả phương
pháp trị liệu trên đều có phạm vi thích ứng nhất định và đều có phản ứng

phụ của thuốc, bệnh nhân thường khơng muốn áp dụng.
Chẩn đoán theo YHHĐ:
Ung thư cổ tử cung thời đầu khu trú ở lớp cơ, quan sát mắt thường không
phân biệt được, cần phải khám phụ khoa kết hợp kiểm tra xét nghiệm toàn
thân, xét nghiệm tế bào, sinh thiết, kiểm tra tổ chức học, soi âm đạo để chẩn
đoán sớm, biết được phạm vi của khối u.
Triệu chứng chủ yếu là âm đạo chảy máu, âm đạo xuất tiết dịch và đau nhức
buốt, mức độ nặng hay nhẹ liên quan đến thời gian sớm hay muộn.
Các giai đoạn lâm sàng (tiêu chuẩn của Hội nghị phụ khoa Quốc tế,1985 đến
năm 1988 bắt đầu sử dụng): chia làm 5 giai đoạn:
Giai đoạn 0: nham nguyên vị tẩm thấm tiền nham.
3


Giai đoạn I: xác định sinh thiết (tổn thương phát triển đến thân tử cung).
Giai đoạn II: tổn thương vượt quá cổ tử cung lan đến <1/3 âm đạo.
Giai đoạn III: u phát triển đến thành xương chậu (xâm phạm đến 1/3 âm
đạo).
Giai đoạn tiền nham thường có: loét cổ tử cung, ban đỏ kết hạch lồi ra hoặc
loét nát.
Dựa vào mức độ phát triển người ta chia làm 3 mức:
Nhóm ngồi sinh dục, thể tựa như dạng hoa.
Nhóm trong sinh dục, nhóm kết hạch.
Nhóm loét mụn.
Theo quan niệm YHCT:
Bệnh cổ tử cung nham thường được mô tả trong các phạm trù, “băng lậu”
“đới hạ” “tạp sắc đới”. Nguyên nhân chủ yếu là do 3 tạng: can, tỳ, thận bị
tổn thương làm cho thấp nhiệt - nhiệt độc ngưng tụ ở bào cung. YHCT cho
rằng: “ bệnh thuộc về bản hư, tiêu thực”.
Điều trị bệnh vừa phối hợp thuốc uống trong, vừa phối hợp dùng ngoài, nâng

cao chức năng miễn dịch của cơ thể, phù chính, bồi bản, tiêu lưu kháng
nham, bảo tồn chức năng sinh dục và chức năng sinh lý bình thường của cơ
thể. Ngồi ra, có thể phối hợp hóa trị liệu, xạ trị để giảm bớt tác dụng phụ,
cải thiện chứng trạng, nâng cao hiệu qủa, kéo dài đời sống cho bệnh nhân.
Hiện nay, điều trị ung thư cổ tử cung phải dựa vào giai đoạn lâm sàng của
YHHĐ với biện chứng luận trị Trung y.
Ví dụ: thể “can thận âm hư” đa phần thuộc thấp nhiệt hạ trú, khí âm lưỡng
thương; thể kết hạch đa phần thuộc khí trệ huyết ứ. Hiện nay, người ta dùng
đơn thuần thuốc Trung dược có thể điều trị khỏi nham chứng trước khi có
biến chứng di căn.
4


Muốn đạt hiệu quả phải kết hợp hóa trị liệu, phóng xạ trị liệu hoặc điều trị kết
hợp với phẫu thuật, vận dụng thuốc thảo mộc có thể giảm được các biến
chứng phản ứng của đại tràng ,bàng quang, trực tràng. Tùy theo từng thời kỳ
mà vận dụng thuốc uống trong, thuốc dùng ngoài hay kết hợp cả hai.
BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ:
Những điểm trọng yếu biện chứng:
Đặc điểm bệnh sinh của cổ tử cung nham là bản hư tiêu thực, hoặc hư thực
phối hợp nhưng phần nhiều là chứng hư. Vì vậy phải bổ ích xung nhâm, bồi
bổ can thận tỳ là phép tắc chủ yếu:
Kiện tỳ ích khí, tư bổ can thận, phù dương cố thể (bản) chi pháp.
Khí - huyết ứ trệ, nhiệt độc trệ lưu, hình thành tích tụ là tiêu thực.
Ứng dụng lý khí hoạt huyết, hóa ứ nhuyễn kiên, trừ thấp giải độc, kháng
nham tiêu lưu.
Phương pháp điều trị:
Phải nắm vững tà chính thịnh - suy; chọn dùng trước công, sau bổ, công bổ
kiêm trị (thường thời đầu phải công, thời kỳ sau phải bổ). Nhìn chung khơng
kể sớm hay muộn đều phải chọn các vị thuốc kháng nham.

Biện chứng phương trị giai đoạn đầu:
Thể khí uất thấp khốn:
Ức uất thương can, can khí uất kết, uất lâu thương tỳ, thủy thấp lâu thương
tỳ, thủy thấp nội đình uẩn kết xung nhâm dẫn đến bệnh. Nhìn chung hệ
thống thần kinh trung ương thất điều, chức năng của hệ thần kinh thực vật bị
rối loạn là chủ yếu, tình chí uất ức phiền táo; ngực, sườn chướng đầy, bất
thử, tức nhiều, ăn kém (nạp ngại), đới hạ bất chỉ, đục hoặc hồng, mạch
huyền; lưỡi hơi xám, rêu trắng mỏng hoặc vàng mỏng.
Phương pháp điều trị: sơ can lý khí, lợi thấp giải độc.
5


Phương thuốc thường dùng: “tiêu giao tán” gia thêm: bạch hoa xà thiệt thảo,
bán chi liên, sinh ý dĩ nhân, sơn đậu căn.
Thể khí - huyết ứ trệ:
Tại chỗ tẩm thấm là chính thuộc kết hạch, triệu chứng tồn thân nghèo nàn,
đa phần do quá tổn thương thất tình, uất nộ ưu tư, khí trệ huyết ứ lâu ngày
thành kết, thường thấy đới hạ không nhiều cát hữu thấp hạ; tại chỗ bệnh lý
cổ tử cung rắn chắc, mạch huyền hoặc tế, đầu lưỡi hoặc rìa lưỡi có ban điểm
ứ huyết, rêu trắng mỏng.
Phương pháp điều trị: hoạt huyết - hóa ứ, nhuyễn kiên - tán kết.
Phương thuốc: “hoạt huyết kháng nham thang”, “kháng nham tán”.
Đương qui

Trạch lan

Hổ trượng

Ô dược


Bạch thược

Xích thược

Hương phụ

Đan sâm

Phục linh

Trạch tả

Bạch mao đằng

Bạch hoa xà thiệt thảo.

Thể thấp nhiệt ứ độc:
Thấp uẩn hóa nhiệt, lâu mà kết độc, ứ trở bào lạc mà thành; đa phần ung thư
cổ tử cung do viêm nhiễm, đới hạ lượng nhiều, vàng trắng xen lẫn chất dính
có màu sắc như socola; khí tắc nếu kiêm huyết ứ thành cục, lưng mỏi, bụng
6


trướng đau, miệng khô đắng, tiểu vàng, đại tiện táo, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng
dày nhờn, mạch huyền sác hoặc huyền hoạt sác.
Phương pháp điều trị: thanh nhiệt lợi thấp - giải độc hóa ứ.
Phương thuốc: “bát chính tán hố nhiệt”, “giải độc kháng nham
thang”.
Biện chứng phương trị giai đoạn sau:
Thể tỳ thận dương hư:

Lịch sử bất tiết, đa sản thương thân, xung nhâm khí - huyết trở trệ, nội kết ứ
độc; bệnh lâu ngày đới hạ băng lậu tiêu hao nhất định, toàn thân suy kiệt.
Lâm sàng phần nhiều đới hạ như nước, kinh nguyệt băng trung trọc hạ thần
quyện (mệt mỏi, vận động khí đoản), tứ chi khơng ấm, nạp ngại tiện lỏng,
niệu trong dài, mạch tế, lưỡi nhợt bệu mềm, rêu trắng mỏng nhờn.
Phương pháp điều trị: bổ thận kiện tỳ - ơn hóa thủy thấp - cố sáp chỉ
đới.
Phương thuốc: “Nội bổ hoàn”, “sâm linh bạch truật tán”, “kháng nham phù
chính đan”, hồng kỳ, khuẩn linh chi, ô tặc cốt, sao tây thảo căn, tử hà sa, a
giao, giác phiêu giao, lộc giác xương, huyết dư thán, sinh mẫu lệ, tang phiêu
tiêu.
Thể can thận âm hư:
Do thấp nhiệt uất kết, ứ độc trong cơ thể lâu ngày gây tổn thương phần âm,
can thận hao tổn xuất hiện triệu chứng nhiễm độc. Lâm sàng thấy âm đạo
xuất huyết không theo qui tắc, đới hạ vàng trắng, đầu choáng, tai ù, lưng
đau mỏi, miệng khát, tự hãn (mồ hơi trộm), tiểu tiện sáp đau, đại tiện bí kết,
lưỡi đỏ rêu sáng hoặc vàng nhờn, mạch tế sác, huyền tế sác.
Phương pháp điều trị: tư dưỡng can thận - giải độc tán tích.
Phương thuốc: “bổ trung ích khí thang” gia thêm thuốc kháng nham.

7


Giai đoạn sau của bệnh cổ tử cung nham diễn biến phức tạp, tà chính tương
tranh, phải kết hợp cơng bổ kiêm trị, tham khảo thêm các bài thuốc nghiệm
phương, để biện chứng luận trị.
Nếu kết hợp xạ trị và hố dược trị thì phải chú ý các biến chứng phụ thường
gặp.
Phản ứng trực tràng: khi xạ trị nhiệt độc đều tổn thương trung tiêu thấp nhiệt
trở trệ, tỳ hư khí nhược, huyết mất thống nhiếp.

Phản ứng lúc đầu: lỵ cấp hậu trọng ngày tới 10 lần hoặc hơn, phân lẫn niêm
dịch hoặc ra máu tươi, có khi tiện lỏng như nước, lưỡi có gai hồng, rêu vàng
nhờn, mạch tế sác. Điều trị phải thanh nhiệt - giải độc, kiện tỳ hóa thấp
thường dùng “bạch đầu ơng thang” gia vị, giai đoạn sau phải dùng “sinh
mạch tán” hợp với “bạch đầu ơng thang” gia vị (bạch đầu ơng, tần bì, hoàng
liên, hoàng bá).
Phản ứng bàng quang: phải dùng “tri bá địa hồng thang” gia thêm: biển
xúc, mộc thơng, sa tiền tử. Nếu niệu huyết phải hợp phương “Tiêu kế ẩm tử”
hợp “nhị chí hồn” (nữ trinh tử, hạn liên thảo).
Biến chứng bạch cầu giảm:
Dương hư: phải ôn thận kiện tỳ, ích khí dưỡng huyết; thường dùng “qui tỳ
thang”, “bổ trung ích khí hoàn”, “du thang” (thục địa, đương qui, đẳng sâm,
bạch thược, xuyên khung, hoàng kỳ).
Âm hư: phải tư âm thanh nhiệt, ích khí sinh tân, thường dùng “tri bá địa
hoàng thang” + “sâm mạch tán”.
Nếu tâm phiền, thất miên thì thêm: hồng liên, bá tử nhân, dạ giao đằng, thủ
ơ đằng.Nếu tiểu đỏ đau thì thêm: đại kế, hồng bá, ích nguyên tán; đại tiện
táo thêm qua lâu nhân.

8



×